Friday, December 31, 2010

Đạo Phật 6- Giống Như Trò Chơi...!

(Hay: Đạo Phật Là Đạo Của Tâm Thức Con Người).

Tôi vốn dĩ không phải là người cầm bút chuyên nghiệp, mà chỉ là một giáo viên trường làng đã buông rơi cây viết từ lâu và chọn cây cuốc làm phương tiện sinh sống. Nay nhờ duyên may tập tành viết để chia sẻ cùng bạn về một vài vấn đề tôn giáo, nhất là Đạo Phật mà tôi đã chọn để an ủi, làm chỗ dựa cho tâm hồn trong những ngày tháng còn lại của cuộc đời. Tôi mạnh dạn làm việc nầy vì tôi thấy mình là kẻ mới bắt đầu tìm hiểu về Đạo nên trình độ chưa là cao cho nên viết chia sẻ với bạn thì có thể bạn sẽ dễ hiểu hơn, và bài nầy cũng phải được một vị chân tu duyệt qua. Nếu bạn được đọc là nó cũng có lý; tất nhiên, nếu không có lý thì nó đã bị bỏ qua một bên rồi. Bạn đồng ý với tôi chứ?
Tôi không biết bạn lúc nhỏ có cùng bạn bè tắm suối, tắm rạch hay sông hồ không? Chứ hồi tôi còn nhỏ ở xã tôi có con suối không lớn lắm mà lại dơ nữa, nhưng cũng đủ là nơi để cho tôi và các bạn tôi tập bơi và vui chơi. Chúng tôi chia phe cùng nhau tát nước vào mặt vào người. Đa số đều lớn hơn tôi. Vì chúng tôi nhỏ nên dễ bị thua, thua thì mình chạy, bơi đi chỗ khác; nhưng các bạn mạnh hơn vẫn tìm theo nhận đầu mình xuống cho uống nước. Tôi thì không khóc, nhưng có một số bạn khóc la chửi ỏm tỏi. Khi chơi xong, chúng tôi lên bờ ngồi thở hổn hển, thế mà: "Hồi nãy chơi vui quá hen, mai mốt chơi tiếp" và chúng tôi gom quần áo đi về mà lòng còn hớn hở. Bây giờ nhớ lại chuyện ấy tôi liên tưởng đến một vấn đề.
Vào một buổi đi nghe thuyết pháp, vị Thượng Tọa có kể lại: Khi Đức Phật Thích Ca vừa ngộ được đạo, thì Ngài lại muốn nhập diệt vì thấy chúng sanh trong thế gian nầy khó độ, nhưng vì chư thiên mãi yêu cầu cho nên Đức Phật phải nói pháp và hành đạo trên 45 năm. Lúc đó, tôi cứ thắc mắc mãi: "Tại sao chúng sanh lại khó độ"? Và tại sao Lão Tử lại nói "Thiên hạ vô sự". Vì công việc làm ăn của tôi hãy còn quá bận rộn nên không có thì giờ để đọc sách nữa, chứ đùng nói đến chuyện đi tìm sách để tìm hiểu, nghiên cứu. Thế rồi ngày lại qua ngày, sau những buổi "trà dư tửu hậu", kể chuyện làm ăn, nhà cửa, xã hội đến chuyện chơi lúc nhỏ với bạn bè. Khi tôi kể về chuyện đi tắm suối mà tôi vừa viết ở trên, tôi bỗng vụt nhớ đến điều như tôi sẽ viết ra đây.
Quả thực là "thiên hạ vô sự", nếu chúng ta đứng ngoài sân khấu nhìn những diễn viên đang diễn tuồng trên sân khấu, đào thương đóng vai khổ sầu, liên miên họan nạn; đào độc có những hành vi tàn nhẫn, thái độ hung hãn, dữ dằn; người trung nét mặt hiền hậu, lời lẽ ôn hòa nhưng cứ mãi bị dèm pha; tôi nịnh thì khúm núm, tìm lời đâm thọc, vu oan giá họa cho người, tìm cách hại hiền thần; người vua kẻ lính và phe bên nây đánh bên kia; quân bên nầy đánh giết lính bên nọ; dân chúng lầm than, nhà cửa bị thiêu hủy... Dù thế nào đi nữa cũng chỉ là một vở tuồng, xong ra rồi thì ai như nấy, vui vẻ cùng nhau. Như vậy vở hát chỉ là vở hát để cho vui, mỗi người đóng vai tùy theo khả năng và ý muốn của họ. Thế là sau khi hát, thiên hạ không có gì để nói cả, đúng là thiên hạ vô sự- giống như chúng tôi chia phe tát nước, trong cuộc chơi thì cố gắng tát, nhận đầu uống nước sặc sụa, khóc la. Sau đó thì "vui quá hen, mai mốt chơi tiếp". Chữ "mai mốt" đó là lời hứa hẹn của một trò chơi mới, một vở kịch mới hoặc là ở một kiếp sau, một kiếp sẽ tái sanh. Giả sử hôm nay tôi bị thằng bạn nó nhận đầu tôi uống nước, ngày mai tôi là kẻ mạnh "nhất định tôi phải bắt nó uống nước lại trừ. Nếu ngày mai nó là con mèo, tôi vẫn cho nó uống nước mới hả giận lòng tôi"! Thế là cứ "oan oan tương báo". Mà nếu nó đang ở trong tay tôi, tôi sắp nhận nước nó, nó lại vùng vẫy thoát ra đươc, chạy lên bờ; tôi cũng phải rượt đuổi lôi nó xuống cho kỳ được: "Nhất định nó phải bị uống nước". Nếu có ai can ngăn, tôi có thể cự người đó. Sự yêu mến, thích nhau cũng hứa hẹn cho "một ngày mai" hoặc kiếp lai sinh. Điều ấy thực là khó khuyên giải, khó phân tích lợi hại cho họ nghe. Thế là "chúng sanh khó độ".
"Vui quá hen, mai mốt chơi tiếp" thể hiện một sự tự nguyện, gia nhập cuộc chơi, chấp nhận mọi sự thua thiệt, khổ đau, hay thắng lợi với một niềm vui hớn hở giống như người đóng vai trong tuồng hát rất thích hợp với khả năng của mình. Điều ấy cho ta hiểu rằng vai trò là do "chính ta mong muốn và lựa chọn". Sự tái sanh, lăn lộn trong sáu nẽo luân hồi là cũng là ý mình muốn mà thôi!
Có một lần, cũng ở trên làng quê tôi, cứ 3 năm đáo lệ người Tàu làm lò chén hùn nhau lại gọi là cúng "công xi", tức là cúng chùa Ông (thờ Ông Quan Công). Trong buổi rước lễ có tục "lắc Ông Bổn". Vào năm đó, tôi cũng tham dự vào. Thực sự ra Ông Bổn gỗ để ngồi trên kiệu không có nhập vào người khiêng để bắt họ lắc, mà chỉ do người khiêng tự nguyện lắc kiệu thôi. Điều đó coi như là một cuộc vui. Người khiêng mang một tâm lý Ông Bổn thì phải lắc, mình khiêng Ông Bổn thì mình lắc, giống như Ông Bổn nhập vào làm cho mình lắc kiệu, như vậy có vẻ linh thiêng hơn. Sau khi ra đến đồng trống bắt đầu cho cuộc lễ, người ta đốt nhang cúng vái. Hương nhan ngầy ngật, 3 đứa chúng tôi cảm thấy hứng khởi kháo nhau để lắc, nhất là lắc để dí đuổi các đào kép hát bội đóng vai "Bát Tiên" chơi. Tôi nói 3 đứa tụi tôi, vì 3 đứa đều là thanh niên, còn một người nữa thì vào tuổi trung niên, tôi gọi là Bác Hai. Hai người bạn tôi ở đòn phía sau kiệu, còn tôi và Bác Hai ở đòn trước kiệu. Cả 3 chúng tôi cố lắc, còn Ông Bác tôi kềm lại. Tôi không biết tại sao ông Bác tôi không lắc mà lại kềm. Đi hơn nửa đoạn đường, khi ngồi nghỉ mệt, Ông Bác tôi mới nói nhỏ với tôi: Con đừng lo để Bác kềm cho, lắc nhiều mệt lắm! À thì ra! Bác thương tôi mà kềm kiệu lại, vì Bác nghĩ hai đứa bạn tôi muốn lắc kiệu chứ tôi không thích, mà chỉ là nạn nhân, nên Bác phụ tôi. Tôi nghe mà ái ngại trong lòng vì cả 3 thằng thanh niên làm khổ Bác tôi. Tôi nói với hai đứa bạn kiếm đứa khác thế chỗ cho ông Bác. Điều ấy khiến cho tôi sau nầy mới hiểu được nỗi lòng của Đức Phật. Chúng sanh đang muốn chơi trò lặn hụp, khổ đau, trôi nỗi, chìm đắm... trong vùng nước mà Ngài gọi là "bể khổ", nếu mà Ngài đến để khuyên chúng đừng chơi nữa, lội vô bờ đi! Thì có lẽ chúng nó sẽ không nghe mà còn muốn lôi Ngài nhập vào cuộc để chơi với chúng. Ngài đã thấy rõ, do đó Ngài muốn nhập diệt, chứ không như Lão Tữ bỏ cuộc đời đi vào núi mà nói vói lại sau lưng "Thiên hạ vốn vô sự", còn các vị khác nhập vào cuộc đời để bị chúng sanh đóng đinh trên Thập Tự gíá, hoặc nhốt vào tù gần 50 năm như "Baha’u’llah" của Đạo Baha’i. Đức Phật đã hiểu được sự hung hãn của chúng sanh, nên Ngài đã từ tâm, hòa mình vào một cách từ tốn: Ngài chỉ là một "Đạo sư". Ngài cũng như bao nhiêu người khác, người khác cũng đồng bản thể với Ngài; nếu ai nghe lời, tín nhiệm Ngài đi theo con đường Ngài chỉ cũng sẽ là Bậc Giác Ngộ như Ngài, thế mà Ngài cũng chẳng thoát khỏi hoạn nạn từ một số chúng sanh đem đến cho Ngài.
Trong Kinh Pháp Hoa Ngài đã dẫn ra hai ví dụ: Một- Đứa con có cha giàu mà không biết lại muốn bỏ đi lang thang, tìm đau khổ giống như chúng sanh do sự u mê mà rời cảnh sung sướng để bước vào cuộc khó của trần gian. Hai- là những đứa con mãi mê chơi trong nhà lửa của tam giới (Tam giới như hỏa trạch), nhà cháy rồi chúng hãy mãi vui chơi. Đức Phật mới dẫn dụ chúng bằng những cỗ xe: xe dê, xe hươu, xe trâu. Khi chúng ra ngoài rồi Ngài cho cỗ xe lớn nhất, sang trọng nhất là Phật thừa. Thế mà Ngài còn hỏi Xá Lợi Phất: Như vậy Ông Trưởng giả có lỗi hư vọng không? Quả thật cao cả vô cùng! Tìm cách dẫn dụ chúng sanh để cứu chúng sanh, đem đến cho chúng sanh cái quý nhất, tốt nhất, hạnh phúc nhất mà lại còn ái ngại là mình “có nói láo hay không?”. Có sự từ tốn, thân thiện và đạo đức nào hơn?
Một cách thông thường khi nói về Đạo Phật thì người ta thường nghĩ đến cái chùa, các nhà sư hoặc ni cô hay các chú các cô hoặc hình tượng Đức Phật, hay các tạng Kinh, Luật, Luận, tức là những gì gọi là Thế gian trụ trì Tam Bảo, mà ít ai nghĩ đến Xuất thế gian Tam Bảo để mình có thể hiểu được cái lý trong Đạo Phật, để thấy được mục đích mà mình sẽ tiến đến trong nếp sống Đạo hạnh của mình và đạt được cứu cánh đồng thể: Những gì Đức Phật có thì chúng sanh cũng có. Đức Phật đã giác ngộ thì chúng sanh có thể giác ngộ. Đức Phật trở về với Tâm thanh tịnh thì chúng sanh cũng có thể trở về với Tâm thanh tịnh. Đức LụcTổ Huệ Năng đã diễn tả về cái Tâm, cái Tự Tánh ấy như sau:
Hà kỳ Tự Tánh bổn tự thanh tịnh
Hà kỳ Tự Tánh bổn bất sanh diệt
Hà kỳ Tự Tánh bổn tự cụ túc
Hà kỳ Tự Tánh bổn vô động diêu
Hà kỳ Tự Tánh năng sanh vạn pháp.
Cái Tâm của ta tự nó vốn là thanh tịnh, không sanh không diệt, tự nó không lay chuyển, có đầy đủ cả, nhưng mà "năng sanh vạn pháp" quyền biến vô cùng.
Cái Tâm, Tự Tánh hay Phật Tánh là khởi điểm và cũng là cái sau cùng trong Đạo Phật. Nhưng chỉ khác đi một chút thôi: Phật tánh vì u mê (do u minh) mà ra đi, và khi trở về chỗ cũ bằng sự giác ngộ. Chúng sanh là u mê; Phật là giác ngộ, thế thôi!
Nói đến đây, tôi nhớ có nhiều lúc tôi ngồi một mình, rồi bỗng dưng chợt nghĩ một điều, xong tôi lại tức cười cho chính tôi. Có lẽ trời sanh tôi ra ban cho tôi một sự liên tưởng. Thấy hoặc nghe cái gì lại nhớ các điều gì đó trong quá khứ hoặc ý tưởng hoặc chuyện nào ở đâu đâu. Nhân nói chuyện ra đi và trở về, tôi lại nghĩ đến những điều mà Đức Phật đã ví dụ cuộc đời nầy giống như là bể khổ, rồi mê tân rồi bến giác. Nếu bạn thấy không phiền hà tôi xin kể cho bạn điều tôi suy nghĩ về chuyện ấy.
Này bạn ạ! Bạn cứ nhớ Phật tánh của Đức Phật và của chúng sanh trong đó có chúng ta đều đồng thể, tất cả không khác. Phật tánh của mọi người đều ngồi trên bờ sông tại một bến nước nọ. Thoạt đầu có người nghe nước chảy nghe vui, hay thấy nước trong có vẻ mát, người ấy bước xuống bến, bây giờ bến ấy được Đức Phật gọi là bến mê (mê tân) và đi vào dòng nước. Họ bị dòng đời lôi cuốn, lúc chìm lúc nổi, lúc họ có cảm giác sung sướng, lúc đau khổ; rồi họ bắt đầu một cuộc chơi với các người khác, rồi đánh nhau, đủ thứ chuyện như trong cuộc đời nầy, tức là chìm đắm trong bể khổ (khổ hải). Có người lúc thì ở trên mặt nước, có người chìm đắm sâu xuống đáy, có người lưng chừng, đó là Lục đạo luân hồi. Cuộc chơi ở đó có nhiều khổ hơn vui, nhưng người nào thích thì ở lâu hơn, còn người nào thấy chơi hoài chán quá thì bình tâm tỉnh trí sẽ hướng về bờ (hồi đầu thị ngạn) và lội về bờ bên kia (giác ngạn) để bước lên thành bậc Giác ngộ, là Phật. Do đó mà câu chú để kết thúc bài "Ma ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh" là "Yết đế, yết đế, Ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha" giống như lời kêu gọi một sự đồng nhịp "hò dô ta" để cùng nhau đẩy thật mạnh tốc độ tiến về bờ giác bên kia.
Nếu tôi không có cơn bệnh làm cho tâm trí tôi khủng hoảng vô cùng, thì chắc tôi không thể hiểu được bài nầy, vì bạn chỉ hiểu được khi nào bạn có cảm tưởng mình không có còn thân xác nữa. Lúc mà bạn đau đớn, quá buồn chán hay thân xác trở nên yếu đuối thì bạn mới thấy linh hồn, Tâm hay Phật tánh của mình là "Diệu hữu" (có một cách kỳ diệu). Lúc ấy, bạn mới biết khởi nguồn Phật tánh không có thân xác, tức là "vô hình vô tướng" ở cõi "Thanh tịnh chân không". Nhưng vì sự u minh làm Phật tánh u mê mà muốn mang danh sắc bước vào vòng "tục lụy". Thế là có thân xác, từ thân xác mới có lục căn, rồi lục trần... theo Thuyết Thập Nhị Nhân Duyên (Vô minh-Hành-Thức-Danh sắc-Lục căn-Xúc-Thọ-Ái-Thủ-Hữu-Sanh-Lão, Tử). Người tu hành nhằm bỏ đi cái "ngã", đầu tiên là Ngã Chấp, Ngã mạn; hai là cái Ngã thân xác. Nếu người bình thường họ thấy cái thân xác, cái ngã chấp của họ là quan trọng thì họ mới giành giựt, sát sanh..v..v.. để đem về cho họ cái ngon nhất, cái sướng nhất, lợi nhất bất chấp mọi thủ đoạn, mọi cách. Còn nhà tu coi cái xác có cũng như không, có cũng được mà không cũng được (sắc bất dị không, không bất dị sắc) thì những thứ tùy thuộc vào thân xác như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân dù có thì cũng sẽ là "như không". Như vậy sẽ không còn thấy là đau khổ nữa.
Cái pháp của Đức Phật là nhằm đem chúng sanh trở về với Phật tánh ban đầu qua sự Giác Ngộ (tức là Phật, là Bồ đề). Mà Phật tánh vốn vô hình vô tướng, tự nó đã thanh tịnh, không sanh không diệt, tự nó có đủ mọi thứ, không lay chuyển nhưng nó có quyền biến vô cùng (năng sanh vạn pháp). Do đó các pháp cũng tùy thuộc vào tính chất từng giai đoạn của Phật tánh. Mặc dù Phật tánh là đồng thể nhưng thể hiện ở mọi chúng sanh qua thân xác lại khác nhau và pháp cho mỗi chúng sanh cũng lại biến chuyển thích hợp theo họ. Cho nên pháp vốn không nhất định và Pháp chỉ là chiếc thuyền để chở cái xác đi, khi xác không còn thì thuyền cũng mất giống như người chăn trâu và con trâu trong "Thập mục, ngưu đồ".
Như vậy, Bạn đã thấy Đạo Phật là Đạo mà Đức Thích Ca đã qua Thiền định để có được Trí Huệ, nhìn sâu vào Tâm Thức; và Ngài cố phân tích, giảng giải một cách khoa học từ lúc Phật tánh bị màng vô minh làm u mê để bước xuống mê tân đi vào vòng Thập nhị nhân duyên, rồi bị luân hồi, tái sanh trong bể khổ, chịu cảnh sanh lão bệnh tử, khổ. Cho nên, Ngài đã suy tư, tìm thấy được Tứ Diệu Đế, và chỉ cho chúng sanh cách Diệt khổ để trở về với Giác ngạn và đạt được Đạo Vô Thượng Bồ Đề.
Từ đó, ta thấy Phật Thích Ca tìm thấy được Đạo Giác Ngộ là tự trong Tâm thức của Ngài, cái pháp của Ngài giảng cũng là cho Tâm thức, để chúng sanh đem Tâm thức của mình trở về với sự Giác Ngộ. Cho nên, tôi dám khẳng định một điều: "Nếu con người có linh hồn (hay Tâm thức), thì con người sẽ có Đạo Phật. Tâm thức siêu thoát hay tại thế, Đạo Phật cũng sẽ gắn liền với Tâm thức".
Do đó "Khi nào chúng sanh còn có Tâm thức thì Đạo Phật hãy còn, dù ở bất cứ thế gian nào và ở đâu trong "Tam thiên đại thiên thế giới" hay cõi vũ trụ nầy".

Nguyên Thảo,
19-04-01.

Sợ

Ông Trời mới thật là lạ! Không biết Ông nghĩ thế nào mà đã sinh ra con người; xong, lại khiến cho con người cái bịnh "sợ". Sợ không phải chỉ trong thời còn con nít, đến ngay khi cả lớn lẫn già cũng hãy còn sợ. Thậm chí lúc gần chết, người ta cũng chẳng ngán cái sợ bao giờ! Thật là quái đản! Không biết Ông có ỷ mình là Ông Trời mà Ông cố tình ban cho con người như vậy hay không? Hay là Ông lại "sợ" con người đầy đủ trí khôn, mạnh lên rồi chiếm mất vị trí của Ông đi chăng? Nếu thế thì Ông cũng lại sợ nữa rồi! Thì ra Ông tạo con người để cho giống Ông! Quả thật là Ông thông minh thật! Con không giống cha thì đâu phải là con, nên con người giống Ông cũng chẳng có gì là lạ! Thôi bây giờ không thèm phân tích với Ông nữa, không khéo Ông lại bảo: Đúng rồi! Đúng...Tụi bây đúng là con của tao sinh ra, tao sinh ra cả lủ, tao muốn tụi bây tiếp tục sinh sản thêm ra cho đầy mặt đất, nhưng mà tụi bây phải biết sợ tao cũng như tao biết sợ tụi bây vậy. Chúng ta là Một, cũng là cha với con mà!
Ôi! Quả thật là sợ, sợ tràn lan khắp chốn, từ trẻ cho đến già, từ cá nhân cho đến đoàn thể, từ độc lập cho đến đảng phái... Sợ hiện diện ở khắp mọi nơi kể cả trong loài cầm thú sâu bọ. Nếu không sợ ma sợ quỷ, thì cũng sợ chết, sợ bị thương. Nếu không sợ bị cướp mất những gì của mình sở hữu thì cũng sợ sự thật, sợ Chân lý. Kể cả những người làm cho Chân lý cũng sợ cái Sự thật của chân lý! Đó mới là điều oái oăm! Người ta sợ sai lầm, khuyết điểm để rồi che dấu sai lầm, khuyết điểm "như mèo dấu c..". Thế mà, tại sao Ông Trời không để cho loài mèo cai quản thế gian nầy, có vậy có thể sẽ được tốt hơn không?
Con người là loài có nhiều trí khôn nhất, Ông trời ưu tiên như thế đó. Nhưng ai biểu Ông lại tạo cây biết điều Thiện Ác ở giữa vườn địa đàng để làm gì? Và Ông nghĩ như thế nào lại tạo nên con rắn thông minh như thế đó. Nó đâu có ăn trái cấm như con người đâu, mà sao nó lại biết ăn trái cây ấy sẽ được mở mắt ra và khôn như Ông Trời để rồi nó dụ người nữ. Ôi! Quả thật Ông chính là Ông Trời có khác!
Thôi, thì cũng do Ông mà Đồ tôi lúc nhỏ không dám đi chơi khi mẹ bắt phải coi chừng nhà, mặc dù cửa nẻo có khóa kỹ càng vì sợ chúng ăn trộm cạy cửa chun vào trộm mất đồ đạc, chứ không sợ người ta "rinh" nổi cái nhà. Lại nữa, Đồ tôi cũng không dám đi xa, chỉ chơi lòng vòng chung quanh; chơi ở chỗ nào mà có thể trông chừng được cái nhà. Thế là Đồ tôi chỉ chơi chung với đám con gái, chơi đánh đủa, đánh sò, nhảy cò cò... có khi kiêm thêm nghề giữ em, như vậy Đồ tôi bị bịnh sợ má về nhà không thấy mình coi chừng nhà thì lại bị đòn, do đó Đồ tôi thân khá "trộng" mà lại sợ cái roi bé tí xíu. Có những lúc, có người giữ em, giữ nhà Đồ tôi lại được đi theo bạn bè lang thang trên đồng ruộng bắt cá lia thia, tát cá, mò cua; hái trái trâm dọc theo các đường nước; đi tắm suối hoặc đi lên gò để đào dế, hái trái táo gai, trái cơm rượu, trái mua, trái sim tùy theo mùa; vào rừng để hái trái giấy, trái bứa, trái cù lần, trái săn mã, trái trường, trái gùi, cơm nguội, trái xay. Lại có hồi cùng nhau đi ăn cắp điều, mít, hồng quân, ổi... rồi lại sợ người ta bắt; thoáng thấy bóng người đi ra hô nhau chạy. Đi ngang đồng vắng, gò mã thì lại sợ ma. Đến lúc một lủ kéo nhau về thì chui vào mấy lò chén ăn cắp đất sét để nắn đồ chơi thì người ta dí chạy vì sợ bị bắt, rồi "mắng vốn" thì sẽ bị đòn. Chơi rồi kéo nhau xuống nhảy mạch để tắm, làm dơ nước uống nước xài của cả xóm, người lớn thấy rượt bắt, nên sợ chạy có cờ, chạy té khói chẳng kể hàng rào, bụi gai.
Ban đêm có trăng thì tụ tập chơi u bắt mọi, đánh khăn, kéo co, trốn bắt... Xong rồi ngồi nói dóc hoặc kể chuyện ma, nghe thì khoái đến tối ngủ cứ tưởng nhớ rồi không dám ngủ, hoặc phải kéo mền trùm đầu kín mít vì sợ có con ma nào tới nhát, ngay cả nữa đêm đi tiểu cũng phải ngập ngừng, không dám dậy. Cứ nằm trăn trở mà nhìn vào bóng đêm!
Thời con nít thì cứ hay sợ như vậy, cứ mong cho mình mau lớn để mình được đỡ sợ hơn. Nhưng rồi cái sợ mà ông Trời ban cho cũng biến đổi theo từng thời gian; ba má bây giờ thì đã ít đánh đòn, nhưng lại sợ bị rầy bị la có khi bị mắng bị chửi; kẻ lớn thì ít ăn hiếp, nhưng không khéo thì bị lợi dụng, bị lừa bị gạt. Trên đường đi học thì sợ bị "dính" vào chỗ giựt mìn, bị lọt vô giữa vòng hai phe đang đụng trận; học thì sợ dở, nhưng mà ngu quá thì biết làm sao đây! Trưa nắng đi tắm sông mình thì không sợ, nhưng những người lớn thấy họ sợ cho mình bị chết đuối, họ cản ngăn mà ý mình không thích. Học đến kỳ thi thì lại sợ không làm bài được, bị điểm thấp sẽ bị ở lại. Đến những kỳ thi tuyển, tốt nghiệp thì xúm nhau học trối chết vì chỉ sợ rớt. Học quên ăn, quên ngủ, học đến xanh xao vàng vọt, ba má sợ đành kêu đi mua thuốc uống hay đi khám bịnh, thế vẫn chưa chịu đi vì sợ tốn tiền. Lớn thêm chút nữa thì lại bắt đầu biết yêu, thấy cô nàng vừa ý, hợp nhãn bắt mắt lại cảm thấy bồi hồi, tim đập thình thịch mà sợ, không biết làm sao để nói, rồi cắn đắn so đo mình nghèo mình giàu, học giỏi học dở, mình xấu xí chẳng điển trai, sợ nàng không ưng thì buồn lắm! Mà không nói thì thằng nào khác rước mất thì sao? Nghĩ thế mà cứ buồn, cứ lo cứ sợ. Ráng suy nghĩ, tính đi tính lại để phải nói thế nào: Hoặc viết thư, hoặc nói, hoặc nhờ bạn bè, hoặc kiếm cơ hội để tỏ được nỗi lòng ít ra cũng phải một lần, nhưng lại sợ nàng không chịu thì đau lòng quá đi thôi! Làm trai lớn lên cũng lắm nỗi niềm để sợ. Nhưng cái sợ nhất vẫn là tới tuổi động viên. Nhất định phải ráng lo học để thi đậu mà nắm cái chứng chỉ hoãn dịch mặc dù chỉ là một năm. Những bạn bè thi rớt phải lên đường nhập ngũ tùng chinh, coi cái chết "tợ như lông hồng", tụi nó hát bài gì đó: "Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi, Dục ẩm tì bà mã thượng thôi, Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi". Kẻ thì vào quân ngũ, kẻ thì trốn lính, kẻ thì lo chạy đi kiếm nghề, "chun" đại vào cái nghề nào đó để được hoãn vài năm, đứa thì kiếm thân kiếm thế,... Thanh niên chạy đôn chạy đáo tứ bề, mặc cho mấy đứa con gái hết làm cao, cho tụi bây thành gái già cho bỏ ghét. Ai cũng sợ cả, dân chúng cũng sợ, sợ qua một đêm ngày mai mình không còn sống nữa; lính ngồi ở đây nhưng chút nữa chỉ một viên đạn vô tình cũng đưa mạng về cho đất; người con gái cũng sợ mất người yêu. Con khóc cha, vợ khóc chồng, một bầy con nheo nhóc, cha mẹ hai bên nhìn thấy mà tang thương não lòng. Ôi! Một đất nước chiến tranh nhà cửa ruộng vườn tan hoang, đổ nát. Bom đạn, mìn thuốc nổ phá tung tứ phía. Đất nước thương đau chỉ vì hai chủ nghĩa: Chủ nghĩa của tụi tao và chủ nghĩa của tụi mày! Ông Trời nói rằng: "Tụi bây muốn đánh nhau tao cho tụi bây đánh cho chết bỏ! Tao không cần phải sợ tụi bây giành lấy độc quyền của tao nữa!", rồi ông cười hỉ hả! Nhưng những đứa ở bên ngoài: Tụi bây đánh hay quá! Cứ đánh tiếp đi tao cung cấp đủ phương tiện cho tụi bây đánh! Đánh đi đánh coi thằng nào ăn, "thằng nào ăn làm cha thằng nào thua làm con, thằng thua làm trâu bò cho thằng kia cưỡi, làm nô lệ cho thằng kia sai, tụi bây cứ đánh đi!". Rốt cuộc u đầu sức trán nhau cả đám, thằng cổ vũ bên ngoài thừa thế chiếm phần lợi nhuận, giống như Đồ tôi hồi còn nhỏ bị má đánh đòn vì nằm trong phe thua, bị những thằng ăn bắt bò dưới đất làm bò cho nó cưỡi, sai làm tôi đòi, buồn buồn nó lại lấy chân đá, lấy roi đánh đít thật đau mà mình chẳng dám than van. Có người quen đi ngang thấy được về nói lại với má, thế là Đồ tôi được một trận đòn đáng đích!
Ông Trời đã tạo ra con người mà lại chơi "đáng mắc" khiến con mắt họ thấy đẹp thì khoái, nghe hay thì mê, có mùi ngon thì lết tới, nếm ngon thì chịu, rờ mà êm ấm thì thích. Bởi vậy, khi con người mà muốn rồi thì chưa chắc ông Trời đã gỡ ra, "chém cha" họ cũng tìm đủ mọi cách để lấy cho bằng được! Vì vậy, mới có tranh giành đánh lộn, chém giết lẫn nhau cũng bởi tại cái tham. Tham mà bị "cản hầu cản họng" hay chiếm không được thì tức lồng lộng, nhảy tưng tưng giống như bị nước sôi vô háng, nóng máu tợ Trương Phi; giận quá mất khôn quyết tới đâu thì tới, ở tù cũng được. Việc lỡ ra, lúc đó mới tỏ ra là sợ, sợ thì cũng đã trể rồi!
Đứng nhìn về những cảnh xảy ra, những ông triết gia gật gù: "Không được! Thiên hạ đánh, giết nhau tranh giành làm cho dân chúng lầm than khổ ải, ta phải xài đến cái trí óc trời cho, tìm cách để cho tụi nó yên mới được". Nói đoạn ông thì "phải ổn định trật tự bằng nhân đức"; ông thì "phải dùng đến hình phạt"; ông thì "phải tập trung sức mạnh"; ông thì "phải giáo dục và ổn định bằng tổ chức"; ông thì "phải độc tài"; ông thì "phải dân chủ"; ông thì "cứ để nó đánh nhau đả thì nó sẽ thôi"; hoặc "kệ tụi nó, cứ sống theo thiên nhiên cho khoẻ tấm thân, tụi nó đang giỡn mà"; ông thì "bi quan, chán bỏ cuộc đời" hoặc "vui mình cho thỏa thích, ai chết mặc ai"...Rồi mỗi ông chiêu tập được một đám người. Rồi lại đường lối của tụi tao hay, đường lối tụi bây dở òm; tụi bây là đồ bá vơ bá láp, đường lối không ra thứ gì... Thế là lại chia phe đánh nhau trối chết. Chỉ tội những thằng dân lành sợ bị roi vọt, áp bức, chế tài... phải đem thân làm trâu bò húc nhau cho đáng kiếp. Những thằng cầm đầu chạy mất tiêu, những thằng tôi mọi lại làm thân kiếp đọa đày. Thằng thắng vui cười hỉ hả, kênh kiệu, nghênh ngang. Ôi! Ông Trời, Ông đã đi đâu? Chắc không bao giờ Ông thấy!
Còn có ông Triết gia rộng rãi hơn, muốn nhìn thấy thế giới Đại đồng, đem bình an công bằng cho thiên hạ. Nhưng đệ tử thực hiện tới đâu, cỏ cây con người dạt dào đi tới đó, máu thiếu điều chảy thành sông, con người sợ sệt lui tới tận cùng hóc hẻm, cuối cùng phải lì lợm chịu đựng với thế cờ. Đói quá thì làm liều sanh ra ăn cắp, trộm cướp tràn lan; buồn đời thì mượn men say làm căn bản mặc cho đời no ấm ấm no; thân gái dặm trường có vốn trời cho đem đi bán đổi lấy chút tiền cho cuộc mưu sinh; người chạy được chạy quên thôi không dám quay đầu ngó lại. Đã phải nghèo mà phải "lót đường" để nhờ đến dễ dãi làm ăn.. .Người nghèo cứ thế mà nghèo ra mãi! Ôi! Tội nghiệp cho Triết gia phải sói đầu suy nghĩ, gom mọi triết thuyết để xây dựng công trình. Đặt trên nền kinh tế "ấm no" mà lại trở thành nền kinh tế "phá sản". Thế cho nên hơn nửa thế kỷ xây dựng cơ đồ, đành sụp đổ chỉ trong thoáng chốc. Quả thật là trí tuệ ở đỉnh cao!
Tất cả chung quy ai cũng muốn tốt cho con người, nhưng con người tốt với con người quá thì làm sao mà được sung sướng giàu sang, gia đình phe phẩy... Vì bản năng con người là ham sướng, ham chơi, ham tiêu xài, nhậu nhẹt, hưởng thụ hơn là bỏ công sức ra để làm, thì ngu dại vì "không ăn", "không nhận" để cuộc đời được lên hương. Chỉ sợ một mai vỡ lở bị "đá" văng ra ngoài, thì còn có để mà lo cho gia đình trong lúc ngồi chơi xơi nước, vì thế mà phải "đòi" cho nặng ký. Chỉ tội có dân nghèo, không có vốn, chạy gạo từng ngày thì lấy đâu lót đường cho công việc được hanh thông. Thế mới buồn cho cuộc đời đấy chứ! Ông Trời đừng lo, những hạng người nầy không bán Ông được đâu? Họ lo họ chưa xong, họ không dám ngước đầu lên để cười đùa, giỡn hớt với Ông. Họ sợ lắm! sợ không có tiền, sợ đói, sợ bịnh đau, sợ người ta đòi hỏi, chứ họ không sợ khinh rẻ, xua đuổi như đuổi tà. Họ chai mặt rồi, họ lì lắm! Không tin Ông cứ thử đánh chết họ đi, không chừng họ còn cám ơn Ông vô vàn, muôn thuở!
Tưởng chủ nghĩa nào cũng hay cũng tốt, mai mốt tất cả được sống trong Thiên đàng. Nhưng Thiên đàng đâu chưa thấy mà thấy máu chảy "tùm lum", thấy mạng người nằm xuống như rạ, thịt xương vung vãi khắp nơi, tiếng than khóc rên la đi sâu vào lòng đất để hát bài: "Xương máu của đồng hoang". Chân lý đã đi xa! Nhưng những người tuyên dương cho Chân lý cho điều đó là Chân lý! Chân lý của xương máu ngút ngàn! Máu và xương góp lại cho Thiên đàng trên Thượng giới. Ta cần gì Thiên đàng hạ giới mà mơ! Nên thực tế cho cuộc đời hiện tại và hát bài: "Như một giấc mơ qua!"

Đồ Ngông,
13-08-05.

Thơ Nguyên Thảo

* Bàn Tay Mẹ.

Bàn tay này của mẹ
nâng niu con trong những buổi đầu đời
Đong đưa lúc võng, lúc nôi
Miệng à ơi, gật gù ru con ngủ.

Có những đêm dài
năm canh thao thức đủ,
Ngồi ôm con sốt ruột mãi trong lòng,
Cơn sốt nào,
cũng đưa mẹ hoài mong:
Cho con khỏe và ngày mau khôn lớn!

Bàn tay mẹ
Từng mơn con bú mớm,
từng lừa xương, đút mỗi muỗng con ăn.
Từng ôm con siết nhẹ trong lòng:
"Thương con lắm!
Mẹ thương con nhiều quá!"

Mẹ thương con
Tình thương con biển cả
như nước nguồn đem lắp mãi đại dương
Bao la ấy,
nhưng vẫn hoài, chưa thấy đủ...!

Nguyên Thảo,
23-07-07.




*Niềm Đau Quốc, Cộng.

Vì Quốc, Cộng
Quê hương tôi tan nát
Hai mươi năm dài
Xương trắng dãy Trường Sơn,
Hai mươi năm
xa xót lẫn căm hờn,
Từng đứa trẻ, người già đau oằn oại.
Trên đồng lầy
và những cánh rừng hoang khắc khoải
Trong thị thành, sự tàn phá mênh mông.

Vì Quốc, Cộng
những người dân thấm thía nỗi lòng
Con mất mẹ, mất cha; gia đình ly tán.
Những tù đày, những ê chề chán ngán.
Cuộc đời này, nhân thế lắm khổ đau!

Vì Quốc, Cộng
đã bao nhiêu mạng sống cúi đầu
Niềm nhẫn nhục cho ngày mai hi vọng.
Vào rừng sâu, vượt trùng dương dậy sóng.
Bước đường dài rủ áo: Kiếp tha hương!

Vì Quốc, Cộng
đấu tranh tiếp nối khắp nẻo đường
lòng thù hận nấu nung chưa chấm dứt
Quá ba mươi năm sục sôi hừng hực
Khoảng trời nào để những kẻ yêu nhau
Khoảng trời nào, chấm dứt những niềm đau
Thiên đàng đó, hay khung trời địa ngục!

Nỗi đau thương, hay khung trời hạnh phúc,
Cuộc đời nào niềm sáng của mai sau?
Những ngàn năm của dân tộc tự hào
Một đống vụn với khung trời chấp vá.

Hét vang lên, dội khung trời biển cả
Tất cả trở về với một niềm đau!

Nguyên Thảo,
22-07-07.

Thơ Đó Thơ Đây

*Qua Quảng Ninh. (Quảng Ninh)

Chạy qua vùng xứ than
Nhìn xe chạy hàng hàng
Bụi đen bay tấp tấp
Mình hơi đen, hơi đen!

Đây xứ than đây rồi
Đã thấy màu đen thôi
Đen đen mà bong bóng
Đã đến Quảng Ninh rồi!

Đồ Ngông,
19/07/10.


* Vịnh Hạ Long. (Quảng Ninh)

Đã đến nơi rồi Vịnh Hạ Long
Rồng xưa khép nép chui vào lòng
Đại dương không hết, “vi” thành núi
Thành cảnh ngày nay ta ngắm trông!

Đồ Ngông,
24/07/10.

*Tuần Châu. (Quảng Ninh)

Khen người có ý biến Tuần Châu
Thành đảo đi chơi ngắm đất trời
Có thú vui vầy, xem núi, nước
Cho đàn trẻ nhỏ tới đây chơi!

Đồ Ngông,
24/07/10.

* Xuống Du Thuyền. (Quảng Ninh)

Bước xuống du thuyền cẩn thận nha
Bước sao kheo khéo kẻo sa đà
Đừng rơi xuống nước, thêm mà gớm
Lại uống nước nhiều, mặn lắm đa!

Đồ Ngông,
24/07/10.

Thơ Đồ Ngông

* Xuân Đến!

Xuân đến rồi đây, lại đến rồi!
Mỗi năm chỉ đến một lần thôi
Cảnh thay sắc áo, mang màu đẹp
Rực rỡ mùa Xuân cả đất trời!

Xuân lại đến rồi, đến với ta
Đến nhiều nên thấy Xuân thêm già
Ta thêm Xuân đến, ta thêm trắng
Tóc bạc ngày Xuân nhắm rượu ca!

Đồ Ngông,
14/12/10.

*Thân Thể Nầy!

Tấm thân là thể vô thường
Nay còn mai mất, vấn vương chạnh lòng
Đi tìm chân thật bên trong
Nhìn ra chân lý, cầu mong thoát vòng
Có chi mà mãi đợi trông!

Đồ Ngông,
15/12/10.

Friday, December 17, 2010

Đạo Phật 5- Những Sự Thâm Trầm Của Đạo Phật!

Trong Đạo Phật quả thực nó có những sự thâm trầm, những sự thâm trầm ấy đáng được trân trọng, nâng niu như là nâng niu vật quý dễ vỡ ở trên tay. Nếu chúng ta ngầm một sự so sánh thì khó có thể tìm được cái thứ hai; ngay cả những triết thuyết của Đông lẫn Tây trên thế gian này. Tuy nhiên, nó vẫn hàm chứa được cái Dũng mà người ta đã cho đi chung với Bi và Trí. Sở dĩ nó được cái Dũng vì tính chất luận lý của nó, nó không xa rời thực tế, nó gắn liền với cuộc sống con người, nó được phát sinh từ con người và để phục vụ, cùng đem lại lợi ích cho con người mà không vì một tư lợi nào khác. Nó không giống những chủ thuyết nhằm biến xã hội thành thành phần, hay môi trường để phục vụ cho đường hướng, giai cấp, tầng lớp của mình. Nó không có ý đồ tôn vinh cho chủ nhân, giáo chủ hay một cá nhân nào khác nhằm đem lại cho họ sự bất tử về danh vọng, tiếng tăm. Nó đi, đi một cách âm thầm vào trong cuộc sống, vào lòng người mà đôi khi người ta không cảm nhận được cái cảm giác ấy. Vì sao?
Chúng ta cũng không lạ gì về người sáng lập ra đạo Phật. Ngay trong danh xưng của chữ Phật, nó có nghĩa là Giác-ngộ. Giác-ngộ tức là không còn mê muội, mà hiểu được chân tướng sự vật, hiện tượng, thoát được sự vô minh. Giác-ngộ là một trạng thái đạt được đỉnh cao trong phương hướng đi tìm chân lý của con người về sự sống, về quan hệ; xa hơn nữa là những liên quan trong vũ trụ và của những kiếp trước hoặc sau. Nói tóm lại, giác ngộ là hiểu được ta từ đâu đến, đến đây để làm gì, tại sao phải đến đây, chết đi về đâu, làm thế nào để tránh xa hoặc thoát ra khỏi những cái khổ mà con người, muôn loài đang chịu đựng trong thế giới, vũ trụ bao la này.
Trước khi có Đạo Phật thì cũng đã có giáo lý Đạo Bà-La-Môn và các đạo khác rồi, cho nên đôi khi người ta cứ nghĩ rằng giáo lý mà Đức Thích-Ca-Mâu-Ni thuyết giảng chỉ là một sự biến thái, góp nhặt để tạo nên giáo lý cho đạo của mình. Nhưng trong sự khám phá về tâm linh, chưa chắc đã có những cái "phải khác biệt hoàn toàn" dù khám phá trên những hình thức khác nhau. Chân lý của "Vũ trụ siêu hình" tất có những điểm giống nhau. Người khám phá tuy khác trong môi trường, hoàn cảnh địa lý, thời điểm và ngay cả "căn cơ", nhưng gần như có một điểm chung: Đó là phải tĩnh tâm, cầu nguyện, suy tư, tĩnh lự hay thiền định. Mọi sự khám phá về tâm linh không thể "không có" giai đoạn này. Trong sự tĩnh lự, các nhà sáng lập tôn giáo đã khai sinh ra giáo lý của mình. Tuy nhiên, giáo lý có đạt đến chân lý hay không, đó là "trình độ cao thâm" của người giáo chủ nhận được trong giai đoạn tĩnh lự. Giáo lý có đạt đến chân lý càng cao thì sẽ đem lại mức độ "Chân, Thiện, Mỹ" càng to lớn cho mọi loài; vì chân lý "Chân, Thiện, Mỹ" không thể bao gồm những điều tồi tệ, suy thoái, phân rã, chiến tranh hay sự tàn sát trong đó. Nếu không, nó đã không còn là "Chân, Thiện, Mỹ" nữa.
Sự ra đời của Đạo Phật gắn liền với một con người thật là bình thường: Thái tử Sĩ-Đạt-Ta (Siddhatha) họ Cồ-Đàm (Gotama); con đức vua Tịnh-Phạn (Suddhodana) thuộc dòng quý tộc Thích-Ca (Sakya), và mẹ là hoàng hậu Ma-Da (Maha Maya) ở thành Ca-Tỳ-La-Vệ (Kapilavatthu) bên ranh giới Ấn-Độ của xứ Nepal ngày nay. Khi còn nhỏ, Thái tử đã bắt đầu tĩnh lự trong một buổi lễ hạ điền, suy niệm khi đối diện với vấn đề già, bệnh, chết và người đạo sĩ. Từ đó là căn bản để Thái tử sau này đành giã từ vợ đẹp, con thơ, danh vọng phú quý mà xuất gia và sống trong một hoàn cảnh hoàn toàn thiếu thốn khác xưa: Không cửa, không nhà, rày đây mai đó bằng sự bố thí lương thực của những người hảo tâm.
Thái tử đã từng thọ giáo với những đạo sĩ lỗi lạc thời bấy giờ như Alarama Kalama, Uddaka Ramaputta. Nhưng Ngài vẫn không thoả mãn. Rồi Ngài cùng năm anh em Kiều-Trần-Như (Kondanna) tu khổ hạnh trong suốt sáu năm trường. Không đạt được kết quả và cuối cùng Ngài quyết chọn con đường trung đạo, không lợi dưỡng cũng không khổ hạnh nữa để bảo toàn sức khoẻ, thân thể mà tìm đạo. Ngài ngồi dưới cội Bồ-Đề tham thiền trong 49 ngày; Ngài đã đạt được Túc Mạng Minh (nhớ lại những kiếp quá khứ), Thiên Nhãn Minh (tri giác hiện tượng sinh diệt của chúng sinh); và Lậu Tận Minh (Tuệ giác hiểu biết sự chấm dứt của các pháp trầm luân). Sự ngộ đạo của Ngài hoàn tất, Ngài trở thành đức Phật Thích-Ca trong lịch sử và bắt đầu đi hoằng pháp.
Ngài giảng rất nhiều trong thời gian dài trên 45 năm (hay 49 năm?), nhưng Ngài chỉ nhận mình là một "Đạo sư". "Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành": Tất cả chúng sinh đều sẽ thành Phật, thành Bậc Giác Ngộ nếu cũng biết theo con đường Ngài chỉ dẫn để tu tập, hành trì: Tĩnh lự, suy niệm từ bên trong tâm thức của mình thì sẽ đạt được đạo, đạo không thể tìm ở bên ngoài cái thân thể hoặc thiếu sự nỗ lực của chính mình, như trong Kinh Tạp-A-Hàm Đức Phật đã nói:
"Như-Lai tuyên bố rằng thế gian, nguồn gốc của thế gian, sự chấm dứt thế gian và con đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian đếu nằm trong tấm thân một trượng này, cùng với tri giác và tư tưởng".
Con đường thành đạo của Đức Phật Thích-Ca thâm trầm cũng như sự thâm trầm của Đạo Phật trong thế giới nhân loại, hay đúng hơn là trong cõi của những chúng sinh dù chúng sinh đó ở cõi nào trong tam giới.
Trước tiên, chúng ta hãy tìm lại câu chuyện đi tìm đạo của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta để tìm thấy một số điểm thâm trầm trong Đạo Phật.

1-Một con người: Cái điều khác biệt nhất của Đạo Phật là Đức Phật chỉ là một con người cũng như bao nhiêu con người khác trong thế gian. Tuy nhiên, Đức Phật được sinh vào một khung cảnh đầy sung sướng, có quyền lực. Ngài cũng có vợ, có con. Ngài có đầy đủ những khả năng mà người bình thường thế gian mong muốn; nhưng chưa chắc có đủ điều kiện để tập tành, học hỏi mà có được. Trong hoàn cảnh như thế, tại sao Ngài phải suy tư về cuộc đời, phải suy nghĩ về cuộc sống bệnh, lão tử và có cái nhìn về đạo? Ngài không có được một "ân điển" siêu hình nào từ "thần thánh" hay một Đấng thiêng liêng khiến cho Ngài đạt được đạo. Từ những ưu tư về cuộc sống con người, Ngài đã quyết chí chọn con đường đi tìm đạo, và con đường giải thoát. Từ giã đời sống sung sướng chỉ trong một đêm, qua ngày hôm sau Ngài đã phải trong hoàn cảnh đầy thiếu thốn về lương thực, quần áo, đi chân trần lê từ nơi này đến nơi khác với lòng bố thí của người khác. Thế mà Ngài vẫn chịu được thì "sự quyết chí" của Ngài quá cao. Điều ấy nói lên sự "cao thượng" của Ngài; nhưng cũng đồng thời diễn đạt được với mọi chúng sinh rằng:"Sĩ-Đạt-Ta còn dám từ bỏ cung vàng điện ngọc để sống cuộc đời khổ hạnh thì tại sao chúng sinh còn hối tiếc những cái không đáng giá của mình để tìm đường giải thoát, hoặc ít ra thực hành con đường giải thoát". Con đường tìm đạo của Sĩ-Đạt-Ta cũng không đơn giản như các bậc thần thánh khác, nó chỉ là ý nguyện của một con người bình thường đi tìm đạo. Ngài đã phải lặn lội đi tìm thầy. Học với thầy này không được thỏa mãn, lại đi tìm đến thầy khác. Tìm cách này không thành công phải tìm đến cách khác. Bỏ lợi dưỡng đến khổ hạnh, từ bỏ khổ hạnh đến trung đạo. Và cuối cùng phải quyết tâm: "Nếu không thành đạo không rời khỏi cội Bồ đề". Với ý chí ấy Ngài đã tìm thấy đạo.
Sự thành đạo của Ngài chỉ là do quyết tâm và thành khẩn muốn được đạo. Xem ra nó chẳng khác với bất cứ một con người bình thường nào muốn đi tìm đạo và để đạt được đạo. Đó là điều rất khác biệt với các tôn giáo khác; và sau khi thành đạo Ngài chỉ là "một đạo sư" chứ không là giáo chủ. Ngài chỉ là một người chỉ dẫn con đường giải thoát khỏi sự khổ đau cho người khác, cho chúng sinh. Điều ấy nói lên một tấm gương để cho người sau đặt được nhiều hi vọng thành đạo khi quyết tâm đi tìm đạo.
Đó là điểm thâm trầm đầu tiên mà đạo Phật đem đến cho người đi tìm đạo có thể nhận thức rằng người khác đã làm được tại sao ta lại làm không được; Đức Phật đã thành đạo, thì ta vẫn có thể thành đạo.

2-Tĩnh lự: Người ta coi tĩnh lự là tên khác của Thiền, với tư thế ngồi nghiêm trang và thực hiện những cung cách nào đó thì được gọi là thiền. Điều ấy chúng tôi không muốn quá quan trọng như vậy; mà chúng tôi chỉ muốn đề cập đến một kiểu cách rất là bình dân, kiểu cách ấy người ta đã làm nhiều lắm rồi, đôi khi họ cũng chẳng hề để ý đến nữa: Trong một buổi trưa nắng nóng nào đó, khách lữ hành đi trên một đoạn đường dài khá mệt mỏi. Bên lề đường có cây to đầy bóng mát. Được ngồi trên tảng đá, hay một thân cây hoặc thảm cỏ; trong bóng mát mắt lim dim nhắm lại; đầu óc vô tư, trống rỗng thì thật là thoải mái vô cùng. Ấy là một hình thức tĩnh lự: Thiền đơn giản tự lúc khởi đầu. Chắc chắn phải là như vậy! Sự thích thú đó khiến cho người ta trở nên hiếu kỳ và muốn hưởng được tận cùng cảm giác của nó. Nó dần đưa đến sự thiền. Trong sự thiền lâu ngày khiến người ta định được tâm, và từ đó tiến dần vào sự khám phá tâm linh. Rồi tiến xa hơn bằng tìm cách ngồi nào mà kéo được lâu dài, thích hợp, cùng với kinh nghiệm xử dụng những tư thế cho nên các trường phái thiền được ra đời. Nhưng dù sao đi nữa cũng nhằm một mục đích định tâm mà thôi. Nhưng định tâm để làm gì? Ấy là một chuyện khác! Mục đích của người luyện võ thì khác; của một thầy tu cũng khác đi!
Thiền là một hình thức định tâm, trong tư thế thân tịnh; để tâm mình có thể quán sát, nhìn sâu vào đáy của tri thức, hay khám phá vào cõi siêu hình. Điều đó không thể chối cãi, nếu không thì đã không có các tôn giáo. Những vị sáng lập tôn giáo thường phải trải qua một thời gian tĩnh lự, tịnh tâm, cầu nguyện dù thời gian ấy có thể khác nhau. Thời gian của Thích-Ca là bốn mươi chín ngày dưới cội Bồ Đề; Mohammed một thời gian trong núi Hira gần thành Mecca; Chúa Jesus bốn mươi ngày đêm trong đồng vắng...Và nếu chúng ta để ý khi tìm hiểu vào các tôn giáo khác thì nguyên tắc ấy vẫn không ngoại lệ đối với các vị giáo chủ hay người sáng lập ra một tôn giáo nào đó. Tuy nhiên, trong thiền không phải nó chỉ đơn giản là con đường thẳng để tới cùng một điểm đến. Nó cũng có những trở ngại, khó khăn phải vượt qua. Vượt qua được thì cái chủ trương của nó được Chân, Thiện, Mỹ hơn; nếu không thì Chân, Thiện, Mỹ bị kém đi; hoặc có khi trở thành ngược lại cũng không chừng. Chính vì chỗ đó mà các tôn giáo có những hình thức, những chủ trương khác nhau. Và ngay cả bản thân của người giáo chủ hay sáng lập ấy cũng khác đi!
Thái tử Sĩ-Đạt-Ta đã trải qua con đường thiền định để đạt được đạo và nói đạo, thì tất cả những con người khác muốn đạt được đạo như Ngài cũng cần tiến vào con đường thiền định, thực hiện thiền định. Tuy nhiên, trong Kinh Lăng Nghiêm Đức Phật đã nói khá rõ ràng về lối tu thiền định, thì thiết nghĩ quý vị nào muốn tu thiền nên nghiên cứu thật kỹ về Kinh Lăng Nghiêm để tránh đi những hệ quả không tốt đến cho mình, đồng thời không làm hại cho người về sau.
Làm con người ai cũng có những giây phút nào đó được ngồi yên lặng, mắt nhắm lại, đầu óc trống rỗng để được nghe cảm giác thanh thản của cuộc đời; nhất là trong xã hội tiến bộ về vật chất khiến con người phải vất vả làm việc để kiếm tiền mua sắm những nhu cầu tiện nghi. Như thế người ta, vô hình chung, đều có sự thiền ngay trong cuộc sống. Do vậy, nếu họ chỉ cần tiến xa hơn một chút thì dần tiến về con đường khám phá tâm linh mà Đức Phật đã đi qua và đã chỉ đường trong Kinh Lăng Nghiêm. Cho nên, Đạo Phật thâm trầm đi vào cuộc sống của loài người hay nói đúng hơn trong sinh hoạt và sự sống của loài người đã có mầm khám phá cái đạo mà Thích-ca gọi là đạo Phật rồi!

3-Khám phá về Tâm Linh: Trong suốt hành trình đi tìm đạo của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta, Ngài đã cố công tìm những thầy học có tiếng tăm; hoặc là thực hiện phương pháp khổ hạnh cũng nhằm tìm được trong tâm linh cái con đường giải thoát. Trong khoảng sáu năm gian nan không đạt được kết quả, Ngài chán nản về ngồi dưới cội Bồ đề mà quyết tâm thệ nguyện. Trong bốn mươi chín ngày đó, ánh sáng đã hiện ra trong trí tuệ của Ngài. Những lý thuyết mà Ngài đã thuyết giảng, những điều mà Ngài đã kể về thế giới này hay là thế giới kia; hoặc thuộc về cõi trời, cõi địa ngục hay ở một cõi nào đó, tất nhiên không phải là chuyện bịa. Nhưng những điều ấy khiến cho người đời vốn mê muội nên thấy có vẻ thần thoại, chúng gần như là những chuyện không thực. Tuy nhiên, xét về biện chứng thì tại sao Ngài lại nói đến những điều ấy sau khi đã thành đạo mà trước kia Ngài không hề đề cập đến bao giờ. Có những điều cho mãi đến tận nhiều thế kỷ về sau các nhà khoa học mới khám phá ra và cho là đúng như vi trùng trong bát nước; ngoài thái dương hệ của chúng ta còn có nhiều thế giới khác hoặc là những thiên hà khác với những hình dáng màu sắc khác nhau. Điều ấy khiến chúng ta lại lưu tâm đến những điều khác hơn trong các kinh điển mà Ngài đã thuyết giảng. Phải chăng đó là những kết tụ mà trí tuệ con người có thể tìm thấy được sau hành trì thiền định hay tu tập? Và có thể nói khác đi đó là những khám phá về tâm linh, vũ trụ, con người; về chân lý mà trí huệ con người có thể quán triệt được sau khi thực hành thiền định để khám phá về tâm linh!
Người ta nói rằng những điều mà Đức Phật thuyết giảng có một số điểm mà trong các tôn giáo hiện diện trước đó đã có. Điều ấy cũng không có gì lạ: Một là có thể do ảnh hưởng; Hai là có thể mượn cách quảng diễn bằng ngôn từ hoặc là hình thức. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian Đức Phật còn tu tập Đức Phật đã không thấy đạt được kết quả, đã không đúc kết thành một giáo lý mà chỉ đề cập, thuyết giảng sau khi thành đạo, thì cũng không chắc là Đức phật đã vay mượn của tôn giáo khác. Nhưng cái chân lý tối hậu mà người ngộ được chân chính có thể sẽ là giống nhau; ít ra cũng ở một vài chân lý nào đó. Do vậy, giáo lý đạo Phật có giống với giáo lý của đạo giáo nào khác trước đó ở một vài điểm hay quan điểm tương đồng thì cũng đâu phải là lạ cho lắm! Mà chính điều ấy khiến cho chúng ta thấy được cái tính chân lý vững chắc của nó. Sau khi ngộ được đạo, Đức Phật thấy con đường mình đạt được không phải là con đường riêng do mình đã tìm ra, mà đó chỉ là con đường mà những vị Phật trong quá khứ đã đi không biết tự bao giờ. Và cũng bằng con đường đó các vị Phật trong tương lai cũng sẽ phải đi qua. Chính vì thế mà Ngài chỉ là một "Đạo Sư" chứ không phải là giáo chủ!

4- Tứ Diệu Đế: Điều thâm trầm nhất trong Đạo Phật là phải dành chỗ cho Tứ Diệu Đế hay còn gọi là Tứ Thánh Đế. Gọi là Diệu Đế hay Thánh Đế vì bốn chân lý ấy là những sự thật hoàn toàn chính xác, chắc chắn và quý báu để con người, chúng sinh có thể hiểu rõ thân phận của mình; biết được nguyên nhân và đâu là con đường thoát khổ, thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Bốn Chân lý đó có giá trị trong mọi thời gian cho quá khứ cũng như hiện tại và tương lai, mà bất cứ một bậc "Đại Giác" nào cũng đều nhìn thấy được như vậy.
Bốn Đế ấy là: Khổ đế- Tập đế- Diệt đế-và Đạo đế.
a/ Khổ đế: Nói đến cái sự khổ mà con người chúng sinh phải chịu đựng trong đời sống hoặc là chính bản thân mình. Không một ai thoát khổ dù cho người ấy là Thánh nhân hay đại diện cho một Đấng vô hình nào đó trong cuộc đời. Sinh ra là khổ; Già có những nỗi khổ của cái già: Bệnh khiến người ta đau nhức, ăn uống không được rồi cảm thấy khổ; cái Chết cũng làm cho khổ vì không ai muốn chết và cái chết lại làm đau thương, luyến tiếc cho người thân.
Ngoài ra cái khổ còn chồng chất thêm lên, khổ này đến khổ khác; hoặc bị hoại diệt cũng khổ; rồi lại đến hành khổ; yêu thương mà phải xa lìa; cầu mong mà không được; oán ghét mà cứ mãi gặp nhau cũng khổ; hoặc là những cái khổ do ngũ ấm mà có.
Chính những cái khổ đó mà chúng sinh phải có những lúc trầm tư, suy nghĩ. Nếu chúng sinh ấy trầm tư, tĩnh lự như một triết gia thì tất nhiên có một ngày nào đó triết gia ấy sẽ khám phá con đường trở về và "giác ngộ" hay gọi là Phật, không cần phải đợi đến Phật Thích Ca hay vị Phật nào khác, vì Phật chính là sự sáng suốt, giác ngộ của chính cái Tâm của mình. Tuy nhiên điều ấy cũng phải có một điều kiện là tu và tu đúng hướng; do đó Đức Phật đã nói về Kinh Lăng Nghiêm. Còn Tịnh độ, niệm lục tự "Nam mô A-Di-Đà Phật" đó là hình thức Thiền nhưng nhờ đến phương pháp niệm Phật để tâm không bị tán loạn đó thôi. Hình thức ấy giống như người hành thiền dùng đến phương pháp kiểm soát hơi thở hay các phép quán. Hình thức ở Tịnh Độ thì dễ hơn nhiều lại an toàn cho người tu, vì không hề bị "Tẩu hỏa nhập ma"; vả lại, cũng nhờ đến tha lực của Phật A-Di-Đà theo như những hạnh nguyện của Ngài. Nỗ lực của mình cùng với tha lực từ hạnh nguyện của một vị Phật thì tất nhiên sẽ có kết quả tốt đẹp. Do đó Thiền bài bác Tịnh Độ, hay Tịnh Độ bài bác Thiền chẳng qua họ lồng cái "bản ngã" của họ vào đó mà thôi, để rồi thấy cái của ta là tốt là hay, cái của người thua kém. Ôi, cũng khổ không chừng!
Chính chân lý này, Đạo Phật thâm trầm "xâm nhập" vào cuộc sống của chúng sinh, gắn liền với chúng sinh. Hay nói một cách chính xác và quả quyết: "Đạo Phật là Đạo của Tâm thức của chính chúng sinh", vì vậy khi nào chúng sinh quay về với tâm thức của mình, thì chúng sinh ấy sẽ được "Giác Ngộ" không sai khác.
b/Tập đế: Là những chân lý phân tích về nguyên nhân sinh ra sự khổ. Ba nguyên nhân chính ấy là Tham, Sân, Si. Mỗi con người, chúng sinh ai cũng cần ăn để sống; do đó bản năng sinh tồn khiến mọi chúng sinh bước vào một trường tranh đấu, chém giết lẫn nhau. Trước tiên để no đủ, sau đó tiến xa hơn là ngon. Và để thỏa mãn cho thân xác, danh vọng, ước muốn càng ngày càng cao (tham) thì phải tìm đủ mọi cách để tranh giành cho bằng được. Nếu không được sinh ra "sân hận", rồi thiếu sáng suốt (si mê) mà gây ra tội lỗi, tạo nên nghiệp (nhân). Vì thế Đức Phật gọi ba nguyên nhân này là "Ba món độc". Ngoài ra, còn thêm vài yếu tố khác như Mạn (kiêu mạn, khinh thường người khác làm cho người ta khổ), Nghi (nghi ngờ), Thân kiến (chấp vào cái Ta và coi thường, coi rẻ người khác), Biên kiến (chấp một bên), Kiến thủ (Bảo thủ sự sai lầm của mình), Giới cấm thủ (giữ những giới cấm không hợp lý, cuồng tín), và tà kiến (chấp theo lối tà, mê tín dị đoan) cũng là nguyên nhân của những cái khổ.
c/ Diệt Đế: Diệt Đế là chân lý nói về sự chấm dứt toàn vẹn các sự khổ đau và đạt đến cứu cánh của người tu hành, là đạt đến Niết bàn sau khi từ bỏ tất cả những luyến ái.
d/ Đạo Đế: Đạo Đế là chân lý chắc thật, đúng đắn để diệt trừ đau khổ và tu hành để đạt đến Niết Bàn.
Đạo đế gồm có 37 phẩm trợ đạo chia làm 7 loại: Tứ Niệm xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần và Bát Chánh Đạo.
Với Tứ Diệu Đế Đức Phật đã chứng minh cho con người, chúng sinh thấy rõ những cái khổ đến với mình; tại sao những cái khổ đó có; muốn thoát khổ thì tìm đến đạo ra sao; và khi thực hiện con đường đạo thì sẽ đạt đến đâu, cùng trạng thái ấy thế nào. Những điều đó là điều tất nhiên: Hiểu, biết, làm và giải thoát là những điều chắc chắn không sai trái cho nên chúng là những chân lý chắc thật nên được gọi là Tứ Diệu Đế hay là Tứ Thánh Đế.

5/ Sinh Tử Luân Hồi: Trong quá trình sinh sống của con người, nghe nói về sinh tử luân hồi như là nghe một chuyện gì xa xôi, không thực tế; một chuyện khó tin, và do trí tưởng tượng mà thôi. Chính điều ấy mà nhiều người mơ hồ về tôn giáo, Đạo Phật. Nhất là thuở xưa vì phương tiện giao thông, thông tin không được phổ biến như ngày nay, cho nên những hiện tượng mang hình ảnh tái sinh, luân hồi chỉ xuất hiện và khép kín ở vài nơi nào đó trên thế giới. Nhưng khoảng vài chục năm trở lại đây trên báo chí, cũng như nhiều phương tiện thông tin đã thường xuất hiện nhiều bản tin những người nhớ về quá khứ xa xôi ở nơi nào đó, mà từ nhỏ đến lớn, họ chưa đến đó bao giờ. Và, khi người ta đến nơi đó kiểm chứng thì quả có những người như vậy ở thời điểm khá xa. Vậy thì thế nào? Đó có phải là "đầu thai hay tái sinh" không? Dù muốn dù không cũng phải công nhận đó là hiện tượng của "tái sinh". Như vậy, một số điều Đức Phật đã giảng giải được xác định một cách "thâm trầm", thâm trầm đi sâu vào cuộc sống và chân lý.

6/ Ảnh Hưỏng Nhân Quả: Nói đến nhân quả người ta nghĩ ngay đến trồng chanh được chanh, trồng dưa được dưa. Gieo nhân nào ắt sẽ thu hoạch được quả ấy. Tuy nhiên, trong cuộc sống có nhiều người ở ác nhưng họ lại được phước hay ngược lại. Nhưng với thuyết nhà Phật những điều đó không có gì gọi là khó giải thích. Nhân quả ấy được kết tập trong nhiều đời. Những gì họ hưởng hay nhận trong cuộc sống hôm nay là do các điều họ gieo từ trong quá khứ. Nếu trong lịch sử, những sự việc này là kết quả của sự việc xảy ra trước đó, và nó lại là nguyên nhân của những chuyện xảy ra sau; thì trong các kiếp con người cũng vậy: Những gì ta nhận trong kiếp này chính là do nguyên nhân sâu xa của những kiếp trước, và những gì ta làm trong kiếp này là nhân của những kiếp sau. Tùy theo nhân mà ta lãnh quả. Quả của mỗi con người cũng phải khác nhau. Thế cho nên không ai giống ai, dù cùng một cha một mẹ sinh ra, sống cùng trong một gia đình, một hoàn cảnh.

7/ Siêu Hình: Trong cuộc sống có nhiều vấn đề, hay những mẫu chuyện siêu hình muốn được giải thích thỏa đáng thì lại cần đến giáo lý đạo Phật. Đạo Phật "thâm trầm", nhẹ nhàng đi vào cuộc sống của con người, chúng sinh; hay đúng hơn là nó đi sâu và rất thâm thúy vào xã hội của loài người, nếu không muốn nói là của tất cả chúng sinh trong tam giới. Ở trên, chúng ta có dịp nói về "nhân quả" thì ở đây chúng ta cũng có thể đề cập đến "duyên khởi": Cái này có thì cái kia có, cái kia có thì cái nọ có; cái này không có thì cái kia không có, cái kia không có thì cái nọ không có. Đó là một chuỗi duyên hợp và duyên sinh. Chúng ta đã tạo ra cái nhân này thì tất sẽ có cái quả, cái quả đó sẽ là cái nhân cho một cái quả tiếp theo. Cứ thế mà tiếp nối không biết đến bao giờ chấm dứt. Do vậy mà trong Đạo Phật có câu: "Chỉ sợ nhân chứ không sợ quả", cho nên chúng sinh muốn không gặt quả thì đừng gây nhân. Đó cũng là một chân lý để sống ở đời!
Trong hóa học nếu ở vào một điều kiện cần và đủ nào đó, thì chất này sẽ kết hợp với chất kia để sinh ra phản ứng và tạo nên những chất khác, và chất khác có thể sẽ kết hợp với chất khác để thành hình những chất mới nữa. Điều này cũng chứng minh bằng thực tế khoa học để chúng ta có thể hiểu được duyên khởi, duyên sinh và "trùng trùng duyên khởi".
Còn một điều mà chúng ta có duyên sẽ gặp, đó là hiện tượng "gặp ma"; hay người nào đó nhập vào các "cô, cậu" "ông này, bà kia" để trở thành những vị thầy, cô hay đồng bóng. Chúng ta không loại trừ điều ấy, dù gì trong xã hội cũng đã có nhiều "mê tín dị đoan". Nhưng đôi lúc chúng ta không thể không tin, hay không tin không được. Điều ấy cũng khó có thể giải thích nếu chúng ta không đứng trên giáo lý nhà Phật. Thực tế ấy đã xảy ra đầy dẫy trong xã hội loài người từ Tây sang Đông, và bất cứ trong những quốc gia thuộc tôn giáo nào. Tại sao?
Theo như giáo lý nhà Phật, chúng sinh trong cõi luân hồi có 6 loại: Thiên (trời), Nhân (người), A-Tu-La (thần), Súc sinh (Loài vật), Ngạ quỷ (Quỷ đói), và Địa ngục. Trong những loại này thì ta thấy có hai loại có thân xác là người, súc sinh; và các loại kia thì không có thân xác là chúng sinh thuộc cõi Trời, Thần, Ngạ quỷ và Địa Ngục. Trên thực tế qua những hiện tượng nhập xác cô cậu, đồng bóng thì có các tiên, thần; cho nên những người này thường hay giúp đời. Tuy nhiên, cũng có một số có những việc làm không tốt thì có lẽ do những vị thần phá phách "nhập vào" để hành xử. Nhưng ngoài ra, cũng có những linh hồn vất vưởng mượn xác người khác để thực hiện những ước muốn của họ, có khi là thiện mà cũng có khi là ác. Vậy thì giải thích thế nào? Sau khi thành đạo Đức Phật qua Phật nhãn đã thấy được 6 loài trong vòng luân hồi sinh tử như trên. Nhưng riêng đối với con người, ngoài những nghiệp còn lại trong các kiếp trước cùng với những nghiệp trong kiếp hiện tại để quyết định nơi nào họ sẽ tái sinh về sau. Có một nghiệp khác cũng rất quan trọng đó là "Cận tử nghiệp", tức là cái nghiệp ở vào lúc lâm chung: Những ý nguyện, ước muốn quyết liệt, những tức tưởi, thù hằn, ơn nghĩa sâu dày...vẫn có quyết định nơi đi của họ. Nếu họ yêu mến thân xác, cuộc sống trong kiếp hiện tại mà bây giờ thân xác ấy không còn nữa, thì họ vẫn chưa muốn đi "đầu thai", khiến họ vất vưởng, lang thang; để rồi đôi lúc họ cần đến người khác để làm một vài công việc gì đó. Hoặc có khi họ xuất hiện khiến người ta thấy được hình bóng, ấy là ma. Để hiểu được như vậy, con người cũng cần đến suy tư về giáo lý "thâm trầm" trong nhân gian của Đạo Phật.

8/ Văn Hoá: Trên bước đường thực tế phát triển của Đạo Phật, tư tưởng Đạo Phật không gây ồn ào, đối chọi, hay tạo nên một biến cố nào cả ở những nơi nó đã đến. Nó đến như là một sứ giả hòa bình; một con người hiền lành, chân thật, khiêm tốn cũng giống như một nhà sư đến trước cửa nhà khất thực. Ai thích thì cho, ai không thích thì không chấp nhận, thế thôi! Đạo Phật không dùng gươm hay dùng thủ đoạn để tranh giành, o ép để người khác phải đến với đạo. Đạo Phật cứ "thâm trầm" bình lặng, ai muốn tìm con đường giải thoát chân chính thì cứ đến; đến rồi thì cứ tự nỗ lực mà làm. Làm vì ích lợi của chính người làm chứ không làm cho Đức Phật hay Đạo Phật. Bởi vì Giáo lý Đạo Phật là giáo lý thực tiễn cho người cần giải thoát, chứ không phải để tôn xưng cho một ai. Chính vì thế mà giáo lý Đạo Phật đi đến đâu cũng dễ dàng được chấp nhận vì nó đi sâu và đi sát vào thực tế đời sống con người. Mặc dù lúc đầu, thoáng đọc qua Kinh điển, người ta dễ ngộ nhận giáo lý đạo Phật vì nó có vẻ đâu đâu, không thực tế. Nhưng khi nghiên cứu thì người nghiên cứu mới thấy sự sâu xa chưa từng thấy ở bất cứ một loại Kinh điển hay triết lý nào khác. Điều ấy chúng ta có thể thấy rõ ràng những nơi Đạo Phật đã đến. Nó hòa mình cùng với những dòng văn hóa nơi sở tại; nó đóng góp thêm sự phong phú cho những nền văn hóa ấy. Đồng thời nó giúp cho những con người nơi đó được thêm thuần thiện, và có nhiều giây phút thoải mái hơn trong cuộc đời nhiều ô trược trên cõi thế gian này.

9/ Sự Truyền Đạo: Đạo Phật được phát sinh từ một tư tưởng "Thiện", mong tìm được con đường giải thoát cho loài người, chúng sinh; mà vị giáo chủ chỉ khiêm tốn xưng là "Đạo sư". Cho nên sự truyền bá Đạo cũng trong tình trạng rất ư là hòa bình, và "thâm trầm". Một đoàn người thầy trò yên lặng đi chân trần từ nơi này đến nơi khác. Ai bố thí lương thực thì ăn, ai thích nghe pháp thì được nghe pháp; ai muốn phỉ báng, khích bác thì cứ làm. Không mang thù hằn, ghét bỏ. Đoàn người đi chỉ lấy Pháp để cảm hóa chúng sinh để cảm hóa con người, chỉ nhằm đem họ trở về với chính bản tâm của họ; để từ đó họ xa rời nghiệp chướng, nhân dữ hầu có thể thoát khỏi luân hồi khổ đau. Chính vì vậy, giáo lý Đạo Phật thường được đón nhận bởi chính những người từ nơi nó sẽ đến, mang về. Mặc dù nó cũng có những bước thăng trầm; nhưng dù sao nó vẫn là chân ýš của con người. Một khi con người trong giây phút nào đó, ngồi yên lặng chiêm nghiệm sao cuộc đời lắm khổ thì lúc đó họ cũng đã quay trở về với đạo Phật rồi, dù người đó đang theo một thứ đạo nào. Vì Đạo Phật thực chất là Đạo của chính Tâm thức con người và tất cả mọi loài chúng sinh. Đức Phật Thích-Ca đã đi tìm cái riêng cho mình, nhưng khi tìm được thì đó lại là cái chung cho tất cả mọi loài trong vũ trụ bao la. Và Ngài nhìn ra mười phương thấy vô số Đức Phật trong quá khứ, hiện tại và sẽ còn có trong tương lai. Mà chúng sinh đau khổ cũng trùng trùng điệp điệp: "Nước các đại dương góp lại vẫn chưa bằng nước mắt của chúng sinh".

10/ Tư Tưởng Thiện: Nếu nói đến cái Thiện, thì chắc không tư tưởng nào có thể so sánh với giáo lý đạo Phật. Tư tưởng Khổng giáo nói về cái "hiếu" đối với cha mẹ, nhưng trong giáo lý nhà Phật thì nó lại thâm sâu hơn nhiều: Vì cái hiếu trong Đạo Phật, ngoài những đặc điểm nhớ công ơn sinh thành, phụng dưỡng, đối đãi... cha mẹ lúc sống như Khổng giáo; nhưng người con trong đạo Phật còn đi sâu vào vấn đề tâm linh, hồi hướng cho cha mẹ nữa. Từ cái hiếu đối với cha mẹ, rồi nhân rộng ra tới chúng sinh. Chúng sinh trong nhiều đời nhiều kiếp đã là cha mẹ, con cái lẫn nhau rồi. Cho nên không sát sanh cũng lại là điều hiếu thảo.
Để mong mình giải thoát, đầu tiên người theo Đạo Phật được khuyên "đừng sát sanh". Không sát sanh thì mình không gây ân oán, thù hận để dứt đi cái nhân "oan oan tương báo". Nếu như bây giờ mình giết một con gà, thì trong một kiếp mai sau nào đó, con gà nó sẽ giết lại mình để công bằng nghiệp quả. Đó là luật nhân quả "Ngày nay ta vay, thì sau này phải trả". Đức Phật đặt ra "mùa an cư kiết hạ" để những người tu tập có thời gian học đạo nhiều hơn; nhưng cũng trong mùa mưa đó côn trùng sinh sôi nẫy nở, giới hạn sự đi lại cũng chính là để bảo vệ mạng sống của côn trùng, đồng thời chúng tăng không phải vô tình sát sanh hại mạng quá nhiều. Những giới cấm tiếp theo như "không trộm cướp, tà dâm, uống rượu, nói dối" cũng nhằm tránh đi những sai lầm gây ân oán của mình, cũng không gây khổ cho người, để con người của chính mình trở nên hoàn thiện, không còn gây nhân xấu nào nữa để mình trở thành bậc Giác Ngộ. Tuy nhiên, trên con đường tu tập nó đòi hỏi ta quên mình. Không còn thấy ta với người, với chúng sinh, mà chỉ thấy tất cả là một, và không giới hạn trong khoảng thời gian nào nữa cả, thì lúc đó tất cả đều ở trong một cõi vĩnh cữu, cõi ấy là cõi "Bất Nhị" hoặc "Không hai"; và đó mới đúng là cái cõi "Chân Như", là Niết Bàn, là Đại Viên Cảnh Trí, là Như Lai Tạng, là cứu cánh của con đường giác ngộ với bốn Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh vậy.


Nguyên-Thảo,

16-05-07.
Tài liệu tham khảo:
-Đức Phật và Phật Pháp, Narada Thera, Phạm kim Khánh dịch
Nhà xuất bản Thuận Hóa, Thành Hội Phật Giáo TP.HCM, 1994.
-Tài liệu "Tổng Quan về Giáo Lý Đạo Phật, Nguyên Thảo ghi soạn, 2005.

Câu Chuyện Bùa Ngải.

-"Em cứ dẫn chị đi!"
Thế là bao nhiêu lần Đồ tôi cố thuyết phục bà chị họ, nhưng bây giờ chị đã quyết định một cách cứng chắc, hẳn hoi.
"Em cứ dẫn chị đi!", Đồ tôi còn nghe âm vang rõ mồn một, và cũng không phải là nghe lầm.
-"Ừ! Thì tùy chị vậy! Chứ thật tình em không muốn đến chỗ đó nữa. Vợ chồng em đã "cúng" cho bả gần hai chục ngàn đồng rồi mà thấy chẳng có kết quả gì hết cả. Mà khi tới đó em có cảm giác làm sao ấy, nội cái mặt của bả không cũng khiến cho mình đã "thấy ghê" rồi, lại thêm không khéo bả vẽ thêm chuyện nầy chuyện khác thì lại tốn tiền và sanh thêm nhiều phiền phức".
Đồ tôi muốn giải thích nữa, nhưng bà chị lại sốt sắng cắt ngang:
-"Chị quyết định rồi, tao phải tới bà ta! Tức quá mà! Như không bị người ta lấy mất một mớ vải. Con mẹ đó còn để lại cái tụng đệm rách nữa, tao phải tìm cách để nó phải trả lại mới được, tốn thêm mấy ngàn nữa tao cũng làm".
-"Thôi đi chị à! Chỉ sợ đã mất tiền nầy mà lại phải tốn tiền kia nữa thì oan uổng lắm! Thôi thà cứ coi như là mình "xui" đi cho đở buồn!"
-"Không được! Tức quá mà, em phải dẫn chị đi; giờ tốn thêm vài ngàn nữa tao cũng phải làm; như không nó lên xe "lam", ngồi gần tao. Khi nó xuống nó lấy mất vải của tao, mà tao cũng chưa tỉnh; khi tỉnh thì tao đã mất đồ rồi! Tao không thể chịu được".
Cuối cùng, Đồ tôi không thể nói gì ngăn cản cho bà chị họ được nữa. Sự căm tức đã khiến cho chị quyết chí làm, quyết chí trả thù cho kỳ được, dù phải mất thêm một số tiền bằng phân nữa giá trị số hàng mà người ta đã "nhẫn tâm" dùng bùa mê làm cho chị mê và lấy mất trên đường chị đang đi bán.
-"Bây giờ em có rảnh không? Chị muốn đi ngay bây giờ!"
-"Thôi đi chị à! Thật tình em không muốn gặp bà H. N. đó nữa! Em sợ bả lắm rồi, sợ luôn vấn đề bùa ngải... Em sợ lắm, chị đừng bắt em phải tới đó nữa!"
-"Em giúp chị đi! Tại chị không biết chỗ, nếu biết chỗ thì chị đi một mình chớ nhờ em làm gì. Em giúp chị lần nầy thôi! Mai mốt chị đi một mình!". Bà chị họ Đồ tôi nhẹ giọng khiến Đồ tôi cũng thông cảm nỗi lòng của chị:
-"Thôi được, hôm nay em mắc bận. Nếu chị muốn đi, thì trưa mai đi vậy!"
Đồ tôi không thể cản được bà chị, thì thôi đành thối thoát qua ngày hôm sau; điều đó chỉ mong bà chị đêm nằm suy nghĩ lại mà có thể đổi ý để cho Đồ tôi khỏi phải gặp "bà thầy" bùa ngải quái ác đó nữa; và bà chị họ của Đồ tôi cũng không phải mất thêm một số tiền mà không biết kết quả có được hay không!
Nhưng bà chị của Đồ tôi lại quyết chí, thế là Đồ tôi phải "bấm gan" lấy xe gắn máy Honda, và sửa soạn hành trang để "lên đường". Trời trưa nắng chói chang, Đồ tôi "ngần ngừ":
-"Thôi đi chị à! Em nghĩ chị nên bỏ đi! Kinh nghiệm ở vợ chồng em rồi, tiền mình bỏ ra thì dễ, nhưng kết quả chưa biết ra sao, lở mất nữa thì uổng quá! Chị thấy hôn, như những chai thuốc hiệu Kim Khuê ở chợ Tân Định em chỉ mua có khoảng ba trăm rưỡi, nhưng bà ấy chắc cũng mua ở đó, nhưng về bả lột hết nhãn hiệu rồi nói thuốc đặc biệt của bả, bả bán cho em hết bảy ngàn rưỡi năm chai. So sánh vị thuốc lẫn chai thuốc, cách đóng nút, hàn sáp không có gì khác cả, chỉ có nhãn và không dán nhãn mà thôi! Coi chừng bị mất tiền thêm nữa đó, chị tính kỹ lại coi!"
-"Chị tính kỹ rồi! Em cứ chở chị đi."
Đồ tôi thấy "hết nước" để nói cho chị nghe, rồi Đồ tôi gặn lại chị:
-"Nếu mai mốt có mất thêm tiền hay có gì chị đừng trách em nhe! Chứ thật tình em không muốn chị vướng vào đó. Tụi em là chuyện bất đắc dĩ đành phải chịu vậy thôi!"
Cuối cùng, Đồ tôi phải lên xe đưa chị đi. Trên đường đi Đồ tôi luôn lúc nào cũng mong cho chị thay đổi ý kiến để Đồ tôi được nhẹ nhỏm; nhưng chị thì không, cứ mãi ấm ức về số vải bị mất, giá trị khoảng mười lăm ngàn đồng. Chị kể và chị nói về những tức tối của chị, Đồ tôi chỉ biết nghe mà không biết phải nói những gì, chỉ biết tìm lời để an ủi chị thôi! Và chỉ mong chị đừng vương vào bà H. N. nầy nữa.
Xe qua Nhị Bình, An Phú Đông và rốt cuộc chúng tôi cũng đã đến Chợ C.. Đẩy xe xuống dốc bên đường, đi vào đường hẻm không xa, đã đến nhà bà H. N. rồi!
-"Tới rồi chị Năm!"
-"Em vô trước đi".
Đồ tôi vào nhà, chị họ Đồ tôi theo sau. Nghe tiếng ở phía trước đã biết là có khách, nên bà H. N. từ nhà trong đi ra.
-"Chào chị! Hôm nay tôi đến chị tính nhờ chị giúp cho bà chị họ của tôi một chuyện. Đây là bà chị họ của tôi.
Chị họ Đồ tôi gật đầu chào xả giao với bà H. N.. Thoáng thấy trên gương mặt chị có vẻ giật mình, Đồ tôi đoán biết chị đã có ý sợ "bà Thầy" nầy rồi, cũng như vợ chồng Đồ tôi thuở lúc trước thôi! Bà H. N. có gương mặt vuông của người xứ ngoài, bà ấy cũng có nét đẹp trên gương mặt, nhưng bất cứ ai nhìn vào sẽ thấy hai điều: Cái mũi của một người phù thủy hơn là một người thường, hai là trên làn da gương mặt nó biểu hiện cái ác, không chân thực hơn là sự hiền hậu. Điều đó khiến người đối diện phải suy nghĩ về tính độc hại của vấn đề bùa ngãi, không biết có phải là như thế hay không, mà sao có những gân xanh hoặc hơi thâm chạy trên da mặt của bà ta khiến gương mặt của bà ấy có nét khó nhìn, hoặc nếu đã nhìn thì không thể nghĩ tốt cho bà ta được.
Bà H. N. kéo ghế mời chị họ Đồ tôi ngồi, còn Đồ tôi thì tự nhiên hơn vì là chỗ khách hàng cũ. Xong bà ta đi làm hai ly nước đem đến. Đồ tôi và bà chị họ không dám uống vì trước khi đi Đồ tôi đã có dặn trước chị rồi.
Nói chuyện được một lát, chị họ Đồ tôi xin phép bà H. N. đi lấy dĩa lớn bày trái cây ra để cúng trên bàn thờ Tổ. Xong xuôi, qua vài câu chuyện xã giao bà H. N. hỏi tên họ của chị họ Đồ tôi và đến để xin về việc gì. Chị họ Đồ tôi thật tình kể hết đầu đuôi gốc ngọn cho bà ta nghe. Xong, chị hỏi về giá cả:
-"Chị có thể giúp dùm được không? Và giá cả là bao nhiêu?
-"Được chứ! Nhưng về giá thì mười tám ngàn", bà H. N. trả lời.
-"Chị giúp dùm, sao mà nhiều quá vậy!". Chị họ Đồ tôi có vẻ than phiền.
-"Không nhiều đâu! Em cũng là chỗ thân thiết với Ngọc T. đây và cũng là bạn với vợ chồng N., Ph. thì cũng chẳng lạ với chị đâu, chị tính như vậy đã là nới rồi đó!"
-"Em không có nhiều tiền như vậy!"
-"Chứ bây giờ em có bao nhiêu?"
-"Em chỉ có bảy ngàn thôi!"
-"Như vậy thì chị không thể giúp em" Bà H. N. ngưng một chút, ra chiều suy nghĩ, rồi bà ta nói: "À! Hay em thế chiếc vòng cẩm thạch đi cộng với số tiền em hiện có".
Chị họ Đồ tôi có vẻ phật ý: "Không được! Đây là là chiếc vòng cưới mà má chồng em cho khi đám cưới, em không thể cầm thế nó được!"
-"Hay em thế dây chuyền đi, kỳ tới em xuống đem tiền rồi lấy nó về".
Chị họ Đồ tôi cũng quả quyết: "Không được, dây chuyền nầy cũng là đồ cưới, em không thể để lại đây được!"
Sau một thời gian suy nghĩ, cuối cùng bà H. N. đồng ý cho chị họ Đồ tôi thiếu số tiền sai biệt còn lại vì bà nói chị là chị họ của Đồ tôi; và chị họ của Đồ tôi cũng chấp nhận để bà H. N. làm phép cùng cho ngải. Thế là chị họ của Đồ tôi phải tốn thêm mười tám ngàn đồng nữa rồi!
Sở dĩ sự xưng hô ở đây khác với nhiều nơi vì Bà H. N. vốn trước kia quen biết với đứa em chú bác của vợ Đồ tôi tức là Ph., và chồng của cô ta là N.; vì hai vợ chồng sống với nhau khá lâu nhưng chưa có con, sau đến nhờ bà H. N. nầy mà bắt đầu có con. Điều đó không biết đúng hay sai nhưng họ tin bà nầy lắm, thường hay đến thăm viếng, cúng kiến vì thế mà bà H. N. xem như người nhà chỉ cho xưng hô là "chị, em" chứ không là "thầy" với "con" như thường tình. Từ đó, đến vợ chồng Đồ tôi và bây giờ đến lượt chị họ của Đồ tôi cũng là như thế!
Sau khi mọi việc xong xuôi, Đồ tôi "đèo" chị họ lên xe Honda mà trở về. Chị họ Đồ tôi cứ thắc mắc về thái độ bắt chị "cầm cố" nữ trang, rồi đến gương mặt "trông phát ghê như là mấy bà phù thủy", rồi "không khéo đã bị bùa mất vải, bây giờ lại thêm bị gạt nữa đây". Bao nhiêu ưu tư của chị, chị nói ra; nhưng Đồ tôi cũng không biết nói với chị thế nào cho phải cách, đành phải lặng thinh.
-"T. à! Chị muốn bỏ mấy thứ nầy, và chị cũng không tới bà H. N. nầy nữa. Em thấy sao? Thôi chị thí cô hồn cho bả bảy ngàn đó thôi!"
Chị họ Đồ tôi hỏi thình lình, khiến Đồ tôi cũng khó tính ra nước cờ cho ổn thỏa, nhưng Đồ tôi cũng vội trả lời:
-"Tùy chị! Chị tính sao thì tính".
Chúng tôi đẩy xe đi qua cầu sắt, chị họ Đồ tôi quăng cái tụng đệm rách của người bỏ bùa lấy vải đã bỏ lại cho chị lúc trước xuống dòng nước rạch đang chảy, và mở gói giấy của bà H. N. ra; thì ra đó là gói củ ngải. Chị Đồ tôi nói:
-"Sao giống củ riềng quá T. à!"
-"Em đâu có biết củ riềng mà cả củ ngải nữa, em đâu biết nó ra sao!"
Trên đường về câu chuyện giữa chị họ và Đồ tôi quanh quẩn về bà H. N.. Để rồi chừng tuần lễ sau, chị họ Đồ tôi cho hay đã đến ông thầy bùa ngải ở trên tỉnh nhờ ổng gỡ dùm. Và hai vợ chồng Đồ tôi cũng phập phồng lo sợ và đến đó nhờ ông giúp một phen. Ở đây ông nầy chỉ làm phước, nhưng phải có con gà cúng Tổ trong lần đầu tiên. Từ đó số chai thuốc còn lại của bà H. N. Đồ tôi đem quăng vào hố rác Mỹ trên bìa rừng dọc đường lên tỉnh, mà chỉ mua thuốc của nhà thuốc Kim Khuê trên đường Hai Bà Trưng ở chợ Tân Định - Sài gòn để uống mà thôi. Và cũng từ dạo ấy vợ chồng Đồ tôi "chào giã từ" bà H. N., không "hẹn ngày tái ngộ".
Nhưng chuyện bùa ngải không đơn giản như vậy! Nếu nó giản đơn thì Đồ tôi đâu cần phải viết đến chuyện nầy để làm gì?
Vốn là chuyện vừa kể ở trên xảy ra từ năm 1971, lúc đó vàng khoảng trên hai chục ngàn một lượng mà số tiền vợ chồng Đồ tôi uống thuốc non hai chục ngàn; còn bà chị họ của Đồ tôi chuộc bùa ngải cũng là mười tám ngàn, quả thật là một số tiền không phải nhỏ. Sau đó vài năm, cuộc chiến càng ngày càng ác liệt và sôi động khắp mọi nơi. Và sau ngày chấm dứt chiến tranh 30-4-75, cuộc sống người dân càng ngày càng trở nên khó khăn cơ cực hơn, trong chiến tranh mà người ta sống còn thoải mái hơn thời bình. Người người vào khoảng thời gian nầy lo vật lộn với miếng ăn, miếng mặc; những gia đình thuộc chế độ cũ lại càng tang thương hơn nhiều. Mỗi chế độ có một cách điều hành riêng, cách quản lý riêng, tốt thì dân chúng nhờ, xấu thì dân chúng chịu. Nhưng có một điều trên thực tế chứng minh rõ ràng rằng: Chế độ nào cũng đều nói là "cho dân và vì dân", nhưng bao giờ cũng chỉ là cho đảng phái phe nhóm của mình, cho giới lãnh đạo cầm quyền mà thôi, chứ dân thì "sống chết mặc bay!". Vì thế, người xưa có nói: "Cách mạng là thay cũ đổi mới, cái mới tốt hơn cái cũ", đó chỉ là câu nói để "lòe đời" hay nói để mà chơi, để dân chúng an lòng làm tôi mọi cho giới lãnh đạo, cầm quyền. Ôi! Trên thế gian nầy "Ý dân là ý trời"! Quả là có thật như vậy hay chăng???
Những thay đổi lớn lao, những biến đổi tang thương đã xảy ra. Người thành phố về quê để tìm lối sống mới, người tìm đường vượt biên tan tành sự nghiệp; người trí thức phải ra đi, người chế độ cũ phải tập trung lên rừng, dân chúng sống mà chẳng thấy ngày mai, một sự xáo trộn chưa từng thấy trong lịch sử. Trong sự biến động ấy mà Đồ tôi phải chở bà chị họ đi tìm nhà bà H. N. sau đó bốn năm.
Một buổi chiều vào năm 1979, Đồ tôi đang phụ giúp quét dọn chỗ bán cà phê cho má Đồ tôi thì người ta ồn ào nhìn ra ngoài đường. Đồ tôi nhìn theo, có hai chiếc Honda chạy nhanh qua, một chiếc do ông anh lái đang chở bà chị họ ngồi ở giữa, người nghiêng qua nghiêng lại, bà dì ngồi ở phía sau để kềm cho chị khỏi té; còn chiếc khác là người chị thứ ba cưỡi chạy theo sau. Đồ tôi vội kêu má:
-"Má ơi! Ai giống chị năm bị bịnh như thế nào đó mà anh tám chở đi phải có dì Tư ngồi kềm ở phía sau".
-"Ở đâu?"
-"Mới chạy qua nè! Chạy về bễn đó!"
-"Thôi dọn lẹ đi! Chút mầy chở tao đi qua bễn coi nó ra làm sao vậy!"
Đồ tôi cố gắng làm cho xong để đi qua bên nhà bà dì với má. Công việc cũng vừa gần xong, thì lại có tiếng xe Honda ồn ào rồi ngừng trước cửa. Đồ tôi ngó ra thì bà dì, chị ba, anh tám, có cả chị năm bước vào:
-"Ngoc T. ơi! Em phải chở chị tới nhà bà H. N. ngay tối đêm nay, nếu không, quá nửa đêm nay chị sẽ chết. Chị chết rồi bỏ con chị lại bơ vơ. Tội nghiệp lắm Ngọc T. ơi!"
Đồ tôi nghe mà lạnh lùng! Lòng cảm thấy bồi hồi. Không ngờ sau ngày 30-4 cả 4 năm lại cũng còn có bà H. N.. Và bảy, tám năm sau bà H. N. sai bùa ngải bảo Đồ tôi làm và bà chị Đồ tôi phải trả nợ.
Chẳng có ai gọi tên Đồ tôi là Ngọc T. bao giờ, chỉ có một mình bà H. N. mà thôi! Bây giờ chị họ Đồ tôi lại nhắc Đồ tôi nhớ về thuở nọ:
-"Ngọc T. ơi! Bây giờ em phải chở chị xuống bà H. N., nếu quá nửa đêm nay chị sẽ chết! Con cái chị ai nuôi, tôi nghiệp lắm Ngọc T. ơi!" Chị họ Đồ tôi thất thần lập lại lần thứ hai khiến Đồ tôi vừa xúc động mạnh vừa nghe ớn lạnh chạy dài nơi xương sống. Đồ tôi băn khoăn:
-"Đã bảy, tám năm rồi biết bà H. N. bây giờ ở đâu mà tìm? Hơn nữa chiều tối rồi làm sao mà kiếm được nhà bả?"
-"Được mà! Ngọc T. tìm được mà! Em đưa chị đi đi, nếu không qua nửa đêm nay chị sẽ chết". Nói xong chị lại khóc.
Dì Đồ tôi nói:
-"Con ráng đưa chị con đi đi con, để tội nghiệp nó với con nó. Ráng đi dùm dì đi con!"
-"Dạ! Để con soạn đồ, lấy xe ra".
Đồ tôi vào thay vội quần áo và đẩy xe gắn máy ra, chuẩn bị cho cuộc hành trình. Chúng tôi đi ba xe. Anh tám chở chị ba, Đồ tôi chở chị họ và người anh họ khác chở bà dì.
Vì mắt Đồ tôi yếu khi nhìn về đêm cho nên chúng tôi chạy khá nhanh để xuống đến Chợ C. trước khi trời thật tối. Chở chị đi mà lòng Đồ tôi mãi không an tâm, vì lúc ban chiều chị ngồi ở giữa mà còn nghiêng qua ngã lại, huống hồ bây giờ chị ngồi một mình ở phía sau lưng Đồ tôi.
-"Chị ráng ngồi cho vững nhe! Chiều tối rồi em chạy hơi nhanh đó, để xuống đó còn phải tìm nhà nữa, không biết tìm được hay không nữa. Sau ngày "giải phóng" người ta thay đổi chỗ ở lung tung, nếu bả đổi chỗ thì đâu biết đâu mà tìm!"
-"Không sao đâu! Ngọc T. biết chỗ mà! Ngọc T. cứ chạy đi, hồn đã bắt cái xác nầy ngồi yên rồi mà!"
Đồ tôi nghe câu nói ấy mà nổi "da gà" và nghĩ rằng mình đang chở một con ma ở sau lưng. Tuy nhiên, Đồ tôi cũng trấn an lấy mình và cố gắng tìm cho được bà H. N. trước nửa đêm dù điều kiện sau đó là thực hay là hư. Trên đường đi Đồ tôi sợ bà chị họ buồn ngủ hay lơ đễnh có thể té ngã và xảy ra tai nạn, cho nên Đồ tôi luôn phải hỏi chị. Và chị cũng nhắc lại chuyện trước kia lúc đi, đến bà H. N. và cả lúc về. Những chi tiết ấy Đồ tôi tưởng mình đã quên mất tự lâu rồi, bây giờ lại lần hiện ra. Ký ức càng hiện ra Đồ tôi lại càng sợ đến bùa ngải nhiều hơn.
-"Chị vịn chắc nhe! Đến đoạn đường xấu rồi, coi chừng té đó".
-"Ngọc T. yên chí! Cứ chạy đi, cái hồn đã giữ cái xác nầy ngồi yên rồi, không sao đâu!".
Dù nghe thế, nhưng Đồ tôi vẫn không an lòng. Vả lại, trong lòng Đồ tôi đang mang mang nhiều suy nghĩ, vừa nghĩ đến tình cảnh của chị; vừa nghe lương tâm mình áy náy mặc dù trước kia Đồ tôi đã báo trước cho chị nhiều lần; vừa cảm thấy sự "không thiện" nào đó của những con người chơi với bùa ngải, sử dụng bùa ngải để thoả mãn lòng tham của mình; vừa không biết tìm được nhà bà H. N. cho chị hay không; vừa nghĩ đến lỡ tìm bà H. N. không được mà quá nửa đêm chị chết thiệt thì sao đây? Đồ tôi hỏi chị để dứt luồng suy nghĩ, ưu tư ấy:
-"Chị thiệt hôn! Nói như vậy mà buông tay té thì nguy hiểm lắm đó nghe!".
Chị họ Đồ tôi cười, giọng cười nghe lạ lùng làm sao! Không phải giọng cười của chị! Chắc chắn không phải giọng cười thường ngày của chị; hay là Đồ tôi bị ám ảnh rồi chăng?
Cuối cùng, chúng tôi cũng đến được Chợ C. khi màn đêm hoàn toàn buông xuống, Đồ tôi ngừng xe, chống "tó" lên, đậu xe bên lề đường và vội đi vào hẻm. Gặp được một chị, Đồ tôi hỏi ngay:
-"Chị, chị cho hỏi bà H. N. còn có ở đây không chị?".
Chị ấm ớ hỏi:
-"Bà H. N. nào?"
Đồ tôi ngẫn người suy nghĩ: "Thế nầy thì làm sao tìm được bà H. N. đây?". Nhưng cũng may, có một bà trung niên khác, nghe thấy liền đến hỏi Đồ tôi:
-"Cậu muốn tìm bà H. N., phải bà Thầy bói H. N. trước kia ở đây không?"
-"Dạ phải!"
-"Bây giờ bả lên Trung Chánh rồi! Bả lên ở đó cũng lâu rồi!"
-"Dạ Trung Chánh ở đâu vậy bác? Bác chỉ dùm con!"
-Trung Chánh ở đường lên Quang Trung đó. Bây giờ, cậu chạy tới trước khoảng một khoảng đường, rồi tới một cái ngã ba, cậu đi ngã bên phải. Cậu đi ngã đó khoảng chừng ba, bốn cây số thì tới xóm Trung Chánh, tới đó cậu hỏi người ta, người ta sẽ chỉ cho".
Đồ tôi cám ơn bà ấy rối rít, và thấy được hi vọng ở điều mình muốn tìm. Đồ tôi thật sự đã mừng thầm.
-"Hi vọng rồi dì Tư! bà H. N. dời lên Trung Chánh; cũng may nếu không có bà đó chỉ đường thì chắc khó tìm ra!
Đoàn chúng tôi lại tiếp tục chạy lên Trung chánh. Tới xóm tương đối đông đúc, chúng tôi dừng xe, Đồ tôi nói với bà dì:
-"Bây giờ ở đây, để con đi hỏi người ta coi nhà bà H. N. ở đâu?"
Chị họ của Đồ tôi vội thốt lên:
-"Chị biết rồi!". Vừa nói xong chị bươn bả đi. Dì Đồ tôi và người chị ba phải chạy theo. Riêng phần Đồ tôi vẫn phải đi hỏi người ta về nhà của bà "Thầy bói H. N.".
-"Cậu đi tới mấy cái nhà gần chỗ trụ đèn đó, ngó kỹ cái nhà nào có để tấm bảng nhỏ nhỏ để chữ H. N. là nhà của bả đó!"
Đồ tôi thêm một lần cám ơn và ra xe đi tìm nhà bà H. N..
Đến nơi Đồ tôi không vào, vì hai người phải giữ ba chiếc Honda, nên Đồ tôi để cho bà Dì cùng anh chị họ theo chị Năm vào trong. Vả lại, Đồ tôi cũng không muốn gặp lại bà H. N. để làm gì. Gặp để có nhiều phiền phức thì chẳng nên gặp làm chi.
Sau khi giải quyết món nợ "ân oán" đó, chúng tôi cùng nhau về khu nhà trên đường Lê Văn Duyệt ở Bà Chiểu, là nhà của chị họ Đồ tôi để nghĩ qua đêm. Nhà chị trang trí thờ cúng cũng có đầy vẻ "âm binh"!
Sau đó nhiều năm, ai nấy bận lo tìm đường mưu sinh trối chết, cho nên Đồ tôi ít gặp lại chị, chỉ thỉnh thoảng trong những ngày giỗ bên nội của chị, chứ bên ngoại của chúng tôi thì chị lại ít hay về. Cái nét của chị vào thuở sau nầy có nhiều tính "bà Thầy" hơn. Một lần ông cậu làm "thầy pháp" của chúng tôi, trong lúc ngồi uống cà phê tại quán má Đồ tôi đã nói: "Con Năm nó nhiều thầy quá, thành ra âm binh trong mình nó không tương nhượng lẫn nhau mà xảy ra chuyện không lành!"
Đồ tôi không hiểu nhiều về vấn đề huyền bí, nhưng những điều ấy đã làm cho Đồ tôi trở nên sợ, sợ đến cả những người vương vào bùa ngải.
Sau đó, khoảng bốn năm Đồ tôi đã may mắn có cơ hội đi vượt biên. Đến khi vợ con được sang Úc theo diện đoàn tụ gia đình thì bà chị họ của Đồ tôi đã thật sự là một "bà Thầy", nhưng chắc chị làm "Thầy" cũng là do từ "Âm binh" của những người khác cho vay hơn là chính của chị như lời của cậu Mười chúng tôi đã nói!
Đồ tôi chỉ đoán thế, chứ thực sự thì Đồ tôi lại "mù tịt" về cả vấn đề!

Đồ Ngông,
10-08-05.

Thơ Nguyên Thảo

* Cõi Âm Thầm!

Buông bức rèm thưa
Khung trời nắng đổ
Mùa đông buồn
Như gió thở qua song.

Con chim non
Đang thủ thỉ trong lồng
Lời nức nở
Từ giang sơn tù tội.

Cõi trời nào
Mang những linh hồn tội lỗi
Điệu hát buồn
Trôi dạt mãi trăm năm.
Câu hoang ca vang vọng âm thầm
Những tiếng nói
Cho một thời rêu đá!

Nguyên-Thảo,
03-06-07.

* Bàn Tay Mẹ.

Bàn tay này của mẹ
nâng niu con trong những buổi đầu đời
Đong đưa lúc võng, lúc nôi
Miệng à ơi, gật gù ru con ngủ.

Có những đêm dài
năm canh thao thức đủ,
Ngồi ôm con sốt ruột mãi trong lòng,
Cơn sốt nào,
cũng đưa mẹ hoài mong:
Cho con khỏe và ngày mau khôn lớn.

Bàn tay mẹ
Từng mơn con bú mớm,
từng lừa xương, đút mỗi muỗng con ăn.
Từng ôm con siết nhẹ trong lòng:
"Thương con lắm!
Mẹ thương con nhiều quá!"

Mẹ thương con
Tình thương con biển cả
như nước nguồn đem lắp mãi đại dương
Bao la ấy,
nhưng vẫn hoài, chưa thấy đủ...!

Nguyên Thảo,
23-07-07.

Thơ Đó Thơ Đây

* Chùa Đồng. (Quảng Ninh)

Một khối chùa Đồng
Trên đỉnh non cao
Tình sao vắng lặng
Lẫn vào cõi không.

Vì vua thoát tục
Xa rời cõi dục
Đi vào rừng tre (Trúc Lâm)
Ngồi nghe tĩnh lặng!

Đồ Ngông,
26/07/10.

* Nhà Vua. (Quảng Ninh)

Khi đã “Xuất” quyết bình yên thế giặc
Khí oai hùng tan tác gót xâm lăng
Kẻ làm cỏ khắp nơi trong thiên hạ
Phải cúi đầu ôm hận mộng san bằng!

Khi đã “Xử” rời lìa cung điện ngọc
Với bàn chân lặn lội đến non cao
Nghe chim hót, lặng yên trong rừng trúc (Trúc Lâm)
Uống nước khe, nghe tâm Phật đi vào!

Đồ Ngông,
26/07/10.

* Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử. (Quảng Ninh)

Nằm trên đồi cao cao
Gió đưa cành xôn xao
Nhưng trong chùa tĩnh lặng
Nghe tâm tư len vào.

Cảnh chùa nghe nhẹ êm
Khe khẻ như ru em
Cõi Thiền đang hé mở
Lòng tha thiết êm đềm!

Đồ Ngông,
19/07/10.

Thơ Đồ Ngông

* “Đầu Tiên”, “Tiền Đâu”?

Dĩ thực vi tiên, phải có tiền
Có tiền qua ải, mới vi tiên
“Tiền đâu?” đi trước thì xong việc
Bạc sẵn chìa ra chẳng lụy phiền
Chẳng có “đầu tiên”: Thì đứng đợi,
Không cầu “qua ải”: Mãi đưa duyên!
Vì đâu nông nỗi nầy như thế
Đi rảo mà xem, khắp mọi miền!

Đồ Ngông,
07/12/10.

* Phút Giây!

Phút giây trầm lặng lắng lòng
Đi vào an lạc, phá vòng trầm luân
Nghe nơi sáo nhạc vang lừng
Hồn ta vang khúc, với lời ngợi ca!

Đồ Ngông,
07/12/10.

* Cõi Đời!

Trong cõi đời nầy có lắm đau
Bon chen, tranh chấp, lại thêm cầu
Người người giành giật, quên ân nghĩa
Chúng chúng lừa nhau, mất nghĩa sâu
Một thoáng đi qua, là ảo mộng
Nghìn thu lại đến, chẳng tìm cầu
Trăm năm một cõi, rồi đi cả
Chẳng mấy ai còn tranh chấp nhau!

Đồ Ngông,
10/12/10.

Saturday, December 11, 2010

Đạo Phật 4- Từ Thần Thoại Đến Tôn Giáo...!

(Hay: Đạo Phật Là Một Ngoại Lệ).

Có lẽ ta phải nói rằng: ‘Từ khởi thủy con người vốn không có Tôn giáo’. Nếu nói như vậy sẽ làm phật ý một số lớn người sùng tín, ngoan đạo của bất cứ Tôn giáo nào. Nhưng căn cứ vào khoa học và thuyết Tiến hóa, thì đó “là một sự thực có luận lý”. Vì rằng trong điều kiện nào đó (duyên hợp) vật sống được sản sinh ra từ đơn bào tiến đến đa bào; rồi từ các loài sinh vật dưới nước đến loài lưỡng thê, loài sống trên đất liền và có loài biến thái thành khỉ, vượn, vượn người đến con người. Lại trong quá trình phát triển từ con người sơ khai cho đến con người văn minh cũng phải trải qua thời gian rất lâu dài trong lịch sử. Thế nên, ta cứ thử tưởng tượng những con người đầu tiên có nghĩ gì đến tôn giáo hay không?.. Vậy thì, tôn giáo bắt đầu có khi nào? Ta không thể xác định được thời điểm của nó, vì trước nền văn minh được truyền đến hiện nay đã có các nền văn minh trước đó; và lại biết đâu trước các nền văn minh trước đã có các nền văn minh trước nữa. Tuy nhiên, ta còn có thể lược một cách khái quát qua nếp sống từ sơ khai của con người thì ta cũng có thể sẽ hiểu một cách đại khái về sự thành hình của Tôn giáo. Nhưng dù thế nào đi nữa, ta khó loại bỏ được ý niệm: “Con người khởi thủy sống, sinh hoạt qua bản năng của mình và họ vẫn chưa phát triển được khả năng trí óc tối ưu mà tạo hóa đã ban cho”. Do đó, từ sống từng nhóm nhỏ đến hợp bầy; dùng đá cành cây làm vũ khí; ở thì ở hang động, hoặc du mục... Rồi do điều kiện sinh tồn họ mới tiến đến hợp thành bộ tộc, thôn xóm; trải qua các thời đại đồ đá, đồ đồng tới đồ sắt; biết cất nhà tạo nơi trú ngụ, trồng trọt, canh tác, chăn nuôi... Từ thuở ấy, trí tuệ con người bắt đầu phát triển nhanh chóng, biết trao đổi kinh nghiệm, tạo nên nền giáo dục, gom góp những cái hay cái dở truyền thụ lại cho nhau. Các kiến thức, kinh nghiệm từ đơn giản đến phức tạp, đa dạng, phong phú để tạo nên những tri thức văn hóa, khoa học, kinh tế, chính trị... ngay cả như tôn giáo hiện nay.
Vậy thì, vào khởi thủy, con người sơ khai chỉ biết kiếm lương thực, hái trái cây, đào củ, bắt cá để nuôi thân mình, đàn nhóm; họ chưa có khái niệm gì về tôn giáo. Từ những cơn mưa sấm chớp, sét đánh, đá lăn, cây ngã làm chết người nên con người hoảng sợ và họ tưởng tượng như có một vị nào đó vô hình điều khiển các hiện tượng ấy để làm cho người kia chết, cho nên”‘thần” được thành hình. Từ từ có thần sông, thần núi, thần lửa, thần sấm sét... Rồi phát triển song song với trí tuệ của con người, qua những bộ óc giàu tưởng tượng, các truyện kể, thần thoại, và huyền thoại được ra đời. Thế là các vị thần tạo nên vũ trụ, tạo ngày tạo đêm, tạo mây tạo gió, mưa; thần cai quản mặt trời, mặt trăng, thần của bốn mùa, thần tình yêu vân.. vân.. .Và rồi theo tiến trình phát triển của xã hội các bộ tộc đánh nhau để dành đất đai, lãnh thổ lập thành chế độ phong kiến thì lại có thêm thần chiến tranh, thần chết, thần phá hoại, xây dựng... Các vị thần trong giai đoạn nầy cũng được kết hợp thành vương triều, đa số lấy thần mặt trời làm chính yếu, cai quản cả trên trời dưới đất, chăm sóc phân công tất cả các vị thần. Nhưng tựu trung lại các vị thần đều mang tính chất của con người kể cả vị thần chúa tể, họ cũng biết tạo nên, cũng giận dữ, hờn ghen, giết chóc, rủa sả, hối tiếc... Đó là điểm chúng ta cũng cần lưu ý để về sau ta có thể nhận định được thế nào là một tôn giáo và thế nào là “bắt nguồn từ một thần thoại”. Lúc đầu các vị thần và người ở chung; các vị thần được mang thêm các quyền biến, phép tắc, tạo phúc, tạo hại rồi dần dần thần người tách biệt. Thần trở lên cõi trời, hay xuống cõi dưới đất, hoặc cõi nào mà người sáng tạo các chuyện ấy sẽ cho họ ở. Và người thì ở trên mặt đất như hiện nay.
Tiến trình thì có thể là như vậy! Nhưng vì sao có tôn giáo? Đó là điều kỳ thú nhất của con người. Theo như chúng ta biết con người ngoài sự hiện diện của thân xác ta còn có linh hồn, tâm thức hay tinh thần. Phần hồn ta không thể chứng minh một cách rõ rệt được, nhưng mà nó có: Những giấc chiêm bao là hoạt động của phần hồn, phần tâm thức, mà thân xác ta thì bất động giống như một xác chết; những người chết đi vài ngày khi tỉnh dậy kể chuyện chu du của mình; những người kể những kiếp trước mà ngày nay trên báo chí thường hay đăng tải, và những trường hợp nhập xác đoán đúng được quá khứ của người khác cũng là các điều đáng nói. Hiện nay trên thế giới nầy tôn giáo mang hình thức rất đa dạng như ta thường thấy:
- Có những tôn giáo bắt nguồn từ các câu chuyện thần thoại có sửa đổi một cách hợp lý, tinh vi hơn và được xây dựng thành một hệ thống, có một tổ chức chặt chẽ và biến thành giáo hội cho một dân tộc hay mở rộng thêm ra.
-Có những tôn giáo theo những nề nếp xưa cũ từ trong các chuyện thần thoại mà lưu truyền về tổ chức, cũng như về giáo lý, phong tục, luật pháp.
-Có những tôn giáo sản sinh từ sự tách rời với hệ thống giáo pháp cũ, qua sự canh tân hay sự phản kháng của các chức sắc trong hàng giáo phẩm mà tạo thành một tôn giáo mới.
-Có những tôn giáo phản kháng hẳn với tôn giáo mẹ như là một sự đối chọi, thường là những tôn giáo lập dị, những giáo phái của các nhóm tà giáo.
-Có những tôn giáo kết hợp từ chất của nhiều tôn giáo khác để trở thành một tôn giáo riêng.
-Cũng có những tôn giáo phát nguồn từ những giấc mơ, hay một sự huyền bí nào đó của người giáo chủ.
-Cũng có tôn giáo phát sinh từ sự suy tư của người giáo chủ.
-Và cũng có thể còn có nhiều cách khác nữa, tùy theo ước mơ hay tham vọng của người sáng lập ra đạo pháp: Vì chân lý, vì danh vọng hay vì bất tử (muốn được mọi người tôn thờ mình như một vị Thánh nếu không phải là một vị Thánh sống). Điều ấy chúng ta khó có thể hiểu được trong cõi đời nầy. Sự thánh thiện, chân lý hay ngụy thánh, chỉ có thời gian mới chứng minh được điều ấy mà thôi!
Vả lại, tôn giáo còn được sự hỗ trợ của người theo đạo, hành đạo trên con đường phát triển. Có những tôn giáo được phát triển qua lệnh dọa giết chết những người không theo đạo trong đế quốc của mình của một đại đế ngoan đạo. Có những xứ tôn giáo được coi là quốc giáo; hoặc có những tôn giáo phát triển theo đoàn quân viễn chinh, chủ nghĩa thực dân... Sự phát triển hòa bình, nhân đạo trong tôn giáo cũng thường là hiếm hoi. Ngoài ra, còn có tôn giáo muốn phát triển qua các cuộc bạo động, tạo thánh chiến hay bằng cách mạ lỵ đạo giáo khác trên tuyên truyền, sách vở hay cho người len lỏi phá phách... Chỉ vì tinh thần vị kỷ, chấp ngã mà cái của ta phải được tôn trọng, phát triển, phải hơn cái của người mà quên mất đi cái vai trò của Tôn giáo là “Đem lại sự an ủi tinh thần, là đáp ứng nhu cầu hạnh phúc cho tâm linh con người, ngoài cái hạnh phúc ấm no về thể xác”.
Dù gì đi nữa, đa số các tôn giáo vẫn có điểm chung nhằm hướng con người đến các điều Chân, Thiện, Mỹ đóng góp hạnh phúc chung cho loài người.
Nhìn vào những nét giản lược qua các hình thái thành hình của một số tôn giáo, ta thấy khởi nguồn từ con người sợ hãi đi đến thờ thần, rồi đa thần, từ đa thần đi đến thần chúa tể, từ ngôi vị chúa tể người ta chỉ còn giữ lại vị chúa tể ấy mà thôi tức là một vị thần độc nhất.
Nhưng qua quá trình lịch sử còn cho ta thấy nhiều điều khác nữa. Từ tôn giáo nầy đã sản sinh ra tôn giáo khác, từ tôn giáo khác sản sinh ra tôn giáo khác nữa, các khuyết điểm cũng dần được kiện toàn từ trong giáo lý, đến tổ chức, cách hành lễ, gây quỹ hoạt động, đào tạo người hành đạo và nhất là vinh hạnh cho người “tử vì đạo” hoặc “chiến đấu vì đạo giáo”. Đó là đầu nguồn của các cuộc chiến tranh tôn giáo là cuộc chiến âm ỉ, lâu dài, tiêu hao và đau khổ cho đời sống con người nhất trong các cuộc chiến tranh.
Đã có lần tôi viết tôi được làm quen triết lý của đạo Phật hay đạo Lão, đạo Khổng vào những năm còn “mài đủn quần trên ghế nhà trường” qua các bài cổ văn (giảng văn). Học thì biết vậy chứ tôi chẳng có thích thú gì mấy. Với các thầy cô, sách vở thì coi như đạo Lão, đạo Phật nói đến những vấn đề cao siêu. Tôi cứ thắc mắc “Thế nào là cao siêu?” và “Tại sao triết lý ấy lại cao siêu?”. Về sau, đến khi tôi đọc những câu chuyện kể trong quyển “Trang Tử Nam Hoa Kinh” của Nguyễn Duy Cần tôi thấy có nhiều chuyện tôi chưa hiểu tới được ý nghĩa của nó, nhưng chung quy nó có nét phóng khoáng của một con người, thế thôi!
Còn đạo Phật tôi đã quên nó lâu lắm rồi! Mãi khi gặp cơn bệnh tạo cho mình nhiều ưu tư, tôi tình cờ qua sự tĩnh tâm ðể làm cho tâm mình được an định trở lại mà bắt đầu tôi hiểu được triết lý đạo Phật hơn xưa. Thú thật, đến bây giờ tôi chẳng có hơn 10 bộ sách nghiên cứu về đạo Phật trong tay, mà phần lớn tôi cũng không có thì giờ để đọc. Thỉnh thoảng đi nghe thuyết pháp, thỉnh thoảng đến chùa dự vài lần sám hối. Nhưng tâm tôi đã quyết định “lấy tinh thần đạo Phật làm nơi nương tựa cho tâm hồn mình trong giai đoạn cuối của cuộc đời”, vì có nhiều lẽ:
1-Đức Phật là một con người như tôi: Đức Phật không nhân danh một ai, không bắt ai phải phụng thờ, Ngài cũng là một con người, vì hoàn cảnh Ngài có khác, nhưng Ngài dám từ bỏ cái hoàn cảnh rất được ưu đãi đó để chọn đến một phương cách sống thiếu thốn thì quả thực là siêu nhân.
2-Đức Phật bền lòng, không nản chí: Sau sáu năm gian nan đi tìm thầy học đạo, tự khép mình vào nếp sống kham khổ của pháp tu khổ hạnh, pháp tuyệt thực để sau cùng chọn lối sống trung đạo, và Ngài đã tìm được chân lý.
3-Chân lý ấy không đến từ thần thoại: Chân lý mà Đức Phật đã nhận ra từ trí tuệ (trí huệ) sau thời gian Thiền định nó gắn liền với tâm linh và thân xác của con người. Nó là vấn đề cụ thể, khoa học, có luận lý. Nó không từ trên trời rơi xuống, nó cũng không kêu gọi “tác quái, tác oai” trên thế gian nầy. Nó cũng không là lừa đảo, ma mị, bắt loài người tôn sùng mình như “một Đấng Tối cao có quyền năng kể cả hai chiều Thiện và Ác’.
4-Chân lý ấy được rao giảng và mời mọc: chứ không bằng những hình thức dụ dỗ, ràng buộc, dọa giết chóc hay “làm những khung sắt để nhốt chuồng” những con người theo chân lý của mình; mà bằng một sự thoải mái, rất tự do; ai thích thì đến, ai không thích thì thôi; và Đức Phật cũng nói mình chỉ là một Đạo sư, là một kẻ chỉ đường, dẫn đường đến nơi an lạc, thanh tịnh mà Đức Phật đã đến được rồi.
5-Chân lý của Đức Phật chỉ rõ cho mọi người thấy mỗi sinh vật, mỗi sự sống đều có cùng bản thể là Phật tánh, khác nhau chỉ vì hình thức khác nhau, thân xác khác nhau. Cho nên Đức Phật kêu gọi bớt đi sát nghiệp, thương tất cả chúng sanh. Và ngay cả sự phát triển Đạo lý của Ngài cũng rất hòa bình, nhân ái: “Người ái mộ chân lý đi tìm học, thỉnh kinh điển, diễn ra chữ nước mình. Vua chúa thích thì cũng chẳng bắt dân ưa (chứ không như Đại đế mộ đạo dọa bắt giết tất cả những người trong đế quốc không theo đạo của mình theo như thời Trung cổ bên Âu châu). Và Đạo Phật cũng không hề theo gót chân của đạo quân viễn chinh nào để truyền bá đạo giáo. Đó là sự phát triển Đạo một cách rất êm thấm, hòa bình, tự do và nhân ái.
6-Đạo Phật là một chân lý nhân sinh: Chân lý của Đức Phật chỉ cho mình biết: Mình có mỗi một kẻ thù là Dục ái. Dục ái là nguồn gốc của mọi khổ đau; chiến thắng được kẻ thù ấy là ta sẽ phá được vòng luân hồi sinh tử, không còn lặn hụp trong lục đạo mà sẽ tiến về cõi thanh tịnh, niết bàn, hoặc chân không diệu hữu. Do đó, Đức Phật mới nói đến “Tứ Diệu Đế”, thực hiện “Bát Chánh Đạo” và qua “Lục Độ Ba La Mật”.
7-Chân lý Đạo Phật xây dựng nếp sống con người từ vật chất lẫn tinh thần và nền hòa bình thế giới: Muốn tiến đến được giải thoát, người theo đạo sẽ theo thể thức từng bước tự tu, trau dồi thân tâm của mình cho được trong sạch (giữ ngũ giới), rồi tiến đến cao hơn như trong hàng bồ tát giới, cư sĩ tại gia, hoặc xuất gia. Tự mình tu đồng thời cùng giúp đỡ người khác tu trong tinh thần tự độ và độ tha. Với sự hòa ái, yêu mọi sinh vật như yêu mình, và qua tình thương quảng đại ấy sẽ rất là tích cực xây dựng một nền hòa bình vững chắc cho nhân loại.
8-Đức Phật không ích kỷ, ganh ghét: Khi tìm được chân lý (Sau 49 ngày thề chết nếu không tìm được) Đức Phật đã bắt đầu rao giảng, độ chúng. Ngài làm việc ròng rã hơn 45 năm trời, với chân trần lê gót từ nơi nầy đến nơi khác để nói rõ, chỉ cho con người nẽo đường đi đến nơi trút bỏ được những khổ đau, tìm được niềm an lạc vĩnh cữu. Ngài không sợ con người đời sau tranh giành quyền hay địa vị của Ngài, Ngài không hề tạo ra chết chóc để tiêu diệt, hoặc làm tai họa trút xuống loài người bằng sự ích kỷ của mình. Ngài kể đã có rất nhiều vị Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai đang độ chúng hoặc sẽ độ chúng. Phật không phải chỉ ở cõi Ta bà, Phật còn ở cõi Tây Phương, Đông Phương... nhiều và nhiều lắm: Vô số Phật ở mười phương.
Vậy thì thành Phật cũng đâu là khó lắm phải không bạn ?!!...

Nguyên Thảo,
08-07-01.

Chửi!

Nói đến chửi, người ta thường nghĩ ngay cái miệng của một con người nào đó mở to và có những ngôn từ không được thanh cao, văng ra những lời tục tỉu, bẩn thỉu cùng với nhân cách khiếm nhã, mặt mày hầm hầm, đỏ gay. Ôi! Chửi để chứng tỏ mình đang có những bực tức ở trong lòng, cần phải "xổ" ra cho nó nhẹ nhàng thơ thới; với bao nhiêu "căm hận" cần phải được tuôn, giống như ta khi "mắc quá" phải xách quần chạy thật nhanh. Khi đã "giải quyết" được rồi! Thật không có gì khoái bằng, cho nên người đời đặt nó nằm trong "tứ khoái" cũng là hợp lý. Chửi cũng giống như vậy!
Chửi không phải độc quyền của người lớn. Đứa con nít cũng biết chửi, người dốt cũng biết chửi, chứ không phải chỉ những người có học, trí thức mới biết chửi. Đôi khi người dốt, thuộc loại "dân ngu cu đen", thế mà họ lại chửi còn hay hơn là người "có ăn có học".
Thói đời, người ta tưởng rằng cứ chửi cho hăng, cho khỏe thì sẽ chiếm được "thượng phong", cho nên họ thường dồn mọi khả năng để luyện nó được thuần thục, thành thạo hơn. Cố uốn cái miệng cho mềm, dũa cái môi cho mỏng để chửi cho trơn, cho "có văn có vần" nhằm lôi cuốn, thu hút người nghe, để lái thiên hạ đứng về phía mình; dù họ chưa biết "ất giáp" gì cả.
Chửi cũng nằm trong vấn đề "tâm lý" của con người. Nó giống như là một nhu cầu, nếu căm tức mà không giải quyết được thì người ta có thể sẽ phải "nổi cơn", có khi còn đi xa hơn: Đến hành động, bạo hành, đánh đập. Nhưng cái "nổi cơn" ấy cũng tùy thuộc vào cá tính của từng cá nhân: Nếu họ là người trầm tĩnh thì hành động nhu hòa, thân thiện và có ý thức; còn trái lại, nếu là người nóng tánh thì hơi khó lường hoặc nói trước những gì sẽ xảy ra.
Chửi vào thời con nít có nhiều cái thật là thú vị. Đôi khi trở về già, bạn bè cũ gặp nhau, nhắc lại thuở xa xưa giận hờn, chia phe ra chơi rồi chửi nhau. Lôi tên cha, tên mẹ của nhau mà kêu mà réo, khắp làng khắp xóm cho bỏ ghét. Tội nghiệp cho cố tổ ba đời, rủi nó biết được thì nó cũng chẳng chịu tha. Nó cứ tưởng như vậy thì chúng mới sợ. Nhiều lúc bị phiền hà vì lôi tên tộc ra mà chửi. Không chỉ chửi mà thôi, nó còn bày trò bắt chước làm như là thầy pháp: "Tao tạo nên hình mầy bằng rơm này này; này là tên mầy này; tao lấy cái gai, cây kim đâm vào ngực này, vào mắt, vào đầu mầy này. Tao lấy nhang tao vái, tao phán bùa cho mầy nhức đầu, nhức ngực, đui mắt cho mầy biết thân....". Nhưng chuyện làm của con nít có khác. Nó vẫn nhăn răng ra đó, nó lại trông còn khỏe hơn, không khéo nó "quánh" cho một trận đòn "bỏ mẹ". Thế là, đành ấm ức đợi chờ ngày rửa hận. Vì lúc đó chưa có phim Tàu, nên "quân tử trả thù mười năm chưa muộn" không được nhắc lại trên đôi môi bé bỏng của đàn trẻ con. Tưởng thời con nít mới có màn "xúm nhau mà chửi" giống như chó sủa hùa, không ngờ cả người lớn ngay cả người già gần xuống lổ, cũng có màn chửi hùa. Chửi như "tát nước vào mặt", "như vấy phân lên đầu", "chửi cho người ta không ngóc đầu lên nổi"; cũng lại chỉ mong làm sao cho "người ta thua mình thắng", chỉ có thế mà thôi!
Qua đi thời con nít ở truồng, đến thời "cắp sách đến trường", bầy trẻ bây giờ có được hiểu biết chút ít hơn, chửi với lời lẽ tương đối thanh cao; nhưng nhiều khi tức quá cũng phải "trắng trợn, bẩn thỉu" vài đôi câu cho thỏa mãn với những hận thù nầy. Rồi càng học lên cao, sự thâm thúy trong câu chửi cũng được "dũa, mài" cho thêm sắc bén: "Không phải chửi nhiều mà hay", "không phải chửi tục tỉu, bẩn thỉu, đanh đá" mà thắng. Thế cho nên, cái chửi được "ý thức" rằng: "Chửi thế nào mà súc tích, có chất lượng thì hơn; chửi làm sao mà khiến cho đối phương càng nhớ lại thì càng cay cú, càng thấm đòn" thì mình có thể coi như là thắng. Chửi thế nào mà người ta không thể chửi lại mình được, thì coi như cái chửi của mình đã thành công. Xem ra như vậy, chửi cũng là một nghệ thuật phải không anh?
Thực ra, làm con người thì ai cũng biết chửi cả: "Chưa chắc mầy đã hơn tao, mà chắc gì tao đã hơn mầy". Mầy hơn tao có thể vì tao đã nhịn mầy, tao không chửi mầy vì tao muốn để cho người nghe mầy chửi, họ sẽ chửi mầy: "Đúng là cái đồ mất dạy! Ăn học chi cho uổng những năm đèn sách; tưởng gì, nó cũng chỉ là những tên trí thức bẩn thỉu mà thôi! Nó là đứa chẳng vượt qua được lòng sân hận, ganh ghét! Nó chỉ biết dùng cái học của nó vào cái việc chửi mà thôi, chứ không biết dùng cái học của nó để giúp ích cho mọi người, cho xã hội. Nó chẳng vượt qua được thời con nít. Nó chỉ là kẻ phá thối; còn với xã hội, việc chung nó là người vô tích sự". Sự yên lặng, đôi khi thế mà hay, mà có kết quả! Con người ta đúng là "No mất ngon, giận mất khôn" như ông bà thường nói. Chửi trong cơn tức giận, mình sẽ dễ dàng bộc lộ con người thực hung hăng, hay đàn đám của mình cho người ta thấy: "Nguồn gốc ấy từ đâu ra, và tại sao nó lại đến; chuyện không có gì quan trọng tại sao lại phải ầm ỉ, âm mưu gì đây?". Rồi lại, "Đàng sau cái chửi chúng muốn cái gì? Mục đích chính là gì? Cái đó mới là quan trọng". Thế là người ta chỉ cần liên kết những việc trong gần thời điểm thì có thể đoán được phần nào: Vì lợi nhuận, hay vì lý do nào khác; hay bị kẻ khác lợi dụng giật dây để họ được hưởng lợi"..vv...và vv... Sự truy tìm không khó về một sự ồn ào hay một biến cố chửi nào đó, nếu chúng ta tinh ý và quan tâm theo dõi chỉ cần một chút và chỉ một chút rảnh rang mà thôi! Ngay cả tại bàn nhậu hoặc bên cạnh ly nước trà: Chỉ cần đặt vài câu hỏi với nhau thì có thể truy được nguyên nhân: Tại sao? Và...Tại sao?
Nội nghe nó chửi không thôi, người ta đã đoán được con người nó đã ra làm sao rồi: Lời lẽ nó thế nào? Có ăn học hay vô học. Có ăn học mà dùng lời vô học, thì nó chẳng là thứ gì cả, nó đi học làm gì cho uổng? Cha mẹ nó cho nó đi học để bây giờ nó chửi à! Vậy thì ổng bả chọn đường lầm cho nó rồi, phải chi ổng bả cho nó đi ra chợ đời lúc còn bé để học chửi thì có lợi hơn nhiều mà không phải phí thời gian cho con! Còn thái độ trong lúc chửi của nó như thế nào? Hung hăng, cay cú, chanh chua hay đanh đá? Mỗi từ ngữ biểu hiện một tấm lòng, tâm tính của nó đó: Nó hung hăng vì đó là bản chất con người của nó! Nó cay cú vì lòng nó chan chứa đầy hận thù, ấm ức! Nó chanh chua vì nó đang tức tối, giận hờn cần phải đay nghiến mới thỏa lòng! Còn đanh đá vì nó nằm trong ảnh hưởng của những người đanh đá, tính tình nó được tôi luyện trong môi trường rồi, cũng khó mà thay đổi!
Chửi hiện diện trong tất cả mọi môi trường của đời sống: Từ gia đình cho đến nơi đông người; từ thôn quê hẻo lánh cho đến thành thị; từ nơi lao động cho đến giới trí thức khoa bảng. Chửi gắn liền với sự sống và làm việc của con người như là "một thực thể không thể tách rời"!
Qua những cơn bực tức, không vừa ý vì người khác không thực hiện đúng theo ước muốn của mình; hay hư hại, thất bại thì những câu phiền trách, chửi mắng bắt đầu. Nhẹ nhàng thì trách yêu, mắng mỏ sơ qua, phiền trách; nặng hơn thì dùng đến từ ngữ nặng nề, to tiếng; rồi không thể dằn được thì chửi bới, "chửi như tát nước vào mặt", "chửi tắt bếp", "chửi cho nó không dám ngẫng mặt lên", "chửi cho nó phải gục đầu"... Chửi không đả, thì "thượng cẳng hạ tay", cho mầy biết tay tao". Tùy theo cơn nóng giận, bực bội mà nó thể hiện bằng hành động; tùy theo cá tính từng con người mà sự thực hành có trình độ hoặc vũ phu.
Biết bao nhiêu người đàn bà khóc âm thầm vì bị chồng mắng chửi hoặc hành hạ bằng sức mạnh, tay chân. Những đứa con trở nên lì lợm, cứng cỏi vì thường bị mắng, bị chửi hay bị đòn.
Chủ nợ đòi hoài không có trở nên nặng lời, chửi bới; con nợ vin vào đó nhất định không trả vì tự ái, danh dự bị tổn thương.
Chửi không phải chỉ trong phạm vi nhỏ không thôi, mà chửi còn mở rộng ra trong phạm vi lớn hơn mà người ta không thể ngờ được. Hai quốc gia tranh nhau cũng có thể chửi; hai chế độ bất hòa cũng chửi; hai chủ nghĩa cũng chửi: Điều ấy ta có thể thấy rõ ở hai quốc gia cùng Cộng sản như nhau là Việt Nam và Trung Quốc trước và sau chiến tranh biên giới năm 1979. Cùng một luận điệu, cùng một lối tuyên truyền, cùng một lối chửi. Chửi trong chiến tranh đó là "Đấu tranh chính trị" hay "Chiến tranh chính trị", tức là cái ngành nghiên cứu về chửi, chửi thế nào để lôi kéo nhân tâm về với mình, và biết ghét hoặc căm thù kẻ địch của mình dù mình có là đúng hay sai. Người ta đứng về phe mình, giành lấy phần thắng cho mình là đạt đến thành công. Cứu cánh sẽ biện minh cho phương tiện!
Suốt thời gian dài mấy mươi năm trong cuộc đời chưa có một câu chửi nào vượt qua được câu chửi của một bà mẹ chửi con mà Đồ tôi và bạn bè đã nghe được từ thuở còn là học sinh lớp Đệ Lục (lớp 7) ở một quận hẻo lánh xa xôi. Bà ta chửi như thế này: "Ông bà, ông Tổ, ông Cố, ông nội cha mầy!". Quả là một câu quán quân trong nghề chửi! Một câu mang cả dòng họ bên nội ra mà chửi! Bọn Đồ tôi lắc đầu!
Những thời gian sau lang thang nhiều nơi, kể cả những xóm lao động của thành phố đông người, cũng từng nghe người ta chửi lộn thật nhiều, từ "tục" này đến "tục" khác; từ "tục" đến "thanh cao, văn vẻ" cũng không "lỏi" khỏi lỗ tai của Đồ tôi. Nhưng không đâu bằng trên xứ người được "đọc chửi" có cả "chửi hùa" và "chửi ké" nữa. Không ngờ đến già lại được chứng kiến "trò chơi con nít" của ngày xưa! Thế cũng là một điều thú vị! Thú vị quá đi thôi (phải không anh nhỉ?).
Chửi không những bằng miệng, bằng văn thơ; mà ở đây lại có ra dấu để chửi: Một cánh tay, một ngón tay, hai ngón tay đưa mạnh lên cũng chửi; đi xe, bóp kèn để chửi những thằng chạy ẩu, thiếu điều làm xảy ra tai nạn vv...
Nhưng dù sao đi nữa, tất cả cái chửi có đạt được mục tiêu hay không cũng do nơi cái điều mình chửi: Chửi mà người ta cảm thấy xấu hỗ, e thẹn hoặc hại người ta liền được thì nên chửi. Còn chửi mà khiến người ta lúc đầu e ngại, sợ sệt; lại chửi tiếp khiến người ta trơ mặt ra; rồi tiếp theo người ta lầm lì thì chắc "phải cẩn thận" đi rồi! Đó là chưa nói đến những người bên ngoài; họ đâu phải đứng nhìn khơi khơi. Họ đang theo dõi một "đám người" đấy chứ! Đám người đó đang làm cái gì? Có ích hay có hại? Xây dựng hay phá hoại? Vì nguyên cớ gì? Vì tranh giành hay tự ái? Vì lợi hay vì cái gì?
Tất nhiên, những người bên ngoài đó không phải là "ngu"! Ngay cả những đứa con nít mới lớn lên, không rành tiếng Việt cũng phải buộc miệng: "Làm chuyện mất dạy! Ăn ở không làm bậy!" Ôi! Quả thật đau lòng!
Nhưng, chửi, lại cũng có những nguyên tắc của nó; chửi thế nào để đạt được kết quả. Chửi! Mình phải nhìn thẳng vào mặt của kẻ mình chửi và phải nhìn về đám đông. Tại sao? Khi mình chửi mà kẻ thù của mình có nín nghe hay không? Càng nghe người ta càng cay cú, lì lợm ra thì bạn "nên" biết rằng bạn đang lùa con chó về góc tường. Bạn hãy cẩn thận! Người bên ngoài có tán đồng với sự chửi của bạn không? Lúc đầu người ta đứng nghe, càng lúc người ta càng cười thì bạn biết rằng bạn đang giống một thằng khùng! Bạn chửi mà làm thiệt hại đến quyền lợi, danh dự chung thì bạn vì nóng nãy, vì lợi nhuận mà lao vào một hành động điên rồ. Cả một tập thể sẽ tiêu diệt bạn!
Nhưng bạn ạ! Bạn biết làm thơ, viết văn thì ít ra bạn cũng được coi như là một người có học. Điều ấy buộc mình phải hiểu, phải cẩn trọng trên ngôn từ trước khi đưa ra dân chúng. Những lời "của người vô học" làm người đọc tự dưng thấy bạn "nhẹ thể" như thế nào ấy! Những câu tục tỉu họ lại bảo "không ngờ!". Những điều cay cú tàn độc thì họ bảo: "Đúng là sự độc địa của người trí thức, có ăn có học có khác!". Đồ tôi ghi lại để coi chơi! Tùy bạn vậy!
Trong một cuộc "chửi nhau", có vài điều cấm kỵ:
-Bạn là người có danh vọng, địa vị trong xã hội thì nên tránh khi chửi với một người dân, vì không lẽ bạn "khum người xuống để sủa với chó khi chó sủa bạn".
-Bạn là người có học cao đừng nên chửi với một người thường, dù bạn thắng cũng chẳng ngon lành; nhưng nếu bạn thua thì không có gì đau bằng!
-Bạn là người khoa bảng thì nên đắn đo trước khi tham gia vào cuộc chửi.
-Bạn là người già hơn, nếu bạn thua một thằng con nít thì bạn sẽ nghĩ sao?
-Nhất là bạn đừng nên hơn thua với một người "dân ngu cu đen".
Nhưng dù thế nào đi nữa, chửi cũng chứng minh rằng trong lòng bạn còn đang có nhiều ấm ức, tức tối, thù hận hay sự căm giận cần phải chửi để giải tỏa; nhưng chỉ nhìn cung cách chửi, hay đọc những điều bạn viết hoặc nghe ngôn từ bạn chửi, người ta cũng đánh giá được trình độ học cũng như tâm địa của bạn như thế nào; vì khi bạn nóng giận và chửi lúc đó "phong cách" con người thật của bạn đang được "lột trần" một cách công khai trước công chúng.
Hơn nữa, sự chửi cần phải biết lúc nào nên ngưng và lúc nào nên chửi, ngay cả đến địa điểm để chửi, và thái độ của những người nghe chửi cả đến thái độ người bị chửi nữa. Nếu không, đôi khi cái chửi sẽ không có hiệu quả mà ngược lại chỉ chứng tỏ con người bạn hung hăng, phá đám, gây rối hoặc chẳng khác nào một thằng khùng, "một con chó điên" hay sủa, và cắn bậy!
Chửi không đơn giản, chửi cũng là một nghệ thuật! Cũng như nghệ thuật "biết" nóng giận và ngưng nóng giận. Nó không "dễ dàng" chút nào, phải không bạn?

Đồ Ngông,
07-01-06.