Tuesday, April 19, 2011

Thơ Nguyên Thảo (tt)

*Vào Tĩnh Lặng.

Chìm vào trong tĩnh lặng
Thâm nhập cõi hư vô
Cuộc đời như giấc mộng
Mênh mông bóng mơ hồ!

Nguyên Thảo,
19/04/11.



*Đường Đi!

Đường đi, đi loanh quanh
Đi, đi mãi quay vòng
Không đầu mà không cuối
Mình lại đi long nhong!

Bánh xe lại cứ xoay
Ta đi ngày qua ngày
Dù năm dài tháng tận
Đời buồn mãi không phai!

Nguyên Thảo,
20/04/11.



*Thu Về!

Thu về trên những tàn cây
Lá bay xao xác, nhuốm màu thời gian
Đếm trên tay, tuổi mây ngàn
Nhìn chim lười biếng, nghe ta trở mình!

Nguyên Thảo,
20/04/11.

Thơ Đồ Ngông (tt)

* Tuổi Già!

Tuổi già ngồi ngắm mây bay
Ngồi ôn kỷ niệm những ngày xa xưa
Những thời, những chuyện mình ưa
Như là đắc chí, hay chưa đạt thành
Vào đời một cuộc đấu tranh
Rồi ôm kỷ niệm, ra về tay không!

Đồ Ngông,
14/04/11.



* Ngẫm!

Ta:
Một chiếc xe
Bị lật
Những trái dưa hấu
lăn tròn
Một đám người
thừa cơ chạy tới ăn hôi!
Giữa sự thiệt hại
Và khổ đau của người khác!

Người Nhật:
Sau trận động đất
Sự tàn phá
Tan hoang nhiều phần trong thành phố
Lại tới sóng thần
Cao hơn 10m vùa theo trên mặt đất
Sự khủng khiếp,
Nhiều người biến mất
Trên cuộc đời đau thương trong chốc lát!

Nhà máy lọc dầu
Lửa cháy tràn lan!
Nhà máy điện
hạt nhân
Sắp trở thành tai họa!

Năm mươi nhân viên
Tình nguyện
Giữa tình huống chết người!

Một đoàn người
sắp hàng dài
để được phân phát thức ăn và chất đốt
Giữa trời lạnh giá băng
Không một hề hỗn loạn!

Một đứa bé 9 tuổi
Được người cho thức ăn
đỡ đói
trước lúc nhận hàng!
Nó không ăn, lẳng lặng
Đem quà bỏ vào thùng phân phát
Và trở về chỗ đợi để được nhận phần!

Cả thế giới theo dõi
Trên truyền hình, báo chí
Phải ngưỡng phục,
Cúi đầu.
Một dân tộc
Quả là vĩ đại!

Thấy Người mà phải ngẫm lại Ta
Biết đến bao giờ?
Bao giờ?
Bao giờ Ta được cao đầu, đây anh nhỉ?

Đồ Ngông,
18/04/11.

Saturday, April 16, 2011

Thơ Đó, Thơ Đây! (tt)

*Nhìn Qua Đỉnh PhănXiPăng. (Sapa- Lào Cai)

Tự ở Cổng Trời nhìn phía kia
PhănXiPăng đỉnh núi bên kìa
Cứ nhìn cho kỹ, cao lắm đó
Cao nhất Đông Dương, một nóc nhà!

Đồ Ngông,
02/08/10.



*Thành Phố Dưới Kia. (Sapa- Lào Cai)

Đứng bìa đỉnh núi, nhìn thành phố
Xa tuốt dưới kia, nhà lố nhố
Hồ lớn chạy dài có đám mây
Bay bay che khuất đi nhiều chỗ!

Đồ Ngông,
02/08/10.



*Thung Lũng Và Mây. (Sapa- Lào Cai)

Thung lũng tiêu rồi, mây tới thôi
Mây tràn, mây khuất cả vùng đồi
Bông gòn mây trắng, đùn đùn trắng
Chẳng biết “đằngvân” (phép cưỡi mây) tiếc quá trời!

Đồ Ngông,
02/08/10.

Chủ Nghĩa "Tao", Chủ Nghĩa "Mầy"!

Trên thế gian nầy có lắm cái chủ nghĩa, cái chủ nghĩa tốt cũng có mà cái chủ nghĩa xấu cũng có. Cuộc đời có nhiều mặt, mỗi con người có cái nhìn vào một khía cạnh nào đó mà họ lại có được tư tưởng gầy thành một hệ thống để chủ trương cái “chủ nghĩa” của mình. Lắm cái nhìn thì cũng lắm chủ nghĩa! Những ai thích thú với cái nhìn, quan niệm ấy thì thành một nhóm, một phe; để rồi mới có “Chủ nghĩa của tao” và “Chủ nghĩa của mầy”!
Trong thế giới tâm linh, người ta cũng có những cái nhìn hay quan niệm khác nhau để rồi có những phương cách khác mà người ta tạo thành “Đạo”: Đạo nầy với đạo khác, và tiến xa hơn là Đạo của tao, đạo của mầy! Những đạo nầy cũng giống như những chủ nghĩa mà thôi! Nhưng về tôn giáo nó nguy hiểm hơn nhiều vì nó thuộc về Đức tin. Từ trong tư tưởng thể hiện ra hành động! Một khi trong tâm tư nghĩ rằng “Đạo của mình phải làm bá chủ thế giới; đạo của mình là Thánh cần phải phổ biến nước Thánh rộng khắp thế gian; đạo của mình… như thế nầy, như thế khác” để rồi bằng mọi cách, bằng mọi hành động kể cả chém giết gây tai họa đến với không biết bao nhiêu người! Rốt cuộc tôn giáo không đem lại hạnh phúc trong tâm tư cho người thế gian mà chỉ đem lại đau khổ cho hàng khối người và chỉ để phục vụ cho hàng chức sắc trong giáo hội mà thôi! Còn mình hàng ngày chỉ sống trong mơ tưởng với những hình ảnh hão huyền mà người ta đã “vẽ, thổi ra” để cho mình ôm lấy. Một khi “Đức tin” bị u mê chìm đắm thì mình nhìn đi đâu cũng thấy những cảnh tượng đẹp ơi là đẹp, những cái cảnh “mơ mộng” mà người ta đã tiêm nhiễm cho mình dù chẳng biết đó là thực hay hư chưa hề được kiểm chứng! Ôi! Một sự thật rất ư là thảm thương!
Trong thế giới tinh thần, những quan niệm về xã hội, những cái nhìn về tâm tư riêng biệt cũng thành những triết thuyết lạc quan hay bi quan; chủ nghĩa dục lạc hay khắc khổ; chủ nghĩa tiêu cực hay tích cực; chủ nghĩa duy tâm hay duy vật… Nhiều chủ nghĩa chừng nào thì chủ nghĩa tao hay hơn chủ nghĩa của mầy; chủ nghĩa của tao chủ trương đúng đắn, chủ nghĩa của mầy là tà thuyết. Những cuộc tranh cãi, biện luận khởi đầu cho một cuộc bất đồng, tranh hơn thua; tiếp đến là bôi bác, bài xích, đả kích và đi đến xung đột lẫn nhau. Chiến tranh từ trong một phạm vi nhỏ dần đi đến những phạm vi lớn hơn. Hàng khối người tàn phế, chết không nói được một lời hay tài sản gầy dựng bao nhiêu năm phút chốc bỗng trở thành mây khói cũng chỉ vì “của tao” với “của mầy”!
Có hết đâu, những chủ nghĩa chính trị mới là tai hại hơn ai hết! Chủ nghĩa nào cũng nói hay, cũng thổi con người lên tận mây xanh, cũng vì nhân dân cũng vì quần chúng; cũng đem lại lợi ích cho con người. Nhưng khi nào thực hành thì hãy hay! Đừng nên mừng vội! Quần chúng luôn bị “đè đầu cỡi cổ”, “được bốc lột đến tận xương tủy" để phục vụ cho đàn đóm đám chúng nó. Chúng nó làm quan chức tha hồ mà tham nhũng, ăn bòn từ tiền thuế của người dân lẫn tài nguyên quốc gia mà không hề thương tiếc; chúng tiếp tay cho những tên xâm lược hầu chiếm lấy đất nước của mình. Thế mà chúng lúc nào chúng cũng bảo là hi sinh cho quốc gia dân tộc! Trong cuộc đời có những thủ đoạn lừa phĩnh thế nhân mà mức độ tinh vi khiến cho người bị lừa gạt không thể ngờ rằng...!
Chủ nghĩa “tao” phải vận động quần chúng để đánh bại chủ nghĩa “mầy” và “mầy” sẽ trở thành tay sai để phục vụ cho “tao”, và “tụi mầy” luôn là nô lệ cho “tụi tao”. Đó là sách lược “Thắng làm vua, thua làm giặc” có từ lâu lắm rồi mà mầy chẳng hiểu được sao? Như vậy mới đúng là cuộc đời!

Đồ Ngông,
30/06/10.

Tổng Quan Về Giáo Lý Đạo Phật: (tt)

Phần II: Xuất Thế Gian. (tt)

B- Con Đường Giải Thoát.

I/ Diệt Đế và Đạo Đế.
2/ 25 Phép tu trong Kinh Lăng Nghiêm.
3/ Nguyên tắc giải thoát: Lục độ.
4/ Sát- Đạo- Dâm- Vọng.
5/ Tướng Nhân- Ngã- Chúng sinh- Thọ giả, và Vô Ngã.
6/ Phật và Bốn Đức Niết Bàn.


I/-Diệt Đế Và Đạo Đế:
Trong các kinh điển của Đạo Phật ta thường thấy có câu: "Các Đức Phật trong ba đời đều bảo hộ kinh nầy. Mười phương các vị Bồ Tát đều quy y kinh nầy". Điều nầy cho chúng ta có thể hiểu được rằng:
-Kinh mà Đức Phật Thích Ca nói ra không phải chỉ riêng một mình Ngài biết, mà tất cả các Đức Phật ở thời quá khứ, hiện tại kể cả vị lai cũng đều biết, đều ngộ được như vậy. Và nếu các vị Phật đó có thuyết pháp thì cũng đều nói như thế không sai khác. Các vị Bồ Tát trong mười phương đều nương vào đó để tu tập và đạt được Đạo.
-Chúng sinh tiến tu và thành Đạo cũng sẽ ngộ và nhận biết được như vậy (Ngộ- Nhập Phật tri kiến).
Theo như thế thì Đức Phật sau khi thành đạo chỉ nói đến những "Chân lý" hiển nhiên, "Những con đường tất yếu" để hướng dẫn chúng sinh tiến đến con đường giải thoát (Khai- Thị) mà thôi. Thế cho nên Đức Phật chỉ là một "Đạo sư" làm nhiệm vụ "Giáo chủ" trong giai đoạn của Ngài ở cõi Ta bà để độ chúng sinh nơi thế giới "đầy đau khổ trầm luân" nầy.
Chân lý ấy là gì?
Sau thời gian dài tìm học đạo không có kết quả, Thái tử Siddartha từ bỏ hình thức tu lợi dưỡng, hoặc khổ hạnh mà chọn con đường "trung đạo". Với ý chí dũng mãnh, trong 49 ngày nhập định dưới cội Bồ Đề Ngài đã đạt được đạo: "Phật Thích Ca đã chứng ngộ!".
Bài thuyết giảng đầu tiên là bài đề cập đến con đường trung đạo ấy và bốn chân lý "bất di bất dịch", ấy là "Tứ Diệu Đế" hay là "Tứ Thánh Đế". Tại sao gọi là "Tứ Diệu Đế" hay là "Tứ Thánh Đế"? Vì bốn Đế đó là bốn sự thật hoàn toàn chính xác, quý báu và chắc chắn nhất để chúng sinh thoát khỏi vòng sinh tử, luân hồi. Bốn Đế đó cũng là chân lý trong mọi thời gian mà các bậc "Đại giác" nào cũng nhìn thấy ra như vậy; và nếu chúng sinh thực hiện tu hành như thế thì sẽ được "giác ngộ" không sai khác.
Bốn Đế ấy chính là: Khổ đế- Tập đế- Diệt đế- và Đạo đế.

Trong cuộc sống nhân gian, con người lúc nào cũng vì "cái ngã", lúc nào cũng muốn cái "Ta" được sung sướng, thành công, có danh phận, giàu sang phú quý; muốn mình hơn những người khác; muốn người khác phải tùng phục phục vụ hầu hạ mình, ngay cả dùng người khác để mình đạt được ý nguyện..., nên người ta không từ nan tất cả những "thủ đoạn" để đạt đến thành công, ước muốn. Lòng tham ấy lại "không đáy", vì vậy mà đưa đến những khổ não cho người và cho mình; đồng thời cũng là nguyên nhân tạo nên nghiệp, làm "nhân" cho những kết "quả" trong hiện kiếp hoặc về sau. Cũng do lòng"Tham" (tham danh, tham tiền, tham lợi) mà người ta gây những xáo trộn, tạo những bất ổn; hoặc họ lừa dối, gian trá, thủ đoạn để tranh phần thắng, hơn thua hay đoạt lợi; đôi khi người ta còn trở nên hung hãn đánh đập, chém giết lẫn nhau. Nếu không thành công, đạt được kết quả như ý muốn họ trở nên "Sân" hận, hờn dỗi, thù hằn, oán ghét. Rồi với những ngấm ngầm đó đợi đến lúc có dịp bộc phát, họ bị "Si" mê, cuồng loạn, không đủ tỉnh táo để gây nên những hành động mà người ta gọi là tội ác để thỏa mãn căm tức của họ. Họ đang lấy nghiệp hay nhân xấu đem bỏ vào trong túi A Lại Da Thức của họ để đợi chờ "được" luân hồi trong những kiếp sau hầu trả quả!
Tham, Sân, Si nầy đóng góp rất nhiều vào sự luân hồi của chúng sinh, vì thế Đức Phật gọi chúng là "Ba món độc". Tuy nhiên trong Duy Thức, chúng sinh còn có ba tâm sở thiện để kềm chúng lại là "Vô tham, vô sân và vô si", cùng với hai tâm sở khác là Tàm, Quý khiến hành động ác cũng được giảm bớt đi!.
"Mạn", nhất là những người thành công, có tài, khả năng hơn người thường sinh ra kiêu mạn, khinh thường người khác, coi người dưới tầm mắt của mình..., vô tình đem đến sự khổ cho người khác, đôi lúc chính vì điều đó mà lại làm khổ cho chính mình. Mạn có: Mạn, Ngã mạn, Quá mạn, Mạn quá mạn, Tăng thượng mạn, Ty liệt mạn và Tà mạn.
"Nghi" nghi ngờ, không có lòng tin nơi người, không tin nơi thiện chí của người khác (nghi có Tự nghi, Nghi pháp, Nghi nhơn).
"Thân kiến" chấp vào cái Ta, thấy chỉ có Ta mà sinh ra coi thường, chà đạp người khác; "Biên kiến" chấp một bên, có thành kiến cực đoan (có Thường kiến, Đoạn kiến); "Kiến thủ" chấp chặt sự hiểu biết sai lầm của mình; "Giới cấm thủ" giữ những giới cấm không hợp lý, cuồng tín chỉ làm cho cuộc đời thêm đen tối, khổ đau hơn mà thôi; "Tà kiến" chấp theo lối tà, không chơn chánh, mê tín dị đoan.
Trong phần trước, chúng tôi đã đề cập đến "Khổ đế" và "Tập đế" như là "Hai Chân Lý" hiển nhiên của cuộc sống con người trên thế gian, bất cứ một ai được sinh ra thì cũng phải lớn lên, già, bệnh, chết... ngay cả những giáo chủ các tôn giáo khác cũng như vậy (trong đó có cả Đức giáo Hoàng John Paul II). Chính vì cái khổ về thân xác ấy mà Thái Tử Siddartha mới bỏ hoàng cung, vợ đẹp con thơ đi tìm đạo. Khi đạt được đạo, Ngài khám phá ra và giảng một cách rõ ràng về cái khổ của con người, chúng sinh trong cuộc sống; đồng thời phân tích, nói rõ nguyên nhân của các sự khổ ấy. Đó là hai chân lý hiển nhiên dù cho Đức Phật có nói ra hay là không nói ra. Như vậy, hai chân lý ấy không phải là quan niệm của Đức Phật hay như người ta nói Phật giáo chủ trương bi quan "cho cuộc đời là khổ"! Vì thế, nếu một người nào đó cho rằng "Đạo Phật là Đạo bi quan" thì chẳng là sai lầm và thiển cận lắm ư?
Cái cốt lõi của Đạo Phật không phải ở chỗ Khổ Đế và Tập Đế mà chính là Hai Đế sau, tức là Diệt Đế và Đạo Đế.
Thế nào gọi là "Diệt"? Trong Hán Việt Từ điển của Nguyễn Văn Khôn ghi rằng:
Diệt: Dứt, mất; (lửa) tắt; tiêu mất, tiêu diệt
Diệt tuyệt: Làm cho mất hết, thủ tiêu tận gốc.
Như vậy, sau khi phân tích những cái khổ trong cuộc sống của con người, Đức Phật nêu rõ những nguyên nhân gây nên những cái khổ đó và nói đến "Diệ"’, tức là diệt những cái khổ kia đi. Thế là "chủ trương bi quan" ư? Thật là lạ lùng không thể tưởng tượng!
Đó là chúng ta chưa nói đến những điều mà Đức Phật nói tiếp theo. Diệt những cái khổ để rồi chúng ta được những gì? Chúng ta sẽ đạt đến Niết Bàn, chúng ta sẽ rời khỏi những khổ đau; xa lìa những huyễn hoặc của những gì giả tạm mà ta cứ tưởng là "thật" của mình. Chúng ta sẽ trở về với Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Mãi mãi không còn Luân Hồi trong các cõi đau khổ nữa. Ta được ung dung tự tại, thân biến khắp pháp giới hư không mà không có gì ngăn ngại được, hoặc ta cùng thế giới thu nhỏ ngồi trên đầu ngọn lông mà trong đó ta có thể đang hành việc lớn là: "Chuyển đại pháp luân"! Tâm ta luôn được "Sáng suốt, chiếu soi"!
Từ một cuộc đời hay một cuộc sống đầy đau khổ, người ta phân tích nguyên nhân của những sự đau khổ và cương quyết để diệt khổ tìm đến nơi an vui hơn. Ấy là chủ trương khổ và bi quan đấy ư? Chắc ta phải xét lại hệ thần kinh của những người đó xem sao? Không khéo nó đã có vấn đề!
Muốn đạt đến Niết Bàn, chúng ta phải chọn con đường duy nhất để đạt đến. Đó là Đạo Đế vậy!
Sau đây là các phần:

a-Diệt Đế: Trong Phật Học Phổ Thông khóa III, ở trang 95 và 96 Hòa Thượng Thích Thiện Hoa kết luận về phần Diệt Đế như sau:
"Nói tóm lại, Diệt Đế là chân lý chắc thật nói về quả vị mà một kẻ tu hành có thể chứng được. Quả vị ấy tức là Niết bàn.
Nhưng vì sự tu hành có thấp có cao, có rộng có hẹp, nên quả chứng tức là Niết bàn cũng có thấp có cao, có hoàn toàn, có chưa hoàn toàn.
Đối với hàng Tiểu thừa, thì ba quả đầu: Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm là thuộc về Hữu dư y Niết bàn, vì phiền não chưa hoàn toàn tuyệt diệt. Chỉ đến quả vị A la hán là quả vị mà mọi phiền não đã tuyệt diệt, mới thuộc về Vô dư y Niết bàn.
So với Đại thừa, thì Niết bàn của A la hán cũng còn là Hữu dư y Niết bàn, vì các vị A la hán mặc dù phiền não đã dứt sạch, ngã chấp đã hết, nhưng pháp chấp hãy còn, còn thấy có pháp mình tu, có Niết bàn mình chứng, nên chưa có thể gọi được là Vô dư y Niết bàn. Chỉ có Niết bàn của Đại thừa mới là Vô dư y Niết bàn, vì ở đây đã dứt sạch ngã chấp, pháp chấp, không còn thấy có pháp mình tu, Niết bàn mình chứng.
Niết bàn của Đại thừa có hai loại: Vô trụ xứ Niết bàn của các vị Bồ tát, và Tánh Tịnh Niết bàn là chân tánh bản lai thanh tịnh và sáng suốt của vũ trụ, mà các Đức Phật đã thể chứng.
Trên đây kể sơ qua các loại Niết bàn, là các quả vị của Diệt Đế Niết bàn mà chúng tôi diễn tả bằng văn tự ở đây so với Niết bàn thật, còn xa cách muôn trùng. Nhưng với hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, không có phương tiện nào khác hơn, để trình bày và tìm hiểu Niết bàn, thì đành phải dùng văn tự vậy.
Muốn thấy được Niết bàn thật, phải tự mình thân chứng, phải thể nhập Niết bàn. Muốn thân chứng, thể nhập Niết bàn, cần phải tu theo phương pháp mà đức Phật đã dạy trong phần Đạo đế,...".

b-Đạo Đế: Đạo Đế là chân lý chắc thật, đúng đắn để diệt trừ đau khổ và tu hành để tiến đến Niết bàn.
Đạo đế gồm có 37 pháp trợ đạo (các pháp chỉ hỗ trợ, giúp đỡ người tu thực hành đường tu được dễ dàng hơn) và chia làm 7 loại sau: Tứ niệm xứ, Tứ chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, và Bát Chánh Đạo.

-Tứ Niệm Xứ: Là bốn điều mà người tu hành thường xuyên nhớ đến. Đó là "Quán thân bất tịnh" (tập trung tư tưởng quán sát thân không phải là cái gì được trong sạch mà ta cần phải cung phụng, nâng niu, chăm sóc nó thái quá; hoặc vì muốn ăn ngon mặc đẹp, sung sướng mà ta phải làm lụng quần quật để kiếm đủ tiền chi phí, đáp ứng cho nó; hay cũng vì nhu cầu cho thân mà ta phải sát, đạo, dâm, vọng, lường gạt kẻ khác tạo nên nhiều nghiệp trong cuộc sống. Thực ra, thân chẳng qua là chứa những gì ô uế bên trong cái dáng đẹp đẽ ở bên ngoài, nhất là khi chết đi thì thân xác nầy sẽ bị thối rữa gớm ghiết mà thôi. Phép quán nầy giúp người tu hành đối trị được bệnh tham sắc dục và cả lòng tham, giảm được sân và si). "Quán Tâm vô thường" (Tâm của chúng ta thường thay đổi, không cố định, lúc vui khác, lúc buồn lại khác. Trong mỗi hoàn cảnh cũng đã khác thì với thời gian lại thay đổi khác hơn. Phép quán nầy giúp người tu đổi tâm mê lầm thành tâm giác ngộ, đồng thời loại trừ được tâm ngã chấp). "Quán Pháp vô ngã" (Pháp là phạm vi, cách thức riêng; ngã là tự tướng của mình. Nếu thấy cái "ngã" riêng của mình thì sinh ra phân biệt ta, người, của ta của người nên xã hội thường xảy ra tranh chấp, giành giựt, chém giết...tạo nên nghiệp, nghiệp dẫn dắt đến luân hồi. Nhưng cái ngã, cái tự tướng chỉ là giả hợp, hư vọng không phải thật là của ta mà là do "nhân duyên hòa hợp", nên "ngã" thực ra là "vô ngã" (không phải của ta); và pháp cũng là "pháp vô ngã"! Nếu nhận thức được pháp "vô ngã" thì sẽ ung dung tự tại không còn vướng mắc những buồn phiền, lắm sự của thế nhân). "Quán Thọ thị khổ" (Thọ là nhận tất cả những gì mà ta có thể nhận trong cuộc sống. Nếu ta nhận cái thân xác thì đã nhận cái khổ của sinh lão bệnh tử, phải làm việc để cung phụng từ cái ăn, ngủ, mọi nhu cầu của nó; ở thuận cảnh thì còn có chút vui vẻ, gặp nghịch cảnh thì lại càng thấy khổ hơn. Phép quán nầy để đối trị lòng tham, ham muốn).

-Tứ Chánh Cần: Là bốn phép siêng năng tinh tấn để quyết xa lánh những điều dữ (những điều có thể làm tổn hại cho mình, cho người trong hiện tại cũng như tương lai); làm những điều lành (có lợi ích cho mình, cho người trong hiện tại và tương lai). "Tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sinh" (khi tâm khởi điều sai trái thì cố tìm lý do hay tưởng nghĩ đến hậu quả mà cố dập tắt không để nó phát sinh ra hành động). "Tinh tấn dứt trừ những điều ác đã phát sinh" (cố gắng tìm hiểu để chấm dứt tận gốc rễ những điều ác phát sinh ở thân khẩu và ý). "Tinh tấn làm phát sinh những điều lành chưa phát sinh" (cố gắng thực hiện những ý định làm điều thiện, điều hay hợp lẽ phải với những thiện tâm, không chần chờ hoặc giãi đãi). "Tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh" (đã làm điều lành thì đừng cho là đủ mà cần cố gắng phát triển nhiều hơn nữa).

-Tứ Như Ý Túc: Tứ như ý túc, có nghĩa là bốn phép làm nơi nương tựa cho các công đức thiền định, thần thông được thành tựu mỹ mãn như ý muốn của mình (PHPT, khoá III trang 130). Bốn định ấy là: "Dục như ý túc" (mong muốn một cách thiết tha, mong muốn cho kỳ được, mong muốn cho đến khi mãn nguyện mới thôi- PHPT). Sự mong muốn ở đây có nghĩa là mong muốn được thành đạo, chóng giải thoát thoát khỏi cảnh luân hồi sinh tử. "Tinh tấn như ý túc" (cố công, gắng sức, bền chí để đạt được ước nguyện, đạo quả). "Nhất tâm như ý túc" (Tâm chuyên nhất vào định cảnh, không bao giờ tán loạn (PHPT, trang 132). "Quán như ý túc" (Dùng trí tuệ sáng suốt quán sát pháp mình đang tu (PHPT, trang 133).

-Ngũ căn - Ngũ lực:
*Ngũ căn: là năm căn bản, gốc rễ, là nguồn gốc để tất cả các thiện pháp phát xuất. "Tín căn" (lòng tin mạnh mẽ, vững chắc dựa trên cơ sở lý trí, suy luận sáng suốt, quan sát kỹ càng; chứ không phải lòng tin mê tín, mù quáng. Tin ở Phật, Pháp và tăng). "Tấn căn" (tinh tấn vững chắc trên con đường tu tập, không nản chí thối lui. Có: Bị giáp tinh tấn, Gia hạnh tinh tấn và Vô hỷ túc tinh tấn). "Niệm căn" (Niệm là ghi nhớ. Thứ nhất niệm thí; Thứ hai niệm giới (có: nhiếp luật nghi giới- nhiếp thiện pháp giới- nhiêu ích hữu tình giới); Thứ ba niệm thiên). "Định căn" (Định là lắng tâm yên tịnh, chuyên chú vào chánh pháp, để suy đạt thật nghĩa của nó (PHPT). Định có: An trụ định- Dẫn phát định- Thành sở tác sự định). "Huệ căn" (Huệ là trí huệ sáng suốt, thâm nhập được chân tướng của vạn pháp. Trí huệ ấy không có sự phân biệt, vì phân biệt là tác dụng của vọng thức, là mê lầm. Huệ có: Vô phân biệt gia hạnh huệ- Vô phân biệt huệ- vô phân biệt hậu đắc huệ).
*Ngũ lực: là năm năng lực vĩ đại, năm thần lực của ngũ căn (PHPT). "Tín lực" (thần lực của đức tin); "Tấn lực" (thần lực của đức tinh tấn, sức mạnh bất thối chuy‹n, kiên cố); "Niệm lực" (thần lực của ghi nhớ, của niệm căn); "Định lực" (thần lực của tập trung tư tưởng, sức mạnh vĩ đại của định căn); "Huệ lực" (thần lực của trí huệ hay sức mạnh vô biên của huệ căn).

-Thất Bồ Đề Phần: Bảy pháp tu hướng dẫn người tu hành tiến đến thành đạt đạo quả. Chúng gồm có: "Trạch pháp" (dùng trí huệ để lựa chọn pháp tu); "Tinh tấn" (luôn tiến trên bước đường tu tập, không sợ khó nhọc thối chuyển hay tự mãn); "Hỷ" (đoạn được phiền não, sinh tâm hoan hỷ mà quyết chí tu hành); "Khinh an" (Tâm cảm thấy nhẹ nhàng, khoan khoái trong tu tập); "Niệm" (luôn ghi nhớ điều tâm niệm, đeo đuổi theo chánh pháp); "Định" (chuyên chú tập trung vào sự tu tập); "Xả" (bỏ hết những vướng bận, không bận tâm vào các thứ ngay cả quả vị mình đã chứng).

-Bát Chánh Đạo: là pháp môn phổ biến nhất trong những pháp môn của Đạo Đế. Nó luôn được những nhà tu hành áp dụng để diệt trừ những phiền não, khổ đau để tiến vào đường an vui tự tại. Bát Chánh Đạo gồm có: "Chánh Kiến" (nhận thức một cách chính xác, ngay thẳng, không tạp nhiễm); "Chánh Tư Duy" (Suy nghĩ, nhận đoán thật đúng đắn, đúng lẽ phải); "Chánh Ngữ" (lời nói chân thật, ngay thẳng hợp chân lý); "Chánh Nghiệp" (hành động, việc làm chân chính có ích cho mình cho người); "Chánh Mạng" (sinh sống một cách chân chính, lợi người lợi mình, có ý nghĩa, cao đẹp); "Chánh Tinh Tấn" (siêng năng, tinh chuyên theo con đường mình đã chọn để tu tập); "Chánh Niệm" (ghi nhớ những điều tốt, tâm niệm, đạo lý chân chánh. Có Chánh ức niệm, và Chánh quán niệm); "Chánh định" (Tập trung tư tưởng vào vấn đề chính đáng, hợp chân lý có ích cho mình, cho người).
Tám yếu tố nầy được phân chia thành:
Giới: Chánh ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng.
Định: Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định.
Tuệ: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy.
Giới, Định, Tuệ nầy được gọi là "Tam Vô Lậu Học".




2/- 25 Phép Tu Trong Kinh "Lăng Nghiêm":

-Chứng được Đạo quả do 6 trần:
*Do Thanh trần: Kiều Trần Na nghe âm thanh của Phật thuyết pháp mà ngộ đạo.
*Do Sắc trần: Ông Ưu Ba Ni Sa Đà quán tướng bất tịnh, xương trắng rồi từ vi trần trở về hư không; do sắc tướng mà thành bậc A La Hán.
*Do Hương trần: Ông Hương Nghiêm Đồng Tử nghe mùi hương, quán mùi hương không là gỗ, chẳng là hư không; không là khói chẳng là lửa; đi không chỗ tới đến không chỗ bắt đầu mà chứng A La Hán.
*Do Vị trần: Pháp vương tử Dược vương và Dược Thượng từng nếm các vị thuốc từ cỏ cây vàng đá. Sau nhờ Đức Như Lai mà hiểu rõ vị tánh, chẳng có cũng chẳng không, chẳng phải thân cũng chẳng rời thân, do phân biệt vị trần mà khai ngộ.
*Do Xúc trần: Ông Đạt Đà Bà La vào nhà tắm, ngộ biết thủy trần vốn không rửa hay không rửa bụi trần, tâm thường vắng lặng, không có tướng mà ngộ đạo.
*Do Pháp trần: Ma Ha Ca Diếp và Tỳ kheo Ni Tử Kim Quang thấy thế gian sáu trần biến hoại nên chí tâm tu hành, thành diệt tận định. Do quán pháp không tịch mà thành A La Hán.


-Chứng được đạo quả do 6 Căn:
*Do Nhãn căn: Ông A Na Luật Đà hư cả hai mắt học phép Tam muội nhạo kiến chiếu minh kim cang mà thành bậc A La Hán.
*Do Nhĩ căn: Quán Thế Âm học từ nơi nghe rồi nhớ và tu (Văn, Tư, Tu) mà được vào chánh định.
*Do Tỹ căn: Ông Châu Lợi Bàn Đặc Ca do nơi trí nhớ không có, lại hay quên được Phật dạy pháp an cư, điều hòa hơi thở ra vào; quán hơi thở đến cùng tột mà thành A La Hán.
*Do Thiệt căn: Ông Kiều Phạm Bác Đề học môn Nhứt vị thanh tịnh tâm địa, quán sát cái tánh biết của "vị" mà vượt bỏ các lậu của thế gian mà thành A La Hán.
*Do Thân căn: Ông Tất Lăng Già Bà Ta đạp gai độc làm thân bị đau, ông suy nghĩ về tánh biết của "đau" mà thành A La Hán.
*Do Ý căn: Ông Tu Bồ Đề đem các tướng qui vào phi tướng, xoay tánh biết nơi ý căn về không vô mà chứng A La Hán.

-Chứng được đạo quả do 6 Thức:
*Do Nhãn thức: Ông Xá Lợi Phất do tâm thấy pháp sáng, sáng cùng tột các pháp sở tri sở kiến mà thành đạo quả.
*Do Nhĩ thức: Ông Phổ Hiền Bồ Tát dùng tâm mà nghe và phân biệt mọi niệm lự và tri kiến của chúng sinh, phát minh tánh nghe, phân biệt tự tại mà chứng ngộ Bồ Tát.
*Do Tỹ thức: Ông Tôn Đà La Nan Đà cùng ông Câu Thi La quán tướng trắng trên chót sống mũi mà tiêu trừ hơi thở khiến tâm phát sáng, dứt các lậu mà thành A La Hán.
*Do Thiệt thức: Ông Phú Lâu Na- Di Đa La Ni Tử dùng âm thanh tuyên nói pháp luân, hàng phục lũ ma oán, tiêu diệt các lậu thành A La Hán.
*Do Thân thức: Ông Ưu Ba Ly trước giữ thân được tự tại, sau chấp giữ tâm, tâm được thông suốt, tâm thân thông lợi mà thành A La Hán.
*Do Ý thức: Ông Đại Mục Kiền Liên xoay ý thức về tánh viên trạm, tam quang mở bày mà chứng A La Hán.

-Chứng được đạo quả do 7 Đại:
*Do Lửa: Ông Ô Sô Sắc Ma quán khí lạnh, nóng và tinh thần bề trong được ngưng tịnh hóa tâm đa dâm thành lửa trí huệ mà thành A La Hán.
*Do Đất: Ông Trì Địa Bồ Tát "bình tâm địa thì thế giới đại địa tất cả đều bình", Ngài đế quán hai thứ vi trần của căn thân và thế giới bình đẳng như nhau mà thành đạo quả.
*Do Nước: Ông Nguyệt Quang Đồng Tử quán được nước trong thân (nước miếng, mồ hôi, tinh huyết, đại tiểu tiện đồng tánh nước hương thủy ngoài thế giới bình đẳng không sai khác mà chứng Bồ Tát.
*Do Gió: Ông Lưu Ly Quang Pháp Vương Tử do quán sát phong lực giả dối không chỗ nương ngộ tâm Bồ Đề mà chứng đạo.
*Do Hư không: Ông Hư Không Tạng Bồ Tát quán tứ đại không chỗ nương; thấy hư không và cõi Phật vốn đồng mà chứng vô sanh nhẫn.
*Do Thức đại: Ngài Di Lặc Bồ Tát tu tập pháp định "Duy Tâm Thức" (Duy Thức) mà chứng, thấy khắp hư không các cõi nước dù uế, tịnh, có, không thảy đều do tâm thức biến hóa hiện ra; nên xa lìa tánh y tha và biến kế chấp mà ngộ vô sanh pháp nhẫn.
*Do Kiến đại: Ngài Đại Thế Chí Pháp Vương Tử học phép tu "Niệm Phật Tam Muội". Phật lúc nào cũng nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con, tìm con; nếu chúng sinh đem tâm nhớ Phật, niệm Phật thì hiện tại hay tương lai sẽ thấy Phật không xa giống như con tìm mẹ, mẹ tìm con thì tất nhiên "phải" gặp.
Theo như chúng ta biết Đức Phật đã nói trong vũ trụ có 7 đại: Đất, lửa, gió, nước, kiến đại, hư không và thức đại. Thức tâm của mỗi chúng sinh mượn 6 đại kia làm thành thân xác (đất, lửa gió, nước); nhận thức (kiến đại) và để trưởng thành, đi đứng nằm ngồi (hư không). Và trong thân xác có 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) để nhìn vào 6 trần (sắc trần, thinh trần, hương trần, vị trần, xúc trần, pháp trần); và nhận thức được 6 trần ấy bằng 6 thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức); thì như trên chúng ta thấy các vị Bồ Tát, A La Hán đã nương vào 25 yếu tố đó để tu hành đạt được đạo; tức là dùng hết chỗ nương tựa trong thế gian để tu hành, thế mà: Sao Đức Phật lại nói có đến "tám vạn bốn nghìn" phép tu?
Trong Kinh điển thường hay sử dụng đến từ "Bát vạn tứ thiên" (tám vạn bốn nghìn) mà theo Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn thì:
Bát vạn tứ thiên: Tám mươi bốn ngàn (84.000). Bên Thiên-trước, muốn tỏ ra vật chi rất nhiều, người ta thường dùng con số Bát vạn tứ thiên. Trong văn chương Phật học cũng hay nêu con số ấy mà chỉ những vật khó đếm, khó tính, như Bát vạn tứ thiên trần lao, Bát vạn tứ thiên pháp môn....
Như thế thì có rất nhiều pháp tu, điều nầy khiến chúng ta có thể hiểu được rằng: Trên căn bản không ngoài 25 pháp tu trên, tức là những pháp dựa trên các yếu tố "thế gian" để "xuất thế gian". Nhưng vì căn cơ của mỗi chúng sinh mỗi khác và cấu tạo cơ thể của mỗi chúng sinh cũng khác nhau; cho nên phương pháp tu hành cũng phải thích hợp với họ vì thế mỗi chúng sinh cần có phương pháp riêng. Có thể do đó mà Đức Phật đã nói đến "bát vạn tứ thiên pháp môn".

3/- Nguyên Tắc Giải Thoát: "Lục Độ Ba La Mật":
Lục độ là 6 phép tu giúp cho người tu hành thực hiện để vượt qua được những tệ hại nặng nề mà con người rất khó khăn từ bỏ (Dĩ lục độ, độ lục tệ), và có thể tự độ mình đồng thời giúp người khác tu hành cho đến chỗ cứu cánh, đạt được Đạo Vô Thượng Bồ Đề. Lục độ có:
*Bố thí Ba La Mật: Để đối trị tham lam, bỏn sẻn. Bố thí là cho, tặng; Ba La Mật là tận cùng, đáo bĩ ngạn hay đến bờ bên kia. Bố thí Ba La Mật có nghĩa thực hành pháp bố thí; cho, nhưng không hề nghĩ đến công ơn, hay nhớ đến sự thi ân của mình. Giúp đỡ mà không mong đền đáp, không cầu danh vọng hoặc một sự đáp đền. Bố thí có "Tài thí" (tiền bạc, của cải, vật thực); "Pháp thí" (đem những lời hay, lẽ phải, giáo lš giúp người khác làm đúng hay bỏ dữ theo lành); "Vô uý thí" (làm cho người khác không còn sợ sệt).
*Trì giới Ba La Mật: Để khỏi phạm giới luật. Đức Phật đặt ra giới luật là để người tu hành vào "con đường cần thiết đi đúng hướng" để đến bờ giải thoát. Trì giới như là một bổn phận của mình không nề hà, bị ép buộc, háo thắng, tự kiêu hay thấy mình giỏi hơn người mà khinh người. Đó là trì giới Ba la mật vậy.
*Tinh Tấn Ba La Mật: Để tránh được tệ biếng nhác, giải đãi. Tinh tấn là làm càng ngày càng tiến hơn, không dừng lại, thối lùi; luôn siêng năng chuyên cần. Tinh tấn ngăn các điều ác đừng sanh; tinh tấn diệt các điều ác; tinh tấn làm cho các điều lành phát sanh và tinh tấn các điều ấy được tăng trưởng. Tinh tấn một cách chân thành, mong mỏi được tiến bộ không vì có người mới tinh tấn, hoặc cần tiến bộ mới sửa chữa.
*Nhẫn Nhục Ba La Mật: Để tránh khỏi nóng nảy, sân hận. Nhẫn nhục là chịu đựng những nghịch cảnh, tủi hổ làm tổn thương đến tự ái, danh dự của mình đến tột cùng. Có thân nhẫn, khẩu nhẫn và ý nhẫn. Nhẫn mà không thấy mình nhẫn và cảnh nhục để nhẫn là Nhẫn nhục Ba La Mật.
*Thiền Định Ba La Mật: Thiền định là tập trung tâm và ý vào một đối tượng duy nhất, không để tán loạn trong trầm tư yên lặng để quán sát và suy nghiệm chân lý. Thiền có: Thế gian thiền, Xuất thế gian thiền và Xuất thế gian thượng thượng thiền. Thiền để tránh được tệ tán loạn, phiền não, được vui vẻ lạc thú, xa lìa ái dục, nhất là phát được trí huệ, tiến đến giải thoát thành thục.
*Trí Huệ Ba La Mật: Là thể tánh của sự sáng suốt có thể thấu đáo sự vật đến nơi đến chốn một cách chính xác, đúng đắn. Pháp nầy để đối trị với si mê. Trí huệ có: "Căn bản trí" (giác tính mà chúng sinh đã có sẵn, nhưng vì phiền não, vô minh che lấp nên chưa phát khởi ra được), và "Hậu đắc trí" (trí huệ có được nhờ công phu tu tập). Muốn có được trí huệ thì có hai phương cách: "Văn, Tư, Tu" (Nghe, suy nghĩ tìm hiểu, và tu tập) hay "Giới, Định, Huệ" (giữ giới luật theo lời chỉ dạy của Đức Phật; Thiền định cho tâm không loạn động, suy nghiệm vấn đề; và đạt được sự phát chiếu của Trí dứt trừ phiền não và vô minh).

(Còn tiếp)

Đạo Phật 14: Từ Thực Tại... !

(Hay: Phật A-Di-Đà Và Cõi Tịnh Độ).

Chúng ta không thể chối bỏ rằng: Tình hình thế giới hiện nay thật là nhiễu nhương, còn an ninh thì không được ổn định. Từ sự xung đột ở Trung Đông giữa Do thái với Palestine và khối Ả Rập; từ thái độ của Anh Mỹ mà đã đưa đến những vụ nổ bom các Tòa đại sứ Mỹ ở Phi châu; và hôm 11-9-2001 nhóm khủng bố đã tấn công vào tòa nhà Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC) cùng Ngũ Giác Đài trên đất Mỹ. Hoa Kỳ huy động ngoại giao, quân sự mở hoạt động chiến tranh vào Afghanistan để truy lùng “Người tình nghi số một” Osama Bin Laden và tổ chức của y là Al Qaeda cùng tiêu diệt chế độ Hồi giáo quá khích Taliban vì đã bao che ông nầy. Sự may mắn cho nhân loại là chưa đưa đến một cuộc chiến tranh tàn khốc khác là: Chiến tranh Tôn giáo!
Trong khi đó thì bão lụt, thiên tai, hỏa hoạn liên miên, làm đời sống của con người trên trái đất càng thêm khó khăn. Khí hậu thay đổi, nóng lạnh nhiều hơn. Các nhà khoa học báo động Tầng Ozone của không khí ở Nam cực bị lổ hỏng, tạo nên hiện tượng nóng như trong nhà kiếng (Greenhouse). Để sửa chữa, người ta đã đưa ra giải pháp: Bảo vệ môi trường; ngăn cấm việc phá rừng bừa bãi; xe cộ sử dụng nhiên liệu có ít chất khói độc thải ra; giới hạn các hóa chất xịt có thể ảnh hưởng đến tầng Ozone. Cấm đốt rác, đốt chất nhựa; sử dụng các nguyên liệu tái sinh.. .tránh tạo ra các khí độc như CO2 hoặc các chất khí kết hợp với O2 mà không hoàn trả O2. Tăng cường trồng cây xanh để cây hấp thụ CO2 và trả O2 cho không khí.
Thế còn tình trạng chiến tranh thì sao? Thiên tai, chiến tranh, sự hỗn lọan trên thế giới hiện nay khiến cho các tôn giáo liên hệ đến phần đạo của mình: Tôn giáo thì nói là đến giai đoạn tôn giáo mình sẽ thống trị thế giới; tôn giáo thì bảo hiện tượng báo trước một Đấng tối cao của đạo họ sẽ xuất hiện; tôn giáo thì bảo là thời cuối cùng của thời kỳ trước và để chuẩn bị lập lại đời sau tốt hơn. Tôn giáo nào cũng nói “Cái Đạo của ta” là quan trọng cả. Vậy Đạo của người thì sao? Đó là đầu nguồn chiến tranh tôn giáo: Một cuộc chiến tranh của Đức Tin và phát sinh từ trong “Tâm thức phân biệt”. Cuộc chiến như vậy không phải của các Vị Thánh, mà là của các Ma Vương: Vì Thánh chỉ đem đến an vui, niềm an lạc trong tinh thần và cuộc sống con người, chúng sinh. Tôn giáo là giải thoát con người khỏi đau khổ chứ không phải đem đau khổ đến cho con người, nhất là đưa linh hồn con người về nơi an lạc hoặc thiên đường sau khi chết: Ấy là sự cứu rỗi! Sự phân biệt tôn giáo ta, tôn giáo người; tôn giáo của ta phải hơn tôn giáo của người, phải thống trị thế giới: Đó là chưa thoát khỏi sự chấp các tướng Nhơn, ngã, chúng sinh và thọ giả. Đạo Phật thì không như vậy: Tất cả ta, người, chúng sinh, vạn vật, hư không đều đồng một thể bình đẳng, sống hòa đồng trong cõi an vui thanh tịnh, bất sanh bất diệt: "Chơn như". Mình muốn lớn vô tận thì lớn vô tận; muốn nhỏ như hạt bụi, đầu sợi lông thì nhỏ như vậy. Muốn nhỏ “ngồi trong hạt bụi” để làm việc lớn “mà chuyển đại pháp luân” cũng được; hoặc không cần phải đi xa “trên đầu một mảy lông” ta cũng có thể có được “hiện ra các cõi nước” hay “không rời nơi đạo tràng mà hiện khắp cả mười phương thế giới”. Đó là công dụng của Trí Huệ đả phá được màn Vô minh đưa ta trở về với Giác ngộ, với Chơn như đạt được Đại viên cảnh trí, Bồ đề Vô Thượng hay nói tóm lại là Viên giác. Và cuộc sống ấy là bất sanh bất diệt, tồn tại từ “vô thỉ” đến “vô chung”.
Nhưng muốn được như thế thì trước hết ta phải “Tịnh”. Với trạng thái Tịnh ta mới giải quyết được vấn đề. Điều ấy Đức Phật A Di Đà cũng đã tìm được con đường cho bạn rồi. Bạn không phải xa rời cuộc sống, bạn vẫn có thể định được Tâm và bạn được về cõi chuyển tiếp sau khi vãng sanh. Dù nó chưa là vô thượng, nhưng vẫn là “cực lạc”. Từ đó bạn sẽ được hỗ trợ duyên mà tiến tu xa hơn nữa để đạt được rốt ráo của Đạo Vô Thượng Bồ Đề: Vì cõi Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà không phải có một mà có đến 4 cõi.
Phàm Thánh đồng cư Tịnh độ: Đây là cõi đầu tiên mà Đức Phật A Di Đà đã lập thành (trang nghiêm) và cư trú tại đây cùng với các vị Bồ tát đi rước tâm thức bạn khi bạn vãng sanh hoặc do nơi tâm thức bạn nương theo ánh sáng của Ngài (Vô lượng quang) mà về được. Tâm thức bạn được đối đãi tử tế ở đây, bạn đã xa rời luân hồi và sự khổ. Rồi do nơi trợ duyên từ trong cảnh trí của cõi Tịnh độ nầy sẽ giúp bạn càng tinh tấn hơn. Tại sao cảnh Cực lạc lại được trang nghiêm bằng bảy báu: Vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, mã não? Vì đó là một trong 48 lời Đại nguyện của Ngài Tỳ kheo Pháp Tạng. Vả lại, trong sự trang nghiêm của cõi Tịnh độ cũng một phần do chúng sinh của cõi ấy, chúng sinh chỉ biết an vui tu tịnh nên chánh báo tâm bình thản nhiên, vì vậy phần y báo cũng phẳng lặng, đẹp đẽ. Còn ở thế giới Ta bà lòng người nham hiểm, mưu chước thâm sâu, sôi sục hận thù, nghiệp sát, đạo, dâm, vọng quá nặng nề (chánh báo), cho nên hiện ra núi cao, biển sâu, bão lụt, hạn hán, lửa bừng cháy, chiến tranh, dịch bệnh (y báo) lại càng gay go, gút mắt, địa hình gồ ghề... thì cuộc sống lại càng gian nan:
Tâm tạo chư Phật, Tâm tạo chúng sanh, Tâm tạo thiên đường, Tâm tạo địa ngục, Tâm vọng động thì ngàn sự sai biệt tranh khởi, Tâm bình thì thế giới thản nhiên, Tâm phàm thì ba món độc trói buộc, Tâm thánh thì sáu món thần thông tự tại, Tâm không thì nhất đạo thanh tịnh, Tâm hữu thì vạn cảnh tung hoành. Tự mình đạp mây mà uống nước cam lồ, chẳng có ai cho mình. Nằm trong lửa hừng mà uống máu mủ cũng tự mình gây nên, không phải trời sanh ra, cũng không phải do đất mà có" (Tôn cảnh lục).
Nếu có thì giờ tôi thiết nghĩ rằng: Bạn cũng nên tìm đọc những lời đại nguyện của các Đức Phật và các vị Bồ tát, bạn sẽ thấy được sự vĩ đại của các vị Phật hay là của Đạo Phật; ví như Ngài Địa Tạng nguyện độ tất cả chúng sinh trong địa ngục rồi mới thành Phật. Thế biết đến bao giờ Ngài mới thành Phật..! Và Ngài A Nan cũng phát nguyện:
“Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập
Như nhất chúng sanh vị thành Phật,
Chung bất ư thử thủ Nê Hoàn”
(Trong đời ngũ trược tội ác này, con thề vào trước để cứu khổ chúng sanh. Nếu còn một chúng sanh nào chưa được thành Phật, thì con thề chẳng lãnh quả vui Niết Bàn). (PHPT, Lăng nghiêm, trang 113).
Tâm của các Ngài đã quá bao la, bao dung mọi chúng sanh mà quên mình, đúng là Bố Thí Ba La Mật, không còn chấp Ngã tướng (Thế là “Vô ngã”).
Viết đến đây tôi lại nhớ về thuở nhỏ, có lúc má tôi ra chợ bán cá, tôi phải phụ giúp má tôi. Tôi nhìn vào thùng cá đang yên lặng, bình yên, các con cá ung dung lội, tự dưng có một con vẫy đuôi, thế là cả một thùng cá đều khuấy động, nước bắn lên văng tung toé. Cuộc chiến chống khủng bố hiện nay cũng giống như thế. Chỉ một kẻ hay một nhóm khuấy động thì “thùng cá” đã nhốn nháo cả lên. Khủng bố do từ “Tâm vọng động” và người chống khủng bố cũng từ “vọng động của tâm”. Từ tâm sanh ra “muôn thù tranh khởi”
Oán báo oán hà thời dứt
Lấy Đức báo oán oán tiêu tan.
Thế nên cõi Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà là cõi của một người ngộ đạo, đã phát nguyện từ trong những kinh nghiệm nhìn về chúng sinh, thế giới của Tỳ kheo Pháp Tạng. Với 48 lời Đại nguyện đem lợi ích đến cho chúng sinh, cầu mong cho chúng sinh sớm thành Phật, an vui cõi Niết bàn, cho nên vị Tỳ kheo Pháp Tạng đã chọn những điểm thù thắng của từng cõi Phật để tạo thành cõi hoàn hảo nhất: Đó là cõi Tịnh Độ đã được Đức Phật Thế Tự Tại Vương vui vẻ chấp nhận. Đức Phật Thích Ca cũng ca ngợi không ngớt; và với chúng sinh cõi Ta Bà: Đó cũng là con đường vui vẻ, an toàn, bằng phẳng và dễ dàng hơn nhất trong các pháp tu của đạo Phật.
Tín, Nguyện, Hành là các điều kiện cần có (“ắt có và đủ”) để đi vào cõi Tịnh độ.
Với “Tin là mẹ sanh ra các công đức, nhờ có đức tin mà người tu chứng được quả Bồ Đề” (Kinh Hoa Nghiêm). Quả thực vậy, nếu ta có tin thì chúng ta mới hăng hái, quyết tâm đi đến cùng không gì lay chuyển được (Bất Thối Bồ Tát). Còn đi với lòng dạ “nửa ngờ, nửa tin” hay niềm tin không vững chắc sẽ dễ bỏ cuộc nửa chừng, hoặc lừng khừng, hoặc bỏ rồi lại lấy... Cho nên Niềm Tin ở đây rất quan trọng: Tin những điều mà Phật Thích Ca đã nói về cõi Cực Lạc, có cõi ấy thật sự; Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn thù thắng, dễ tu dễ chứng, là con đường đưa đến cõi Cực Lạc; nhất là tin vào mình có thể thực hiện được pháp tu ấy trong suốt cuộc đời.
Sau niềm tin là lòng ước nguyện, sự tha thiết mong muốn để được thành đạt. Nếu ta muốn có nhà thì ta sẽ có nhà, muốn có xe thì ta sẽ có xe..., và muốn vượt ra khỏi luân hồi thì nhất định sẽ ra khỏi luân hồi, và dứt khoát ta sẽ về cõi Tịnh Độ nếu ta quyết muốn về cõi ấy. Ta còn nghi ngờ vào chính ta, sao bạn?
Hành là thực hành theo lời Phật dạy. Có thông hành: là các việc thông thường hay là Tịnh nghiệp như hiếu kính cha mẹ, Tôn thờ sư trưởng, Thọ trì quy y ngũ giới, Từ tâm không giết hại và phát Bồ Đề Tâm. Chuyên biệt hành: chuyên lòng niệm Phật để đến được “nhất tâm bất loạn”.
Thực ra, nếu bạn để ý một chút, “một chút thôi” bạn sẽ thấy Đức Phật không lừa dối bạn về pháp tu Tịnh Độ nầy đâu: “Nhược hữu thiện nam tử thiện nữ nhơn, văn thuyết A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu, nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhật, nhược tứ nhật, nhược ngũ nhật, nhược lục nhật, nhược thất nhật nhất tâm bất loạn” (Nếu có người thiện nam kẻ thiện nữ nào, nghe nói đến tên Phật A Di Đà, chuyên tâm trì niệm danh hiệu Ngài từ một ngày cho đến bảy ngày mà tâm không loạn động). Như vậy, nếu người hành Thiền hoặc người Tĩnh Tâm dùng pháp kiểm soát hơi thở của mình hầu định tâm; thì trong pháp môn Tịnh Độ, niệm Phật là pháp để định Tâm; mà khi Tâm đã định thì Huệ sẽ phát sanh; Huệ sanh thì u mê phải biến mất tức là Vô minh không còn, lúc ấy Chơn Tâm hiển lộ: Bạn là Phật, là Bậc Giác ngộ rồi còn gì. Bạn không ở bên phật A Di Đà hay trong cõi Tịnh Độ hay sao? Cho nên người ta nói pháp Tịnh Độ là pháp dễ tu và an toàn nhất. Thiền thì chứng nhanh, nhưng có rất nhiều nguy hiểm vì dễ gặp nhiều ma chướng hoặc đi trật đường. Đúng đường thì Vô ngã, không nhơn, không chúng sanh, không thọ giả. Còn trật đường thì “đây là đạo của ta”, “ta là đấng..”, “ta là...”, hoặc “chiến đấu vì ta sẽ..”, vì vậy mà phân biệt đạo ta, đạo người, đưa đến chiến tranh tôn giáo, xa rời mục đích tốt đẹp của tôn giáo đi. Nếu nhẹ nhàng hơn thì khùng khùng điên điên hoặc là tự cao tự đại (đại vọng ngữ, đại ngã mạn),
Vả lại, pháp môn niệm Phật dựa vào Kiến đại để đạt được Thánh quả. Bạn hãy nghe Ngài Đại Thế Chí Pháp Vương Tử trình bày về Pháp Niệm Phật Tam Muội như sau:
“Mười phương các Đức Như Lai thường nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con trốn tránh, tuy mẹ nhớ cũng chẳng có ích gì; nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì mẹ con đời đời không xa cách nhau. Nếu chúng sanh đem tâm nhớ Phật, niệm Phật thì hiện tại hay tương lai chắc chắn thấy Phật, cách Phật không xa, chẳng cần tu hành phương tiện nào khác mà tự nhiên tâm được khai ngộ” (Lăng Nghiêm, PHPT, trang 219).
Và tại sao trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương chép: “Niệm đến chỗ vô niệm, mới là chơn niệm”. Câu nầy đã khiến cho tôi nhớ lại “một ý niệm tức cười” đã khởi lên khi tôi đọc quyển Phật Học Phổ Thông khóa V về Tịnh Độ Tôn, số V: Lợi ích của pháp Niệm Phật. "Ngoài lợi ích của Lý còn có lợi ích về Sự nữa. Sự có các lợi ích sau: Niệm Phật sẽ trừ được các phiền não; Niệm Phật sẽ trừ được niệm chúng sanh; Niệm Phật làm cho thân thể được nhẹ nhàng yên ổn; Niệm Phật tâm trí sẽ sáng suốt, học hành mau nhớ và Niệm Phật khi lâm chung sẽ được sanh về Tịnh Độ".
Thì trong phần: “Niệm Phật sẽ làm cho thân tể‹ được nhẹ nhàng an ổn” có đoạn:
“Nhiều người mất ăn, bỏ ngủ vì uất hận, nhục nhã v.v.. Do đó, uất khí tích tụ lâu ngày trong người, mà sinh bệnh mất ăn, bỏ ngủ. Gặp những trường hợp như vậy, nếu chúng ta niệm Phật cho ra tiếng, thì những nỗi uất hận đè nặng tâm can chúng ta, sẽ như được trút ra cùng hơi thở, cùng tiếng niệm và thân tâm sẽ được nhẹ nhàng dễ chịu” (PHPT, khóa V trang 152). Đoạn nầy đã làm cho tôi liên tưởng đến hai chuyện: Giả sử như anh chàng thợ hớt tóc trong chuyện “Ông vua có lỗ tai lừa” vì ấm ức không thể thổ lộ cùng ai về lỗ tai của ông vua, thay vì anh ta chạy vào rừng kê miệng vào hố đào sẵn để la lên “Ha ha! Ông vua có lỗ tai lừa, ông vua có lỗ tai lừa”, thì anh ta chạy lên núi như Ngài Thiện Đạo cứ la lên “Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật!...” La thật lớn “Cao thanh kỳ danh” có thể anh ta sẽ cảm thấy dễ chịu hơn nhiều. Và thứ hai, nếu khi mệt rồi thì cứ “Kim cang kỳ danh” (niệm nhỏ) và cuối cùng thấy tĩnh lặng thì cứ “Mặc niệm kỳ danh” (niệm thầm) hay “quán tưởng kỳ danh” (niệm trong tâm), niệm mãi, niệm hoài đến khi trong óc, rồi trong tâm luôn có niệm, nhưng về cơ thể thì “vô niệm”. Khi đầy tâm rồi thì mọi cử động của Tâm đều là niệm (niệm nhập tâm). Thế là niệm đến chỗ vô niệm: Đó là “Chơn Niệm” vậy!
Nhưng đường về cõi Tịnh Độ không phải chỉ là Niệm Phật đến chỗ “nhất tâm bất loạn” không thôi; mà Đức Phật còn chỉ cho Hoàng hậu Vi Đề Hy 16 cách quán gọi là “Quán tưởng Niệm Phật”. Như vậy lại càng an toàn hơn, vì Phật đã chỉ rõ các cảnh của Tịnh Độ, nếu khác đi ta sẽ biết là cảnh ma. Mọi cảnh trong cõi Tịnh Độ được trang nghiêm từ tiếng trống, tiếng gió, tiếng nước chảy, chim kêu đều là những bài thuyết pháp, là những nhiệm mầu khiến dân trong cõi ấy đều nghĩ đến Phật, Pháp, Tăng; và nhất là phép quán về đất: “Nếu có chúng sanh y theo phép quán đất nầy mà quán, thì sẽ trừ được tám mươi vạn ức kiếp sanh tử tội chướng. Khi bỏ thân nơi cõi uế trược liền được vãng sanh về cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà tâm không còn chướng ngại. Y như trên mà quán gọi là chánh quán, nếu không như vậy là Tà Quán” (Quán Vô Lượng Thọ yếu giảng, trang 128).
“Phép quán thứ tám được thành tựu, quán như vậy diệt trừ được ức kiếp sanh tử tội chướng, trong hiện đời chứng được Niệm Phật Tam Muội” (Quán Vô Lượng Thọ yếu giảng, trang 176). Trong Kinh, Đức Phật Thích Ca cũng chỉ rõ về cách quán tưởng đến hình ảnh của Phật A Di Đà kể cả Quan Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát.
“Mười ba phép quán ở trước trong lúc quán cần phải đạt đến niệm Phật tam muội, còn gọi là nhập định quán. Đến đây Phật mở bày phương tiện cho chúng sanh, những ai trong lúc quán tưởng mà chưa chứng được niệm Phật tam muội tùy theo tín, hạnh, nguyện công đức sâu cạn sẽ được vãng sanh về chín phẩm ở cõi Cực Lạc. Chín phẩm gồm có thượng, trung và hạ, trong mỗi phẩm lại được chia làm ba phần thượng, trung, hạ tổng cộng chung là chín phẩm. (Quán Vô Lượng Thọ yếu giảng, trang 229).
Tóm lại, phương pháp Quán Tưởng Niệm Phật cũng đòi hỏi ta các điều kiện của một người tu hành: “Muốn sanh cõi kia phải thực hành đầy đủ ba công đức: Một hiếu thảo cha mẹ, phụng dưỡng sư trưởng, thầy bạn, tu mười thiện nghiệp. Hai quy y Tam Bảo, giữ giới luật không phạm. Ba phát Bồ đề tâm, tin lý nhân quả, phát tâm đại thừa, tinh tấn tu tập”. (Quán Vô Lượng Thọ yếu giảng, trang 86). Và thực hiện thì quán tưởng đến Phật A Di Đà và hai vị Bồ Tát Quan Thế Âm, Đại Thế Chí. Ngoài ra còn tập trung niệm phật đến lúc Tâm được Định. Như vậy trong phương pháp nầy vừa là sự năng nổ của người tu hành, đồng thời nhờ Phật lực hỗ trợ lẫn “nhiều ức kiếp tội chướng được diệt, tiêu trừ nhờ các phép quán, cho nên “dễ tu, dễ chứng” là một sự tất nhiên.

(Nếu nói về Phật A Di Đà và cõi Tịnh Độ mà không đề cập đến "Chín phẩm hoa sen" (liên hoa cửu phẩm) là thiếu sót lớn. Chín phẩm đó gồm ba phẩm chính yếu là: Thượng phẩm, Trung phẩm và Hạ phẩm. Trong mỗi phẩm chia thành ba bậc: Thượng sanh, Trung sanh, Hạ sanh. Như vậy, kết hợp lại chúng ta có chín phẩm như sau:
Thượng phẩm thượng sanh Trung phẩm thượng sanh Hạ phẩm thượng sanh
Thượng phẩm trung sanh Trung phẩm trung sanh Hạ phẩm trung sanh
Thượng phẩm hạ sanh Trung phẩm hạ sanh Hạ phẩm hạ sanh
Những phần nầy Thượng tọa Thích Phước Nhơn đã giảng giải rõ trong quyển "Quán Vô Lượng Thọ yếu giảng"; Còn ở đây, để có thể hiểu được một cách khái quát, xin mời bạn cùng tôi lược qua các đoạn kinh được trích ra từ 2 phẩm 24 và 25 trong: "Phật thuyết Kinh Đại Thừa Vô Lương Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác" do Ngài Hạ Liên Cư hội tập và Tâm Tịnh chuyển ngữ, sách ấn tống 2003, như sau:

Phẩm 24: Ba Bậc Vãng Sanh.
Phật bảo A Nan: Mười phương thế giới, chư thiên nhân dân, số người chí tâm, nguyện sanh nước đó, thường gồm ba bậc:
Những bậc Thượng bối: ly gia đoạn dục, hành hạnh Sa Môn, phát Bồ Đề Tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật, tu các công đức, nguyện sanh nước đó. Các chúng sanh nầy, đến lúc lâm chung, Phật A Di Đà, cùng các Thánh chúng, hiện ở trước mặt, trong một khoảnh khắc, liền được tiếp dẫn, vãng sanh Cực Lạc, bèn tự hóa sanh, trong ao Bảy Báu, trí huệ dõng mãnh, thần thông tự tại.
Do đó, A Nan! Có chúng sanh nào, muốn trong đời nầy, thấy Phật Di Đà, phải nên phát tâm, Vô Thượng Bồ Đề. Lại phải chuyên niệm, cõi nước Cực Lạc, tích chứa căn lành, liền đem hồi hướng, thế nên thất Phật, sanh về nước đó, đặng bất thối chuyển, cho đến đắc quả Vô Thượng Bồ Đề.
Với bậc Trung bối, tuy rằng không thể hành hạnh Sa Môn, tu công đức lớn, nhưng phải phát tâm Bồ Đề Vô Thượng, nhất hướng chuyên niệm, A Di Đà Phật. Tùy chỗ huân tu, các công đức lành, phụng trì trai giới, khởi dựng tháp tượng, cúng dường Sa Môn, đốt đèn treo phan, rải hoa đốt hương, lấy đó hồi hướng, nguyện sanh nước kia. Người đó mệnh chung, Phật A Di Đà, hóa hiện thân Ngài, quang minh tướng tốt, đủ như chân Phật, cùng với Thánh chúng, trước sau vây quanh, hiện trước người đó, nhiếp thọ tiếp dẫn, liền theo hóa Phật, vãng sanh nước đó, trụ bất thối chuyển, Vô Thượng Bồ Đề. Trí huệ công đức, sau bậc Thượng bối.
Với bậc Hạ bối, nếu như không thể, tạo các công đức, phải nên phát tâm, Vô Thượng Bồ Đề, một lòng chuyên niệm, A Di Đà Phật, vui vẻ tin sâu, chẳng sanh nghi ngờ, đem tâm chí thành, nguyện sanh Cực Lạc. Đến khi mệnh chung, người ấy trong mộng thấy Phật Di Đà, cũng được vãng sanh. Trí Huệ Công đức, sau bậc Trung bối.
Nếu có chúng sanh, trụ pháp Đại Thừa, đem tâm thanh tịnh, hướng Vô Lượng Thọ, cho đến mười niệm, nguyện sanh nước Ngài, nghe pháp thâm sâu, liền sanh tin hiểu, nhẫn đến đạt được, một niệm tịnh tâm, niệm Đức Phật kia. Người ấy mệnh chung, thấy Phật Di Đà, sanh về Cực Lạc, được bất thối chuyển, Vô Thượng Bồ Đề.

Phẩm 25: Chánh Nhân Vãng Sanh.
Lại nữa A Nan, nếu như có người thiên nam, thiện nữ, nghe kinh điển nầy, thọ trì đọc tụng, biên chép cúng dường, ngày đêm không ngừng, cầu sanh Cực Lạc, phát tâm Bồ Đề, giữ gìn giới cấm, vững vàng không phạm. Lợi lạc hữu tình, căn lành đã làm, đều ban cho họ, khiến họ an lạc, nhớ niệm đức Phật A Di Đà Phương Tây, cùng quốc độ Ngài. Người nầy mạng chung, sắc tướng như Phật, mỗi mỗi trang nghiêm, sanh về cõi báu, mau được nghe pháp, hằng bất thối chuyển.
Lại nữa A Nan, nếu có chúng sanh, muốn sanh Cực Lạc, tuy rằng không thể đặng tinh tấn lớn, hoặc đặng thiền định, tận trì kinh giới, nhưng cốt làm lành: Một không sát sanh. Hai không trộm cắp. Ba không dâm dục. Bốn không vọng ngữ. Năm không thêu dệt. Sáu không ác khẩu. bảy không lưỡng thiệt. Tám không tham lam. Chín không sân giận. Mười không si mê. Như thế suốt cả ngày đêm nghĩ nhớ, thế giới Cực Lạc, Phật A Di Đà, các thứ công đức, các thứ trang nghiêm, hết lòng quy y, đảnh lễ cúng dường, người nầy mạng chung, không kinh không sợ, tâm không điên đảo, liền được vãng sanh, về cõi Cực Lạc.
Nếu sự đa đoan, không thể ly gia, bận rộn không thể đại tu trai giới, nhất tâm thanh tịnh, những lúc rỗi rảnh, thân tâm đoan chính, dứt muốn bỏ lo, từ tâm tinh tấn, không nên sân giận, đoạn trừ tật đố, tham lam bỏn sẻn, trong lòng chẳng chuốt, hối hận nghi ngờ. Phải nên hiếu thuận, trung tín hết lòng, tin kinh Phật nói, nghĩa lý thâm sâu, tin nơi đạo lý, làm lành đặng phước, phụng trì tất cả các pháp như thế, không được thiếu sót, nghĩ suy chín chắn. Muốn đặng độ thoát, ngày đêm thường niệm; muốn nguyện vãng sanh, cõi nước thanh tịnh, của Phật Di Đà, mười ngày mười đêm, cho đến một ngày, một đêm nối nhau không hề gián đoạn, mạng chung đều đặng, vãng sanh Cực Lạc, hành Bồ Tát đạo.
Chư vị vãng sanh, thảy đều đắc đặng A Duy Việt Trí, đủ sắc vàng ròng, ba mươi hai tướng, đều sẽ thành Phật. Muốn được làm Phật ở cõi nước nào, tùy theo tâm nguyện. Do nơi chư vị, ngày đêm tinh tấn, cầu đạo không dừng, quyết định kết quả, sở nguyện chẳng luống.
Lại nữa A Nan! Do nghĩa lợi nầy, vô lượng vô số, không thể nghĩ bàn, chẳng có sai khác, vô biên thế giới, chư Phật Như Lai, đồng thanh xưng tán, công đức của Đức Phật Vô Lượng Thọ.

Qua đó, chúng ta có thể thấy được rằng Pháp tu Tịnh Độ là một phương pháp cho "đại chúng" từ người bận rộn trong cuộc sống thường ngày vẫn thực hiện đường lối tu một cách "thoải mái"; cho đến người xuất gia, thực hành hạnh Sa Môn, như những vị Tôn Đức, hoằng dương Đại Thừa, hướng dẫn người niệm Phật cầu vãng sanh... Tất cả đều có thể tu được và tùy theo căn cơ của mình cùng sự tu tập chuyên nhiều hay chuyên ít mà được "tiếp dẫn" bằng một trong chín phẩm "Liên Hoa" (Hoa sen); hoặc tự mình sẽ nhận được "Vô lượng quang" của Phật A Di Đà mà nương theo đó để về cõi Tịnh Độ khi vãng sanh . Nhưng điều kiện "tiên quyết" vẫn là "Tín, Nguyện và Hành".
Cõi Tịnh độ là cõi an vui, thoát khỏi sự khổ trong Tam giới nên được gọi là cõi Cực Lạc; tuy nhiên nó chỉ mới là cõi chuyển tiếp, để từ đó những vị "Bất Thối Bồ Tát" (tức là những chúng sinh khi vãng sanh được về cõi nầy sẽ không thối tâm tu hành nữa như trong thế gian nên gọi là Bất Thối) tiếp tục được trợ giúp tu hành hầu được về với cõi rốt ráo là Chơn Như.
Với cảnh trí trang nghiêm, thường phát ra các âm thanh (từ tiếng gió, tiếng trống, tiếng nước chảy, tiếng chim kêu...) khiến cho người đều nghĩ đến Phật, Pháp, Tăng. Đó chẳng qua là các trợ pháp cho pháp Viên Thông, vì các âm thanh ấy phát ra khiến cho “cái nghe” của mình xoay vào trong để nghe tự tánh (phản văn văn tự tánh) để mình thấy được Chơn tánh của mình và tự đó tiến lên được hàng Nhị thừa (Thanh văn, Duyên giác) vào cõi Tịnh Độ thứ nhì “Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Độ”. Rồi từ cõi nầy tiến tu để vào cõi của các vị Thập Trụ Bồ Tát “Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ”. Và sau cùng khi đạt được rốt ráo Vô Thượng Bồ Đề ta sẽ hoà vào Chơn Như, viên dung một thể bình đẳng với các đặc điểm Thường (không thay đổi, sanh diệt), Tịch (xa lìa phiền não, vọng nhiễm), Quang (chiếu sáng khắp cả mười phương), ấy là cõi Thường Tịch Quang Tịnh Độ vậy.
Con đường nào cũng về cùng một Cứu Cánh:
‘Tất cả các pháp đều là Phật pháp” (Kinh Kim Cang).
“Vì trình độ của chúng sanh có sai khác, nên có quả Thánh Hiền sai khác, chứ không phải Phật pháp có sai khác” (Kinh Kim Cang).

Nguyên Thảo,
13-12-01.


Tài liệu tham khảo:
-Phật Học Phổ Thông, HT. Thích Thiện Hoa, Thành hội PG/ TP.HCM ấn hành 1997.
-Di Đà Yếu Giảng, TT. Thích Phước Nhơn, Chùa Phổ Quang- Tây Úc ấn hành 2000.
-Quán Vô Lượng Thọ Yếu Giảng, TT. Thích Phước Nhơn, Chùa Phổ Quang- Tây Úc ấn hành 2000.
-Tịnh Độ Uyên Nguyên, Ban Giảng Huấn, ấn tống tại Sydney 1995.
-Băng giảng “Tương quan giữa sự sống và chết”, HT. Thích Tâm Thanh (Đại Ninh-Lâm Đồng- Việt Nam).
-Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Kiến Chính, Tây Phương Xác Chỉ, Liên danh ấn tống 2003.

Tình Thầy Trò: Hơn 50 Năm Tìm Lại!

(Viết Kính tặng: Thầy Lý Văn Trọng,
Và các bạn: Từ Minh Tâm, Lưu Thanh Bình)


Người ta thường nói “Tìm lại” là kiếm được cái gì đã mất, tuy nhiên đây không phải là cái đã mất mà chỉ là không được khơi dậy mà thôi. Tôi chỉ làm một công việc là ôn lại những kỷ niệm của thời ấu thơ cùng với bạn bè đồng môn của trường Trung học Trịnh Hoài Đức ngày nào. Cũng chỉ viết mà chơi, đồng thời phụ họa cùng với Từ Minh Tâm và các bạn cùng trường, góp phần “hoa lá cành” cho trang nhà Cựu Học Sinh Trịnh Hoài Đức. Nhưng những sự bất ngờ đã đến, đến trong tư cách rất ư là tình cờ. Một: Người em gái ngày nào ở trọ chung mà tôi đã đề cập đến trong bài “Cho tôi một lời tạ ơn”. Rồi hôm nay tôi lại viết một bài khác để “Tạ ơn” cho người “điều hành trang Web” và người bạn khác là Lưu Thanh Bình, một cộng tác viên đắc lực của trang Web.
Bạn thử tưởng tượng tôi và Thầy tôi từ năm 1958 đã xa cách nhau rồi và từ ấy đến nay chưa hề có tin tức hay liên lạc lại. Thế mà, bây giờ chúng tôi lại trao đổi với nhau, cũng như trước đây cũng qua sự liên lạc của Từ Minh Tâm tôi đã được tin về Thầy Nguyễn Vũ Hải.
Trở lại năm 1958, quả thật là xưa phải không bạn? Thuở ấy, trường Sơ Cấp Tân Phước Khánh mới được mở thêm lớp Nhì. Tôi không nhớ rõ sỉ số trong lớp là bao nhiêu, nhưng phỏng độ hơn 50, 60 học sinh vì không phải học sinh của trường Tân Phước Khánh không thôi, mà còn cộng thêm vào số học sinh từ trường Hóa Nhựt, Tân Long, Tân Hội, Vĩnh Trường chuyển ra nữa. Một ông thầy mới trẻ, đẹp trai rất có phong độ từ Lái Thiêu lên thường hay cỡi chiếc xe gắn máy Sachs của Đức (không biết có phải là Goebel hay không hay Beta gì đó). Dù là trẻ nhưng Thầy rất chững chạc và đạo mạo đúng như là nghề nghiệp: Đó là Thầy Lý Văn Trọng. Cũng như đa số các Thầy vào thời ấy, Thầy Trọng cũng thích văn nghệ và đánh đàn Măngđôlin rất ư là dòn dã. Những giờ Hoạt Động Thanh Niên, chúng tôi luôn được Thầy Trọng dạy những bài hát mới liên tục từ “Tía em hừng đông đi cày bừa, má em hừng đông đi cày bừa…”, cho đến “Khỏe vì nước kiến thiết quốc gia…” ngoài bài Quốc Ca và Suy Tôn Ngô Tổng Thống để chào cờ mỗi buổi sáng; rồi đến “Bạch Đằng Giang”, “Bóng Cờ Lau”, “Xuất Quân” (Dưới ánh ô vàng rầm rầm đoàn quân ta tiến…), Trưng Nữ Vương, “Ai bảo chăn trâu la khồ, chăn trâu sướng lắm chứ!…”, và cái bài gì mà tôi không nhớ tên tựa, nhưng mỗi lần Thầy bắt nhịp hát là thằng Em Úng nó hát thật lớn “Ắng ình inh eo ắm ươi àn a á…” khiến thằng Son phải la “mầy hát cái gì vậy Em Úng, người ta hát Nắng bình minh… còn mầy hát cái gì kỳ vậy!”. Thằng Son chỉ ghẹo thôi chứ thằng Em Úng nó ngọng cơ mà, làm sao mà nó hát cho đủ chữ được. Thằng Son mãi đến lớn không bỏ được tật lí lắc của nó. Đến năm Đệ Tứ lúc còn học ở trên Tân Uyên, sáng thứ hai chào cờ sau khi hát bài Quốc Ca xong đến hát bài “Suy Tôn Ngô Tổng Thống” đến đoạn “bài phong kiến bốc lột” không biết nó hát như thế nào đó mà những thằng bạn đứng bên nó bỗng phát lên cười khiến cả lớp cũng cười không thể hát được. Ông Tổng Giám Thị Mã Sấm tức quá bảo hát lại, tới đoạn đó lại cũng cười nữa, thế mà thằng Son không cười mới là hay. Ông Tổng Giám Thị quát cho một hồi rồi xếp hàng vào lớp, bỏ dỡ bài ca ấy. Sau 75 nghĩ lại thời ấy cũng may, nếu sau 75 mà như vậy chắc là đã có chuyện lớn rồi! Không ở tù thì cũng gặp rắc rối khó khăn!
Có bài hát mà tôi cứ nhớ mãi không thôi, nó gắn liền với những kỷ niệm dấu yêu cả trường lẫn làng quê đó là bài mà Thầy Trọng đã dạy “Trường Làng tôi” (Trường làng tôi không giây phút tôi quên dù cách xa muôn trùng trường ơi!…) của Phạm Trọng Cầu mà thuở đó tôi chỉ chép là Phạm Trọng cho nên tôi đã phạm một lỗi nghiêm trọng trong bài “Tân Khánh: Quê hương thời tôi lớn”, tôi đã viết tên Thầy tôi là Phạm Văn Trọng mà không là Lý Văn Trọng, tôi đành tạ lỗi với Thầy tôi! Một năm lớp Nhì được học giỏi, hát hay!
Sau nầy, tôi có ghi lại những kỷ niệm đáng nhớ vào thời lớp Nhì ấy trong bài “Âm Nhạc Với Đời Sống” (với bút hiệu Đồ Ngông) như sau:
“Đồ tôi vốn biết hát chút chút, hát với trẻ con mà Đồ tôi phải cầm thước gõ đầu thì được. Nhưng mỗi lần hát, trẻ con lại bụm miệng cười khúc khích vì tiếng Đồ tôi giống như vịt đẹt kêu lên khi bị người ta đuổi chạy. Thế mà Đồ tôi lại thích các bài hát, thế mới chết! Trong cuộc đời của Quý vị không biết thế nào, chứ Đồ tôi gần như có những kỷ niệm thiết tha và yêu quý không cùng mà dám chắc trẻ con Việt nam trên xứ Úc, hay bất cứ trên xứ nào cũng không thể có được. Vì rằng vào thời các giai đoạn ấy, trên đài phát thanh rất thường hay hát các bài hát ấy. Bây giờ thì có bài Đồ Ngông tôi nhớ tên, có bài chỉ nhớ được vài câu, có bài không biết tựa là gì, nhưng nó vẫn là kỷ niệm của Đồ tôi.
Ngoài bài Quốc ca: "Nầy Công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng, đồng lòng cùng đi hi sinh tiếc gì thân sống...", trong lớp học đầu tiên ấy có mấy anh mấy chị; nào là Cờ, Tướng, Tự, Sơn, Chi, Son, Gõ, Năm...Và bên nữ chị Mây, Thay, Tuyết, Mới, Khởi, Băng Tâm...đứng sắp hàng mỗi sáng "nhóng mỏ" ca thật lớn, trong khi đó thì hai bạn đứng kéo cờ lên. Xong tới bài "Suy tôn Ngô Tổng Thống". Ôi! Bây giờ trong lứa bạn có người mất, người còn, những dáng trẻ con ấy không thấy nữa, đầu đã bạc, răng bắt đầu rụng, con cháu đầy đàn. Vào cuối năm lớp nhì cả lớp lại bùi ngùi, lau nước mắt tiển thầy Trọng đi động viên vào quân đội. Và năm sau lần đầu tiên viết chánh tả với cô giáo người Bắc: Vũ thị Hồng Ngọc. Cô đọc tựa bài "Cách định bệnh", có đứa thì viết đúng, có đứa viết "Cách địch bạch", đứa thì viết "Cách định bạch" rồi "địch bệnh" cùng nhau ngơ ngác. Khi bắt lỗi đứa ít nhất cũng là 8 lỗi, đa số đều trên mười lỗi lãnh "dê rô" ốc ngỗng. Tuy nhiên trong các thời gian ấy nào là bài "Khỏe vì nước", rồi "Ngày bao hùng binh tiến lên, bờ cõi vang lừng câu quyết tiến..." hoặc "Dưới ánh ô vàng rầm rầm hùng binh ta tiến.." rất khí thế. Lúc thầy Trọng còn ở trường thầy dạy nhạc nhiều lắm, có lúc thầy đem đàn Măngđôlin đàn đệm nghe dòn dã. Rồi có những ngày, các thầy ở trường khác quy tụ về vừa bắt giọng trò ca, các thầy cũng ca, Ôi! Thật là vui vẻ cả trường!”
Bây giờ những Thầy không biết ở nơi mô? Thầy Khuê thích thể dục thể hình đã mất đi từ năm 61 trong chuyến công tác ở trên Tân Uyên, Thầy Liệu, Thầy Viễn, Cô Cúc? Thầy Hòa và Cô Nga đã về Sài Gòn từ lâu. Thầy Di cũng đã “đi” rồi!
Thời gian thấm thoát mà đã mấy mươi năm, ngày xưa trường học lèo tèo mấy xã mới có một trường; bây giờ trường Phổ thông Trung học khắp nơi. Mỗi tỉnh cũng thường có trường Đại học, học sinh ôi, sao đông ơi là đông. Mà nhân tài để làm cho đất nước tiến lên lại chẳng thấy. hay chỉ tại mình không đi đúng đường đó chăng?
Thấy bây giờ để nhớ lại thời xưa, tình thầy trò lúc ấy thật là hiếm hoi như trời hạn mà trông mưa. Thế cho nên mấy mươi năm mới có được tin thầy, quả thật là đáng quý vô ngần. Điều ấy nếu mà tôi chẳng có “duyên” để viết. Thầy tôi không có duyên để đọc thì chắc cũng chẳng bao giờ lại được bắt tin nhau. Một cuộc truy tầm vòng vo mà Lưu Thanh Bình dí dỏm trong Email như sau:

“Đúng ra là các anh nên cám ơn anh Tâm vì chính anh Tâm mới là người đầu tiên tạo điều kiện để thầy trò có cơ duyên hội ngộ sau nữa thế kỷ.
Vậy là một người VN , nhờ sự giúp đỡ của một người Mỹ , đã làm cầu nối liên lạc cho hai người Pháp và Úc gặp nhau.
Xin nói thêm anh Trọng là dân Lái Thiêu , bạn với những người anh họ của Thanh Bình , nhờ đọc bài " Người Hoa ở Lái Thiêu" trên trang THĐ mà nhìn ra đồng hương với nhau.
Anh Thạch là "sư huynh" của Thanh Bình.
Một niềm vui tinh thần cho người sáng lập ra trang nhà THĐ.
Bình”

Lưu Thanh Bình đã đúng, tôi và Thầy tôi trước tiên phải cám ơn Từ Minh Tâm mới là phải việc. Nhưng cái “duyên” mà Thầy tôi lại “mò” tới trang Web CHS Trịnh Hoài Đức mới là quan trọng. Tôi biết chắc là Thầy tôi không có học ở trường Trịnh Hoài Đức. Tôi sẽ không hỏi Thầy tôi về lý do mà chỉ để “đoán già đoán non” cho nó tăng thêm phần hấp dẫn. Thầy được sự lôi cuốn của bài Lưu Thanh Bình viết về “Người Hoa ở Lái Thiêu” để rồi Thầy “lưu ý” đến bài “Tân Khánh: Quê hương thời tôi lớn” của tôi. Thầy chỉ nhạy cảm với chữ “Tân Khánh” vì nơi đó thầy đã có dính líu trong một thời gian ngắn, Thầy cũng không ngờ trong bài viết lại có đề cập đến một năm ngắn ngủi mà đầy kỷ niệm của Thầy. Để rồi Thầy lại truy tầm Email của Lưu Thanh Bình trong “Sổ Lưu Niệm”, và Thầy rất khéo léo với Thanh Bình như sau:

“ Thân gởi chú Thanh Bình,
Xin lổi gọi là chú vì thấy email có số 1954, tôi đoán là năm sinh ,nếu đúng như vậy thì nhỏ hơn tôi mười mấy tuổi.
Tôi mới đọc bài "Ngưòi Hoa ở Lái thiêu " do Lưu Thanh Bình viết, tôi tìm trong "Sổ lưu niệm "của trường Trung học Trịnh Hoài Đức và may mắn tìm được địa chỉ nầy của chú.
Đọc xong bài viết, tôi biết ngay tác giả là người Lai Thiêu 100% , vì mọi sự kiện và nhơn vật trong truyện rất chính xác như tôi từng biết hồi còn nhỏ ở quê nhà; tôi sanh quán tại chợ Laithiêu, nhưng không có học trường THĐ, chỉ có hồi thời Tiểu học có học tường Laithieu, bạn học thửơ đó sau làm thầy giáo rất nhiều như thầy Phúc, thầy Tại , thầy Nghị,thầy Chiểu, thầy Ren,cô Lôi ,cô Khứ,cô Khiết...
Trong truyện có nói tới võ sư Quí, va bà tám Ngắn, đó là dì tám của tôi .Tôi cũng lai Tàu, 1/4 thôi, khai sanh hồi trước có ghi hai Minh Hương trong dấu ngoặc.
Dài dòng về tôi, quên hỏi chú Bình phải ở bên phía chợ củ không? vì ben chợ mới tôi biết gần hết mấy gia đình Tàu Việt.
Chú Bình có email của người tên Nguyên Thảo, tác giả bài Tân Khánh quê tôi...?nếu có cho tôi xin , có thể là người tôi quen vì tôi có ở Tân Phước Khánh một thời gian ngắn.
Rất vui mừng biết được thêm một đồng hương ,mong có dịp gặp lại.
Trọng / Paris.”

Quả thật Thầy tôi đã biết “học trò” của Thầy đã viết bài “Tân Khánh: Quê hương thời tôi lớn” rồi. Nhưng Thầy muốn truy tầm và xác minh, thế thôi! Thế là Thầy trò hội ngộ sau hơn nửa thế kỷ trôi qua.
Một người (ở) Pháp phải nhờ đến một người (ở) Việt Nam; người (ở) Việt Nam nhờ đến một người (ở) Mỹ để nối kết một người (ở) Pháp với một người (ở) Úc. Lưu Thanh Bình thật là thông minh và có óc hài hước đáo để.

Và Từ Minh Tâm cũng chia sẻ niềm vui như sau:

“Rất vui khi thấy anh em, thầy cô liên lạc được với nhau
Tâm”.
Thế là, nhờ Từ Minh Tâm mở ra trang Web mà CHS Trịnh Hoài Đức đã có tiêu điểm để nhìn, để hoạt động, để kết nối từ những thế hệ lại với nhau kể cả Thầy lẫn Trò. Còn riêng tôi, tôi lại một lần nữa “Cho tôi một lời Tạ ơn” với Từ Minh Tâm và không phải “người viết” kín đáo nữa mà với một cái tên hẳn hoi: Đó là Lưu Thanh Bình, người đồng hương Lái Thiêu với Thầy tôi!

Nguyên Thảo,
13/04/11.

Saturday, April 2, 2011

Tổng Quan Về Giáo Lý Đạo Phật:

Phần II: Xuất Thế Gian.
A-Nhân Sinh Quan.

-Theo Duy Thức Học.
-Thập Nhị Nhân Duyên
-Duyên Khởi.
-Nghiệp -Luân Hồi.
-Khổ (Khổ đế);
-Nguyên nhân của khổ (Tập đế).
-Chỉ con người mới tu được!


Theo Đạo Phật, con người là một loài trong sáu cõi luân hồi mà chúng sinh phải trải qua để trả những nghiệp báo của mình vào những kiếp trước. Dù cuộc sống có ít vui nhiều khổ, nhưng con người lại là chúng sinh có khả năng tu hành để giải thoát, để thành Phật, thành Bậc Giác Ngộ. Ngay cả những chúng sinh ở cõi sung sướng khác như cõi trời muốn thành Phật cũng phải sinh lại về cõi người để tu và mới đạt được Đạo. Sáu cõi luân hồi đó là: Thiên (Trời), A-Tu-La (Thần), Nhân (Người), Súc sinh (Loài vật), Ngạ qỷ› (Qu› đói), và Địa ngục.

I-Theo Duy Thức Học:
Như trong phần "Nhập Thế Gian" chúng ta thấy rằng con người, chúng sinh và vũ trụ được thành hình vì do sự "Vô minh" của tâm, tâm không thấu rõ "sự" và "lý" của pháp mà đã "vọng động" có "tâm phân biệt" và "vọng tưởng" để từ đó làm duyên khởi cho bao nhiêu duyên khởi khác hiện ra (trùng trùng duyên khởi) và đưa chúng sinh vào vòng "luân hồi sinh tử", khó thoát ra được.
Và cũng trong phần đó, chúng tôi đã cố gắng dẫn chứng bằng những đoạn Kinh mà Đức Phật đã giải thích về sự "ra đi" từ nơi nguồn gốc để vào "vòng luân hồi sinh tử". Như thế, chúng ta đã biết vì "trong một lúc" vọng động, phân biệt của Chơn tâm mà chúng sinh đã mượn đến tứ đại (đất, lửa, gió, nước) để kết hợp thành thân xác của mình. Với thân xác nầy đã "trói buộc" chơn tâm trong khuôn khổ, không vượt ra khỏi giới hạn của nó; vì vậy chơn tâm mất hẵn bản chất "tự sáng suốt, chiếu soi" và không còn "tự tại cùng hư không", tức là không thể lớn bao trùm cả hư không hay nhỏ ngồi trong hạt bụi vi trần được nữa. Cái "chơn tâm" bị mê muội đó đã trở thành "vọng tâm" để ôm lấy cái thân "tứ đại" vay mượn mà cứ ngỡ là thân thật của mình, để rồi yêu mến nó, phải làm lụng cực nhọc, săn sóc cho nó, tìm đủ mọi cách để chiếm hữu các thứ nhằm cung phụng cho cái thân giả tạm. Mọi chúng sinh trong "tam giới" còn luân hồi sinh tử đều là do "Tâm" ở nơi "vọng tâm" nầy mà sinh ra (Tam giới do tâm); nhưng thế nào lại là "vạn pháp do thức"? Cũng trong phần Nhập thế gian, chúng ta còn thấy "Vọng tâm" của chúng sinh lại mượn Kiến đại để "nhận thức" thấy, nghe, hay biết để làm "thức" cho mình. Điều nầy có nghĩa là chúng sinh chỉ có "thức" khi đã là chúng sinh ở trong tam giới; chính nhờ "thức" nầy mà con người, chúng sinh biết chọn con đường tu hành, chọn "pháp" để mà giải thoát, để về trở lại với Chơn Tâm. Thế là biết được "vạn pháp" cũng do "Thức", cho nên "Vạn pháp do thức" là vì vậy! Cũng kể từ đó chúng sinh có "Tâm" và "Thức" hay gọi chung lại là "Tâm thức" (khác với Thức tâm, thức tâm hay là chơn tâm là một trong 7 đại). Ngoài ra, chúng sinh và con người còn vay mượn "hư không" để thân thể được tăng trưởng lớn lên, đi đứng nằm ngồi. Nếu không có "tính hư không" thì thân thể không thể di động hay tăng trưởng. "Thức" đã đóng góp phần quan trọng vào sự "cấu thành" chúng sinh và con người, cho nên tìm hiểu "Duy Thức" cũng là điều cần thiết của chúng ta vậy!
Nếu "Tâm" khi chưa vào cõi luân hồi thì nó chỉ là "Tâm" với đầy đủ tính chất của nó. Đức Lục Tổ Huệ Năng đã diễn tả về cái Tâm, cái Tự Tánh ấy như sau:
Hà kỳ Tự Tánh bổn tự thanh tịnh
Hà kỳ Tự Tánh bổn bất sanh diệt
Hà kỳ Tự Tánh bổn tự cụ túc
Hà kỳ Tự Tánh bổn vô động diêu
Hà kỳ Tự Tánh năng sanh vạn pháp.

(Cái Tâm của ta tự nó vốn là thanh tịnh, không sanh không diệt, có đầy đủ tất cả tự nó không lay chuyển, nhưng lại "năng sanh vạn pháp" quyền biến vô cùng).

Nhưng khi chúng sinh vào cõi "sinh tử luân hồi" rồi, thì cái tâm ấy bị trói buộc trong thân thể "tứ đại", không vượt thoát ra ngoài được và "cái nhận biết" không qua khỏi các giới hạn của "căn, trần" mà "thân xác" đã cho phép. Các thức ấy là gì?
Khi chúng sinh được thân tứ đại; trên thân có được 6 giác quan, 6 giác quan ấy tiếp xúc với 6 trần cảnh bên ngoài để từ đó có thể nhận thức được vũ trụ, vạn vật chung quanh mà trong Duy thức kể đó là:

- Sắc pháp (11): sắc pháp gồm có 5 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân hay tiếng Hán là nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân- không có ý vì ý đã nằm trong các "thức" chính yếu tức là Tâm Vương) và lục trần: sắc trần, thinh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần tức là những đối cảnh của vật chất bên ngoài được các căn nhận làm đối tượng cũng như cảnh, sắc đối với mắt; âm thanh đối với tai; mùi, hương đối với mũi; vị nếm đối với lưỡi; đụng chạm, tiếp xúc đối với thân...

Từ 6 căn chúng sinh nhận định và biết được 6 trần bằng 6 thức. Sáu thức đó mà Duy thức học gọi là:
-"Tâm Vương" (6): Nhãn thức (nhận biết của mắt); nhĩ thức (nhận biết của tai); tĩ thức (nhận biết của mũi); thiệt thức (nhận biết của lưỡi); thân thức (nhận biết của thân); ý thức (nhận biết của pháp) hay là thức thứ sáu; và trong Tâm Vương còn hai thức khác là: Thức thứ bảy hay là Mạt Na Thức (ý thức về cái Ngã, cái Ta); và Thức Thứ Tám hay A Lại Da Thức (Tàng thức, là cái túi chứa đựng mọi nghiệp Thiện, Ác hay Vô ký (không thiện, không ác) của mọi chúng sinh trong cuộc sống).
Ở đây, chúng tôi muốn lấy một ví dụ để chúng ta có thể hiểu rõ hơn về các thức này:
"Cây đó có hoa. Hoa của nó màu sắc rất là đẹp, hình dáng hài hòa, thật hấp dẫn, khiến ai thấy cũng thích. Tôi muốn chiếm hữu làm của riêng mình. Nhưng có thằng bé đến muốn nhổ cây hoa. Tôi đuổi nó đi và đến bứng đem về nhà".
Trong thí dụ ấy nói đến điều gì?
-"Cây đó có hoa": ý nói "mắt" (căn) nhìn thấy được "cây có hoa" (đối cảnh hay đối tượng).
-"Hoa của nó màu sắc rất là đẹp, hình dáng hài hòa, thật hấp dẫn, khiến ai thấy cũng thích": nhận xét của "ý thức" (thức thứ sáu) về hoa của cây có hoa đó.
-"Tôi muốn chiếm hữu làm của riêng mình": "ý thức" muốn cây có hoa ấy phải thuộc "về mình", "về ta" (thuộc về cái Ngã). Ý thức này được gọi là Mạt Na Thức (Thức Thứ Bảy), hay để phân biệt với Thức thứ Sáu (ý thức) nên thức này còn được gọi là Ý Căn.
-"Nhưng có thằng bé đến muốn nhổ cây hoa": Sự "muốn chiếm hữu" của mình có nguy cơ bị mất.
-"Tôi đuổi nó đi và đến bứng đem về nhà": Tôi dùng đến sức mạnh, ỷ lớn hiếp nhỏ để đuổi thằng bé và chiếm cây có hoa làm của riêng. Như vậy theo luật nhân quả tôi đã "tạo nhân xấu" đối với thằng bé, nhân xấu ấy được "tàng chứa" trong "cái túi chứa A Lại Da Thức" (Thức Thứ Tám). Đến khi đủ nhân duyên thuận tiện "nhân" sẽ nẫy mầm, khi ấy tôi phải trả "quả" cho nó, có thể trong kiếp này, hay kiếp sau hoặc ở những kiếp lâu dài về sau không chừng.
Hi vọng với thí dụ này giúp cho chúng ta có thể hiểu về các trường hợp tương tự đối với tai, mũi, lưỡi, thân một cách dễ dàng hơn, cũng như nhận định về Duy Thức trong các trường hợp khác của cuộc sống.
Với Duy Thức này cũng còn cho chúng ta hiểu rõ hơn: Tại sao trong Đạo Phật chủ trương là "Vô Ngã"("Nhứt thế pháp vô ngã": Mọi pháp đều Vô Ngã)? Vì thực ra "Tâm" mọi chúng sinh đều như nhau, bình đẳng và "vô ngã" (không phân biệt ta, người, chúng sinh, ngay cả tướng thọ mạng), tất cả đều "viên dung" với các đại khác trong một thể "không hai" (bất nhị) ở cõi gọi là Niết Bàn, Viên Giác, Chơn Như, Không Như Lai Tạng, Đại Viên Cảnh Trí, và bằng nhiều danh từ khác nữa. Vì do "không biết" (Vô minh) mà sinh ra ý "cần có ngã" (Vọng tâm) và "có tâm phân biệt"; để rồi mượn tứ đại tạo thành "thân ngã" tạm bợ có sinh lão bệnh tử, như vậy tất cả những cái ngã đó chỉ là vay mượn tạm, không phải là Thật. Cái Ngã thật chỉ có là "Chơn Tâm", là "Phật tánh" không thôi! Muốn thoát khỏi sinh tử luân hồi thì mọi cái "ngã giả" phải trả về cho nguyên gốc của nó và "không mượn nữa" hay đúng hơn là: Trong túi chứa A Lại Da Thức không còn có nhân xấu (hay Nghiệp) nào nữa thì lúc ấy "Túi A Lại Da Thức" bị "vỡ tan" và tâm của chúng sinh lại được "khuếch tán, trương lớn" cùng khắp hư không (cảnh Đại Viên Cảnh Trí) về với "Cõi Chơn tâm" để trở thành bậc Giác Ngộ. Lúc ấy, "Tâm" của chúng sinh mới được tự tại vô ngại như thuở ban đầu trong cùng khắp hư không, muốn lớn được lớn, muốn nhỏ được nhỏ v.v... mà Đức Phật đã ví dụ "như quặng vàng đã được tôi luyện thành vàng ròng; đã là vàng ròng rồi thì không trở lại là quặng nữa", tức là sẽ không bao giờ bị "Vô minh" lôi cuốn vào cảnh Luân Hồi nữa, trừ khi vì nguyện lực mình muốn vào cảnh Luân hồi để độ chúng sinh như những Bậc Bồ Tát hay các Đức Phật đã làm!
Với cái "ngã" về thân, nó đòi hỏi chúng ta rất nhiều vấn đề, nhiều nhu cầu "phải được" đáp ứng trong cuộc sống; và nó chi phối con người phải luôn lo nghĩ, mưu cầu, hay tìm đủ mọi cách để thỏa mãn cho nó; mà "Mạt Na thức" là cái thức chính yếu để chúng sinh nghĩ về mình, làm cho mình, chấp về mình (ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái).
Với những nhận thức được từ Tiền ngũ thức (nhãn thức, nhĩ thức, tĩ thức, thiệt thức, thân thức), chúng sinh chỉ nhận định được những vật, hiện tượng, biến cố... chung quanh hay trong vũ trụ; và với "ý thức" chúng sinh lại được hiểu rõ, nhận định "chính xác, đầy đủ" hơn. Nếu chỉ với sáu thức đó thôi như các triết thuyết thế gian đã chủ trương thì khi con người, chúng sinh chết đi sẽ không còn có một cái gì để làm căn bản "tái sinh" mà duy trì sự nối tiếp của vạn vật, vạn hữu trong vũ trụ nầy cho đến ngày nay cả; vì "ý thức" dễ bị diệt không còn trong năm trường hợp mà Hòa Thượng Thích Thiện Hoa đã kể trong Phật Học Phổ Thông khóa IX, trang 154 như sau:

1/ Trời Vô tưởng; do hành giả khi tu định, nhàm ghét diệt trừ cái "tưởng", mà được sanh về cõi trời này, nên cõi trời này không có ý thức.
2/ Nhập định Vô tưởng; do hành giả diệt trừ sáu thức trước, mới được định này.
3/ Nhập định Diệt tận; do hành giả diệt trừ phần hiện hành của bảy thức trước, mới được định này. Hai định trên đây đều không có "ý thức".
4/ Khi ngủ mê không chiêm bao, cũng không có ý thức.
5/ Khi bịnh nặng gần chết, hoặc khi bất tỉnh nhân sự (chết giả) cũng không có ý thức.
Nhưng trên thế gian mọi việc vẫn được tương tục, hết cái nầy đến cái khác. Chúng sinh nầy chết đi thì chúng sinh khác được sinh ra, thế thì tại sao? Trong Đạo Phật ngoài Tiền Ngũ Thức và Ý Thức ra, còn có Thức Thứ Bảy (Mạt Na Thức) và Thức Thứ Tám (A Lại Da Thức). Mạt Na Thức là cái "Ngã", cái ngã nầy là "chủ" của mọi hành động tạo nghiệp (sát, đạo, dâm, vọng) từ thân hành động, tạo tác; ý suy nghĩ; và ngay trong ngôn ngữ lời nói nữa (thân, khẩu, ý). Rồi hậu quả của những việc làm đó đều được đưa vào "cái túi" chứa (A Lại Da Thức), như là nơi chứa những "hạt nhân" (chủng tử) truyền từ kiếp nầy đến kiếp khác. Tùy theo từng lúc, từng thời kỳ mà những hạt nhân (thiện, ác hay vô ký tức không thiện không ác) kia sẽ nẫy mầm để chúng sinh phải "trả quả". Những hạt nhân đó, có thể sẽ nẩy mầm ngay trong hiện kiếp, hay đợi đến kiếp sau, hoặc thật lâu vào những kiếp sau nữa. Hai thức nầy không bị diệt mà vẫn tiếp nối đến khi nào chúng sinh trở thành Bậc Giác Ngộ thì nó trở thành Bình Đẳng Tánh Trí hay Tha Thọ Dụng (Mạt Na Thức); và A Lại Da Thức thành Đại Viên Cảnh Trí. Lúc đó các thức trả về cho Kiến đại, thân xác trả về cho tứ đại và Tâm cũng không còn phân biệt ta người, năng sở (Vô ngã) để trở về với cõi Bất Nhị (không hai), trở về với Chơn Tâm (bản giác diệu minh minh diệu). Thế cho nên Đức Phật đã nói chúng sinh vì Vô minh đi vào cõi Luân hồi như đi vào giấc mộng. Và chính vì chúng sinh, con người có "thân giả" nên cần có "pháp giả" để lôi cuốn chúng sinh rời khỏi giấc mộng mà trở về với Chơn Tâm, chứ thực ra chúng sinh "vốn đã thành Phật từ xưa đến giờ", vì chúng sinh vốn ban đầu đã từ trong cõi Phật mà ra đi. Cho nên, Đức Phật đã thuyết giảng bao nhiêu năm dài nhưng cuối cùng Ngài đã thốt lên: "Bao nhiêu năm ta chưa nói một lời", vì "thuyết" cho những "cái giả" chỉ bằng những "lời giả" mà thôi, chứ chưa phải là "lời thật"!
Chính vì "gieo nhân, gặt quả" ấy mà đã lôi kéo con người, chúng sinh tương tục tái sinh, từ kiếp này cho đến kiếp khác trong cõi Luân hồi. Vì vậy mà: "chúng sinh thì sợ quả, còn Bậc Bồ Tát thì sợ nhân"!
Và để chúng ta có thể hiểu rõ về "tính ưu thế" của Triết học Duy Thức hơn, chúng tôi xin ghi lại đoạn giảng của Hòa Thượng Thích Tâm Thanh trong bộ băng giảng "Duy Thức Học" như sau:

"....Và chúng tôi đã so sánh hôm trước để ở phần đầu để cho quý vị nhận rõ rằng tất cả từ trước tới nay đều có những quan niệm, những khái niệm hay là những triết thuyết là Duy Tâm, Duy Vật, Duy Linh, Duy Lý, và trong đó có Duy Thức. Thế thì Duy Tâm, Duy Vật, Duy Linh, Duy Lý, tất cả những cái Duy đó đều được nhận thức một cách sai lầm, sai lầm bởi vì sao? Nếu là Duy Tâm mà hiểu Duy Tâm có nghĩa là bao hàm chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức thì đó mới gọi là Duy Tâm được. Đàng này quan niệm của Duy Tâm, khái niệm của Duy Tâm là Duy Tâm đó tách rời ra khỏi đối tượng nhận thức; hay là Duy Vật cũng tách rời ra khỏi đối tượng nhận thức; nếu Duy Vật là chủ thể nhận thức thì tâm là đối tượng nhận thức; ngược lại Duy Tâm thì tâm là chủ thể nhận thức và vật là đối tượng nhận thức. Nếu hai cái đó tách ra thì đó là nhận thức rất là sai lầm. Sai lầm vì sao? Theo Duy Thức Học thì Duy Thức có nghĩa là bao hàm cả chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức thì mới gọi là thức. Nếu có đối tượng mà không có chủ thể thì sao? Ai là người nhận thức? Và nếu có người nhận thức mà không có đối tượng thì như thế nào? Ví dụ đây là cuốn sách, thế thì tại sao biết nó là cuốn sách, tại sao? Vì có chủ thể nhận thức (à) thì mới biết đây là quyển sách; nếu không có chủ thể nhận sách mà chỉ có muôn vật trong vũ trụ này thì không có chủ thể nhận thức thì như thế nào? Thì biết vạn hữu vũ trụ là cái gì mà gọi là sông, là núi, là trăng, là sao, là biển, là hồ, là nhà, là cửa xe cộ. Cái gì biết được cái đó? Cái đó gọi là chủ thể, cái biết cái đó là chủ thể nhận thức. Ngược lại có chủ thể nhận thức mà không có đối tượng nhận thức thì chủ thể nhận thức nhận thức cái gì? Quý vị hiểu chưa? Hôm nay nắm vững cái này chưa? À! do đó mà nếu chủ thể nhận thức mà nó tách rời ra khỏi đối tượng nhận thức thì đó là điều sai lầm. Vì thế mà Duy thức học xác định rằng: Cái nhận thức là sự lãnh hội, là sự tư duy, là sự phân biệt nhưng thường thường với thế gian thường khuynh hướng rằng cái nhận thức đó tách rời ra khỏi đối tượng nhận thức; mà khi đã nhận thức như thế thì đó là sự (sai lầm). Nói tóm lại, Duy Thức Học cho cái sự nhận thức này nó bao hàm cho cả chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức thì mới gọi là Duy Thức được".

Ở trên, chúng ta đã đề cập đến 8 pháp Tâm Vương, trong đó Mạt Na Thức là Tâm Vương chi phối và điều khiển hầu hết mọi hành động từ "Thân, Khẩu, Ý" của chúng sinh. Những "tội lỗi" hay "những điều thiện" mà chúng sinh tạo ra đều có liên hệ đến Mạt Na Thức: Nếu Mạt Na Thức chú trọng đến cái Ta, để cái Ta được sung sướng, có danh vọng, có khoái lạc thì mọi hành động sẽ là "giành giựt, cướp bóc, dùng mọi thủ đoạn, chém giết, dối gạt"... để lấy cho được những gì mà "Cái Ta" cần đến. Những việc làm, hành động trong cuộc sống ấy đều được "biến" thành "nhân" bỏ vào trong "túi A Lại Da Thức" đợi chờ đến thời kỳ nẫy mầm; và chúng sinh ấy phải trả "quả" trong một kiếp nào đó! Còn nếu "Cái Ta" không được Mạt Na Thức xem là quan trọng lắm, mà Mạt Na Thức còn thấy "có người" thì Mạt Na Thức sinh tâm bố thí, giúp đỡ, nhường người... cuộc sống của chúng sinh ấy được "thiện hơn" và gây được nhiều "nhân thiện" tích chứa vào "túi A Lại Da Thức" để về sau hưởng được quả tốt. Một khi "nhân xấu" không còn hiện diện trong "túi A Lại Da Thức" thì chúng sinh ấy lập tức trở thành Phật, thành Giác Ngộ và thoát khỏi vòng luân hồi. "Túi A Lại Da Thứ"’ lúc này cũng bị phá vỡ ra, tâm viên dung khắp hư không, vô ngại: Đó là cảnh "Đại Viên Cảnh Trí" hay Niết bàn, Yêm Ma La Thức hoặc cõi Chơn Tâm... vậy! Do đó, người tu hành tức là những người "muốn chấm dứt nhân tương lai, không tạo nghiệp mới và được trả những nhân, nghiệp trong quá khứ" để họ chóng đạt được an vui, tự tại trong cõi Niết bàn!
-Đề cập đến phần nầy, Duy Thức nói đến 5 pháp Biến Hành khởi đầu khi chúng sinh bắt đầu có "căn" tiếp xúc với "trần" tức là: Mới đầu tiếp xúc với việc hay vật (xúc); rồi khởi ý (tác ý); Mạt Na Thức muốn lãnh thọ (thọ); nên thường tưởng nhớ (tưởng) và lo nghĩ, tìm cách tạo tác để chiếm hữu (tư).
-Tiếp theo là 5 pháp Biệt Cảnh: Dục (mong muốn); nhưng lại Thắng Giải (hiểu biết rõ ràng); rồi Niệm (nhớ); Định (không để tâm tán loạn); và Huệ (sáng tỏ, sáng suốt lựa chọn).
Có hai con đường lựa chọn để hành động: Theo "thiện" hoặc theo "ác".
-Tâm sở Thiện (11 pháp): Các tâm sở nầy hướng, kềm chế chúng sinh, con người khiến họ hành động theo con đường thiện, gồm có: Tín (Tin những gì chơn thật, nghiệp dụng làm cho tâm thanh tịnh); Tinh tấn (tinh chuyên và tinh tấn hơn nữa); Tàm (biết xấu hổ); Quí (biết thẹn với người); Vô tham (không tham lam); Vô sân (không sân hận); Vô si (không si mê); Khinh an (lòng nhẹ nhàng, thơ thới); Bất phóng dật (không buông lung, phóng túng); Hành xả (làm rồi không chấp trước) và Bất hại (không muốn làm tổn hại đến ai).
-Căn bản phiền não (6 pháp): Nếu Tâm sở Thiện làm cho con người chúng sinh hành động tốt, lòng thơ thới hân hoan thì bên cạnh đó tâm con người, chúng sinh còn có những tâm sở khiến chính mình phải bực bội, tức giận, phiền não và đi vào con đường ác, không thiện để phục vụ cho "cái Ngã Mạt Na Thức". Sáu pháp phiền não đó là: Tham (tính tham lam, ưa thích tài sắc, danh vọng, sung sướng); Sân (không đạt được thì giận ghét, nổi nóng); Si (sau đó thì mê muội, không biết đúng, phải trái); Mạn (đạt được thì sinh ra khinh mạn); Nghi (nghi ngờ) nhất là không đạt được thì nghi ngờ người nầy, người kia rồi sinh tâm có Ác kiến (thấy biết thuộc về tội ác, nhiễm ô. Ác kiến có: Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến thủ, và Giới cấm thủ).
-Đã vậy, ngoài 6 phiền não chính, còn có thêm 20 phiền não khác phụ theo "căn bản phiền não" ấy để làm cho con người, chúng sinh càng thêm phiền não. Thế cuộc đời mới có nhiều khổ hơn vui!
Hai mươi pháp đó gọi là Tùy phiền não.
Tùy Phiền Não gồm có:
a/ Tiểu tùy (10 pháp): Phẫn (giận); Hận (hờn); Phú (che giấu tội lỗi vì sợ mất danh giá hay lợi lộc); Não (buồn buồn, phiền muộn); Tật (Tật đố, ganh ghét những người thành công hay hơn mình); Xan (bỏn xẻn, keo kiết); Cuống (dối gạt người để lợi mình); Siễm (bợ đỡ, nịnh hót để đạt được ý muốn); Hại (Làm tổn hại đến người, loài khác); Kiêu (kiêu căng, phách lối).
b/ Trung tùy (2 pháp): Vô tàm (tự mình không biết xấu hổ); Vô quí (không biết thẹn với người).
c/ Đại tùy (8 pháp): Trạo cử (Lao chao, tâm chao động không yên tịnh); Hôn trầm (Mờ tối trầm trọng thiếu sáng suốt); Bất tín (không tin các pháp lành); Giãi đãi (biếng nhác, trễ nải không lo đoạn ác, tu thiện); Phóng dật (buông lung, phóng túng không thúc liễm thân tâm để đoạn ác tu thiện); Thất niệm (mất chánh niệm); Tán loạn (Rối loạn); Bất chánh tri (biết không chơn chánh).
-Trong 51 Tâm sở còn có 4 pháp Bất Định, tức là các pháp nầy không nhứt định thiện hay ác: Hối (ăn năn việc làm đã qua); Miên (ngủ); Tầm (tìm cầu); Tư (chính chắn xét).
Ngoài 11 Sắc Pháp, 8 Tâm Vương, 51 Tâm Sở ra Duy Thức còn có 24 pháp Bất Tương Hành Pháp cộng chung là 94 pháp của Pháp Hữu Vi (có sanh diệt, biến đổi) và 6 pháp thuộc Pháp Vô Vi (là những gì không tạo tác, không sanh diệt, không tăng giảm, vắng lặng thường còn) vị chi tất cả là 100 pháp. Tuy nhiên, chúng không nằm trong phần tìm hiểu của chúng ta, cho nên chúng tôi nghĩ không cần thiết phải ghi ra đây.
Đó là 100 pháp của "Triết lý Nhân sinh" Duy Thức Học (hay Tâm lý học của Phật giáo) để phân tích về con người, hoặc chúng sinh trên đường luân hồi hoặc những phiền não vui buồn trong cuộc sống. Sự phân tích cặn kẽ tâm lý con người từ những việc lớn như lòng tham, sân và si mê để tạo nên nghiệp, đến những chi li của tâm lý khi không thành công thì tâm lý bị rối loạn (tán loạn) hay trầm uất như hờn giận (phẫn, hận), buồn phiền (não), rồi lại sanh ra nhiều biến thái tính ý khác hoặc phải bệnh hoạn về tinh thần... Chính vì điều ấy mà Duy Thức Học đã được các nhà Phân Tâm Học chú trọng đến như là lý thuyết và thực dụng đã đi trước sự khám phá và thử nghiệm của họ cả trên hai ngàn năm.
Ngoài ra, Đạo Phật còn có "Thuyết Thập Nhị Nhân Duyên" khái quát hơn. Chúng ta cũng sẽ lược qua vậy.

II- Thuyết Thập Nhị Nhân Duyên:
Đức Phật từ lúc thành đạo đã có nhiều thời gian để suy niệm về Thập Nhị Nhân Duyên. Ngài đã suy niệm theo chiều xuôi: "Khi cái nầy (nguyên nhơn) có, thì cái nầy (kết quả) có. Với sự phát sanh của cái nầy (nhơn), cái nầy (quả) phát sanh".
Ngài thấy Vô Minh là khởi đầu cho Hành. Chính vì vô minh mà không hiểu được những lý, sự của pháp, của mọi sự việc mà đã đưa đến chọn hành động, tạo tác. Từ Hành sinh ra Thức; để rồi từ hiểu biết phân biệt đó mà mượn đến tứ đại tạo nên Danh Sắc. Có Danh Sắc thì có Lục Nhập tức 6 căn nhập vào để nhìn thấy, quán sát, tiếp cận với 6 trần. Có tiếp xúc (Xúc) thì mới cảm thọ (Thọ). Có thọ mới có thích (Ái). Thích mới muốn chiếm giữ (Thủ) để có được (Hữu). Từ đó mới có Sinh, có sinh ra thì có lớn lên rồi già (Lão), Bệnh, chết (Tử). Phiền não, Ta thán, Đau khổ, Âu sầu, và Thất vọng.

Cho nên, trong Kinh Kiến Chính, Đức Phật thuyết:

"Phật bảo:
-Này các đệ tử! Sanh tử cũng như thế đấy, thần thức là pháp khởi đầu tiên, mà sanh ra pháp ấy lại chính là Si nghĩa là vì ngu si sinh ra say đắm. Vậy Si cũng như hạt giống của cây kia, hạt nó tuy nhỏ nhưng có đủ sức thành được cây rất lớn.
Do gốc ở ngu si mà sanh ra không biết bao nhiêu nhân duyên. Vậy tất cả nhân duyên đều bởi Si (Vô minh), Vô Minh sinh ra Hành (khởi ra hành vi tạo tác), Hành sinh ra Thức (tính phân biệt hiểu biết), Thức sinh ra Danh Sắc (tên và hình, tức là Thân và Tâm), Danh Sắc sinh ra Lục Nhập (sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), Lục Nhập sinh ra Xúc (cảm xúc), Xúc sinh ra Thọ (nhận lấy như là hưởng thụ), Thọ sinh ra Ái (yêu mến say đắm), Ái sinh ra Thủ (giữ lấy), Thủ sinh ra Hữu (có), Hữu sinh ra Sinh, Sinh sinh ra Già, Bịnh, Chết. Hợp cả mười hai nhân duyên lại thành ra có thân này. Khi có thân này rồi lại phải có già, bịnh, chết. Thần thức biến chuyển đổi theo với hành nghiệp (tùy theo nghiệp thiện ác của mình mà đi tới chỗ: phưóc, tội). Bấy giờ lại có cha mẹ, lại mang hình thể khác, đổi cả sáu căn, đổi chỗ tập quen, chịu lấy mọi sự khổ vui. Tất cả phong tục cũng đều bị đổi, không còn có chi là như cũ nữa. Như thế là không còn trở lại và cũng không còn biết được các việc cũ nữa. Từ đấy theo ý kiến mới, nhận lấy chỗ mới cho là có thực, là thường còn mãi mãi, vướng mắc vào những cảnh vui, giả dối, hiện tại, nhận đấy là đúng thực, rồi cho là không có đời trước và đời sau nữa.
Có biết đâu: Đời trước và đời sau đều bởi thần thức biến chuyển dời đổi mà có; khi thần thức đã dời đổi đi thì lại có cha mẹ khác, lại mang lấy sắc thân mới, thay đổi cả sáu căn, cho chí phong tục tập quán khổ vui cũng đều thay đổi khác hết, tức khắc là không biết gì đến những việc đời khác nữa, và cũng không trở lại với sắc thân cũ nữa, cũng ví như cái cây ta trông thấy kia, không sao trở thành cái hạt được". (Trang 3-4, sách Kinh Vô Lượng Thọ...)

Và, Hòa Thượng Thích Thiện Hoa đã soạn thành bài để học, nghiên cứu trong Phật Học Phổ Thông khóa V (từ trang 390 đến 393) như sau:

"Con người do đâu mà có?
Để giải đáp vấn đề này, đạo Phật có thuyết "mười hai nhân duyên".
Trong mười hai nhân duyên ấy, vô minh là căn bản. Vô minh là gì? Tức là đối với sự lý, không rõ biết được đúng như thật. Do đó mà sanh ra mê lầm, thật cho là giả, giả cho là thật, điên đảo hư vọng chấp ngã, chấp pháp, phân biệt mình, người; rồi theo cảnh thuận nghịch mà khởi phiền não, nên cũng gọi là "hoặc". Từ mê hoặc mà tạo tác ra các nghiệp, hoặc thiện hoặc ác. Sự tạo tác ấy gọi là "Hành", chi thứ hai trong mười hai nhân duyên.
Do nghiệp lành dữ huân tập chứa nhóm thành ra "nghiệp thức". Nghiệp thức này theo chỗ huân tập thuần thục rồi thác sanh vào thai mẹ, đó là món "Thức", chi thứ ba trong mười hai nhân duyên.
Trong thai mẹ, gom tinh huyết làm nhục thể, tâm thức cùng nhục thể hòa hiệp gọi là "Danh sắc" đó là chi thứ tư trong mười hai nhân duyên, (Danh: Tâm thức; Sắc: Nhục thể).
Từ Danh sắc lần lần tượng đủ sáu căn, gọi là "Lục nhập". Đó là chi thứ năm trong mười hai nhân duyên.
Sau khi ra khỏi thai, sáu căn xúc đối sáu trần, biết nóng, lạnh, đau, êm v. v... nên gọi là "Xúc", chi thứ sáu trong mười hai nhân duyên.
Do sự xúc chạm ấy, mà tâm dần dần sanh niệm phân biệt rồi có những sự giác thọ vui, khổ v.v... Đó gọi là "Thọ", chi thứ bảy trong mười hai nhân duyên.
Do sự cảm thọ vui, khổ, khởi niệm ưa ghét, chấp đắm ấy mà sanh ra có "Ái", chi thứ tám trong mười hai nhân duyên.
Vì tham ái nên tìm cầu nắm lấy cái hay cái tốt, cái ưa thích. Đó là "Thủ", chi thứ chín trong mười hai nhân duyên.
Muốn cho thỏa mãn chỗ nhiễm trưóc, ưa thích của "Ái" và "Thủ", nên phải tạo nghiệp. Nghiệp này có thể chiêu cảm quả báo vị lai, nên gọi là "Hữu", chi thứ mười trong mười hai nhân duyên.
Đã có "Hữu" là cái mầm giống, thì thế nào cũng có "Sanh" là chi thứ mười một trong mười hai nhân duyên.
Đã có "Sanh" thì phải có "Lão và Tử" là chi thứ mười hai trong mười hai nhân duyên.
Trong mười hai nhân duyên, "Vô minh" thuộc về "hoặc" và "Hành" thuộc "nghiệp". Đó là nhơn quá khứ. Do nhân quá khứ ấy mà có năm quả "Khổ" hiện tại là: Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc và Thọ.
Do quả "Khổ" hiện tại nói trên mà khởi ra "Hoặc" là ái thủ và tạo "Nghiệp" là hữu, để làm nhơn cho quả "Khổ" sau là sanh và lão tử ở vị lai.
Như thế, từ nhơn quá khứ, sanh quả hiện tại, và quả hiện tại, lại làm nhơn cho quả tương lai, ba đời cứ nối tiếp xoay vần mãi không dứt, như một bánh xe xoay tròn, lên xuống, xuống lên không dừng nghỉ.
Cứ đó mà suy ra thì biết rằng, người chẳng sống một đời trong hiện tại này, mà trước kia, về quá khứ đã trải qua không biết bao nhiêu đời sống rồi. Và sau nầy, trong vị lai, cũng sẽ còn vô lượng đời sống nữa. Người hiện sống đây để rồi chết, mà cái chết lại là cái nhơn làm thành đời sống vị lai.
Như thế, sống, chết nối tiếp theo nhau không bao giờ dứt, như những làn sóng, cái này tan đi để hiệp lại một cái khác, không bao giờ hết, nếu còn gió. Còn người, nếu gió vô minh còn thổi, thì dòng sanh mạng còn lưu chuyển, lăn trôi, chìm nổi mãi".

Không những Đức Phật đã suy niệm theo chiều xuôi mà Đức Phật còn suy niệm theo chiều ngược lại: "Khi nguyên nhơn nầy không còn thì quả nầy cũng không còn. Với sự chấm dứt của nhơn nầy, quả nầy cũng chấm dứt".
Do đó, Vô minh chấm dứt thì Hành cũng chấm dứt. Hành chấm dứt thì Thức chấm dứt. Thức chấm dứt thì Danh Sắc chấm dứt. Danh Sắc chấm dứt thì Lục Nhập chấm dứt. Lục Nhập chấm dứt thì Xúc chấm dứt. Cũng thế, lần lượt Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Bệnh Tử, Phiền não, Ta thán, Đau khổ, Âu sầu, Thất vọng đều chấm dứt.

III- Duyên Khởi:
Thập Nhị Nhân Duyên là khởi đầu cho thuyết Duyên Khởi: Chính vì Vô minh mà đã khởi động cho Hành, có Hành mới sinh ra Thức và tiếp theo là một chuỗi các sự kiện khác, những cái sinh ra sau là kết quả của cái hoặc sự kiện có trước, và chúng lại là nhân duyên cho những cái, sự kiện sinh ra sau nữa,... Các sự kiện cứ tiếp nối như thế cho đến vô cùng tận nên được gọi là "trùng trùng duyên khởi".
Trong kiếp nhân sinh, con người không tránh được những duyên khởi đó. Nếu tính khởi đầu chỉ vì Vô minh mà chúng sinh lẫn con người đã "chuyển động" để rời cõi Phật (cõi Chơn Tâm) với "vọng tâm và tâm phân biệt" cho cá nhân mình, cho nên đã mượn tứ đại, kiến đại, hư không tạo thành thân xác làm nơi cho "Tâm" mình trú ngụ trong đó. Từ đó, tâm bị kiềm chế trong trong thân xác ấy nên nó không còn có tính "tự sáng suốt, chiếu soi" (Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu); và rồi nó bị lôi cuốn theo dòng "sự kiện tương tục" của cuộc đời tạo nên bao "nghiệp chướng" và phải chịu luân hồi để trả "quả" những gì đã gây ra trong quá khứ hay hiện kiếp.

IV- Nghiệp Và Luân Hồi:
Mỗi cá nhân, chúng sinh giờ đã trở thành riêng biệt, chỉ nhận thức được qua hình thể cùng các giác quan của mình, cũng từ đó mới phân biệt tốt xấu, thiện ác, sang hèn, giàu nghèo, đói no, ngon dở.... Để cung phụng cho thân xác của mình tồn tại, con người, chúng sinh phải kiếm thức ăn nuôi sống thân mạng, muốn ăn ngon họ phải làm việc nhiều hơn nữa. Để chống với thời tiết lạnh lẽo bên ngoài người ta cần đến nhu cầu che thân; muốn đẹp, ấm hơn thì phải lao động càng cật lực.... Nhu cầu càng nhiều, càng cao thì sự làm việc cần phải năng nỗ hơn. Đó là chưa nói đến sự ham muốn "hơn người" hoặc "đầy đủ" hơn, người ta đã không nghĩ đến thiện ác mà sinh tâm lường gạt, dối trá, giành giật, đâm chém, cướp bóc không từ nan đến chuyện giết người để chiếm đoạt cho được điều mình muốn, gây nên những tội lỗi và điều ác, tức là đi đến chỗ mà Đức Phật gọi là "sát, đạo, dâm, vọng" bằng các hành động từ thân làm, miệng nói, ý nghĩ khởi sinh (thân, khẩu, ý).
Bây giờ, do nơi "Tâm phân biệt" mà cái "Ta" trở nên quan trọng. Mọi hoạt động, việc làm, ý nghĩ gần như là để phục vụ cho cái "Ta" thân xác và cái Ta tinh thần, không từ nan bất cứ một thủ đoạn nào để cái Ta ngoi lên hoặc tiến lên hàng đầu, do vậy mà "ân oán giang hồ" đã gieo tới cho nhiều người, chúng sinh khác. Vô hình chung, con người, chúng sinh đã tạo cõi trần gian trở thành một chiến trường tranh đấu! Có vay nợ thì tất người, chúng sinh khác sẽ đòi; đã vay thì tất có trả, đã gây nhân ác và đem nhân đó "bỏ" vào trong "túi A Lại Da Thức" thì có ngày nó phải nẫy mầm lên để thành quả. Hay nói một cách khác là chúng sinh ấy đã tạo nên "nghiệp"! Khi chết đi, con người, chúng sinh không đem theo được gì cả ngoài "nghiệp" ra. Chính vì thế, các nhân "nghiệp" ấy lôi kéo "Tâm thức" của chúng sinh vào giai đoạn "tái sinh" (có kiếp sau) để trả quả, tức vào giai đoạn "Luân Hồi" bằng "oan oan tương báo" mà trong "Thập Nhị Nhân Duyên" được bắt đầu từ "Thức Tái sinh" và tiếp theo là Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu....
Đức Phật có chỉ rõ: Tùy theo những nhân xấu tốt nhiều hay ít mà chúng sinh đi vào cõi nào trong 6 nẽo của vòng luân hồi: Trời, Người, A-Tu-La, Súc sinh, Ngạ Quỷ, hay Địa Ngục. Và cũng do nhân tốt, xấu trong giai đoạn tái sinh ấy nhiều hay ít mà con người trong cõi người có "thân xác, tinh thần, hoàn cảnh" như thế nào: Xấu, đẹp hay tàn tật, nghèo hèn hay sang trọng, khốn khổ hay sung sướng, thông minh hay ngu đần ... v.v và v.v...!
Những điều giải thích và chứng minh này cho mỗi con người trong hoàn cảnh riêng biệt của họ "có vẻ" đầy tính chất khoa học, lý trí hơn là trong dân gian người ta hay nói là "Trời ban" hay "Trời đày". Tuy nhiên, ý "trời ban, trời đày" vẫn còn hay, hợp lý hơn là do "Đấng toàn năng, toàn thiện" nào đó ban cho; như vậy chẳng quá ra "Đấng Tối Cao" ấy chỉ là tạo con người để hành hạ con người mà chơi chứ chẳng là "toàn thiện, toàn năng" bao giờ!

V- Khổ Đế:
Nhiều người nghiên cứu về Đạo Phật hoặc do nhận định lầm lẫn, hoặc có nhiều nhà ngoại đạo không hiểu được cặn kẽ, cho rằng Đạo Phật chủ trương bi quan hay nhìn cuộc đời bằng sự khổ. Thực ra không là như thế! Thế giới nhân gian tự nó là khổ, không phải đến lúc Đức Phật nói khổ thì cuộc đời mới khổ. Như đã trình bày ở trên, trong cuộc sống nhân gian là một trường tranh đấu đầy những giành giựt, lừa đảo, chém giết cũng bởi muốn cái gì cũng cho "Ta": Ta cần được sung sướng, Ta phải hơn người, Ta phải được mọi người tôn vinh, cung phụng, Ta phải thống lĩnh, cai trị nhiều người... Ngay cả tư tưởng của những người lãnh đạo tôn giáo của nhiều tôn giáo khác cũng thế, chứ không riêng gì người thường. Cho nên, trong cuộc sống đưa đến những hành động "sát, đạo, dâm, vọng" từ "thân, khẩu, ý" không thể tránh khỏi. Cho nên cuộc nhân gian đã phải chịu đựng nhiều đau khổ từ thiên nhiên như: Nóng lạnh, bệnh tật, thú dữ, thiên tai... Lại phải chịu thêm những cái khổ do đồng loại đưa đến như: Chiến tranh, mạnh ăn hiếp yếu, lừa đảo, cướp bóc, bắt làm nô lệ... Ngay như trong cuộc đời con người cũng đã là khổ! Nếu không vì thấy cái khổ của già, bệnh, chết thì chắc Thái tử Siddartha cũng chưa chiêm nghiệm để mà bỏ hoàng cung đi tìm đạo trong hơn 6 năm ròng rã. Đức Phật sau khi thành đạo đã tìm thấy chân lý của thế gian: Thế gian này vốn khổ do chính con người và môi trường chung quanh tạo nên, và ngay trong cả con người lẫn những sinh vật cùng cộng hưỡng trong cùng thế giới. Và Ngài mới nói về điều đó cho mọi người biết như là một Chân lý.
Ngài cũng phân tích các sự khổ một cách cặn kẽ: Khổ từ sinh, lão, bệnh, tử. Khổ cũng đến từ tiếp nối nhau (khổ khổ); hay hoại diệt (hoại khổ); thúc đẩy phải làm dù bằng sức lực hay ý nghĩ (hành khổ); thích mà không được, phải xa rời (Ái biệt ly khổ); mơ ước, mong muốn mà không được (cầu bất đắc khổ); không thích, không ưa mà cứ mãi gặp (Oán tắng hội khổ) và những đau khổ do năm ấm đem lại (Ngũ ấm xí thạnh khổ).

VI- Tập Đế:
Người ta chỉ thấy, chú trọng cái mà Đức Phật nói lên, chỉ ra, mà người ta không để ý đến những điều mà Đức Phật sẽ phân tích trong phần Tập Đế và những Chân Lý khác tiếp theo trong phần Tứ Đế (Diệt Đế và Đạo Đế).
Sau khi nói lên một điều ‘Khổ’ hiển nhiên trong cuộc sống thế gian mà con người và những chúng sinh phải nhận lãnh, không thể tránh khỏi ấy, Đức Phật lại còn phân tích kỹ càng hơn các nỗi khổ đó từ đâu mà ra và do đâu mà có.
Vì muốn phục vụ, lo lắng cho "Cái ngã" của Ta được no ấm, sung sướng, thành công, giàu sang phú quý, hơn người khác hoặc đạt được ý nguyện... mà người ta không từ nan mọi thủ đoạn để đạt được nên đã đem khổ đến cho mình và cho người khác chỉ vì muốn "Thủ", "Hữu" cái mà mình "Ái, Dục". Lòng "Tham" lại càng gia tăng theo những thành công và thời gian nên nghiệp cũng từ đó mà lớn thêm.
Nếu vì nguyên nhân nào đó họ không đạt thành công, hoặc thất bại họ trở nên sân giận, thù hằn oán ghét. Để rồi đến một lúc si mê, họ không còn tỉnh táo mà trở nên hành động tội ác nhằm thỏa mãn căm tức của họ. Họ đã đem nhân xấu bỏ vào trong túi chứa A Lại Da Thức của họ, để một mai trong kiếp này hay kiếp sau hoặc những kiếp sau họ sẽ nhận lấy quả của nó. Lại thêm một kiếp nữa phải Luân Hồi.
Tham, Sân, Si này góp phần rất nhiều vào sự Luân Hồi của chúng sinh, cho nên Đức Phật gọi chúng là "Ba món độc". Tuy nhiên, trong Duy Thức còn có ba tâm sở thiện có thể kềm chế chúng lại là "vô tham, vô sân, vô si", nhất là "Tàm và Quý" (biết xấu hổ và thẹn, mắc cỡ) cũng hạn chế tội lỗi của con người lại cũng khá nhiều! Thế vẫn còn tốt hơn!
Ngoài ra, Đức Phật còn chỉ rõ thêm các phần khác cũng là những nguyên nhân làm cho con người đau khổ như: Mạn, Nghi, Ác kiến.
Như vậy, trong quá trình Đức Phật tìm ra Chân Lý thì phần Khổ Đế là những cái khổ mà chúng sinh tất nhiên nhận lãnh, dù bất cứ ai, dù cho là giáo chủ hay hoàng đế hoặc một người nghèo khổ, cùng đinh hiện diện trong thế gian cũng đều được sinh ra, lớn lên, già và chết. Không một ai không tránh khỏi! Như vậy Chân Lý ấy không thể xem đó là quan niệm của Đức Phật hay là Đạo Phật được. Cho nên những ai vin vào đó xem như là Đạo Phật chủ trương "Khổ" thì quả là "Quá thiển cận" và không hiểu gì về Đạo Phật cả!
Đức Phật phân tích nguyên nhân sự khổ là do từ đâu? Điều mà chúng ta có thể nhận xét là "ưu việt hay không" chính là chỗ những nguyên nhân ấy có chính xác hay không mà thôi! Nếu hoàn toàn chính xác thì đó là Chân Lý mà Đức Phật đã tìm được với trí tuệ của mình. Nương vào hai Chân Lý hiển nhiên ấy, Đức Phật mới hướng dẫn con người, chúng sinh vào hai Chân Lý sau là Diệt Đế và Đạo Đế. Đó là hai Chân Lý mới đích thực là do Đức Phật tìm thấy nhằm chấm dứt sự khổ cho chúng sinh, con người thì Đạo Phật không phải là Đạo bi quan, chủ trương cuộc đời là khổ, mà chính cuộc đời là khổ trong tự thân của nó! Cho nên ở đây, chúng tôi không đặt Khổ Đế và Tập Đế vào trong phần II của Xuất Thế Gian là vì vậy! Vì phần II là phần bàn về: "Con đường giải thoát".

VII- Con Người Là Chủ Thể Của Giải Thoát:
Đạo Phật thành hình từ sau khi Thái tử Siddartha đi tìm đạo và đạt được đạo; và Ngài truyền bá giáo pháp đó trong nhân gian hơn 45 năm đi hành đạo. Tuy nhiên, Ngài vẫn phủ nhận giáo pháp đó là của Ngài. Ngài chỉ là một "Đạo Sư"! Trong kinh điển Ngài cho biết giáo pháp đó là con đường tự nhiên mà bất cứ một người nào tu hành theo con đường đó cũng đều được giải thoát như Ngài, vì con đường ấy không phải đến Ngài mới có mà trước đó không biết bao giờ, nhiều vị Phật trong quá khứ đã hành trì và cũng đạt được đạo và thành Phật tự lâu lắm rồi, cho nên Ngài chỉ là một đạo sư chỉ lại cho con người, chúng sinh đi sau hãy nương theo con dường ấy mà tự giải thoát lấy mình, vì con đường ấy cũng chính là con đường mà các Đức Phật trong tương lai phải trải qua. Điều ấy được thể hiện qua câu chuyện mà Quảng Hiền đã ghi lại trong bài viết của mình như sau:

Một thưở nọ, tại Kỳ Viên Tịnh Xá của trưởng lão Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ. Trong thời gian cư trú ở đây, Đức Phật thuyết pháp cho đại chúng vào lúc bốn giờ chiều mỗi ngày. Có một chàng thanh niên mỗi chiều đều đến đây để nghe chánh pháp.
Sau một thời gian, chàng có một thắc mắc muốn hỏi Đức Phật nên một buổi chiều nọ, người thanh niên quyết định đến Kỳ Viên Tịnh Xá trước giờ thuyết pháp để có thể gặp riêng Đức Phật và nêu thắc mắc của mình.
Người thanh niên đỉnh lễ Đức Phật và nói: “Bạch Đức Thế Tôn, con có điều hoài nghi, thắc mắc, mong Đức Thế Tôn mở lòng từ bi giảng giải cho con được rõ.”
“Bạch Đức Thế Tôn, từ khi Ngài đến thành Savathi này để thuyết pháp độ sanh, trong số những người đến nghe pháp, có một số người đã chứng đắc đạo quả giải thoát, một số người khác tuy chưa chứng đắc được đạo quả giải thoát, nhưng gia đình họ trong sinh hoạt hàng ngày đã được sự an vui , một số người còn lại không những chưa chứng đắc được đạo quả giải thoát mà vẫn còn ở trong phiền não, khổ đau và trong số những người đó có con! Bạch Đức Thế Tôn, do nhân chi, xin Ngài mở lòng từ bi giảng giải cho chúng con được rõ.”
Đức Phật hỏi, “Này người thanh niên, ngươi chớ nên hoài nghi chánh pháp của Như Lai. Ngươi từ đâu đến?”
- “Dạ, con là người của Savathi này.”
Đức Phật lại hỏi, “Như Lai trông ngươi không phải là người của Savathi này, vậy ngươi từ đâu đến?”
- “Bạch Đức Thế Tôn, con là người của Vương Xá Thành, con đến Savathi này để lập nghiệp, con sống bằng nghề buôn bán.”
Đức Phật hỏi tiếp, “Này người thanh niên, tổ phụ của ngươi có còn ở Vương Xá thành không?”
- “Dạ còn.”
- “Người có thường tới lui thăm tổ phụ hay không?”
- "Dạ có.”
Đức Phật hỏi, “Vậy người có biết con đường đi từ đây đến nhà tổ phụ ngươi ở Vương Xá thành không?”
- “Bạch Đức Thế Tôn, con biết.”
- "Nếu như có một người ở Savathi này muốn đến nhà tổ phụ ngươi ở Vương Xá thành, liệu người có thể chỉ đường cho họ hay hướng dẩn cho họ đi hay không?”
- “Dạ được. Ở đây mà muốn về Vương Xá thành thì phải đi qua thành Ba La Nại, khi đến đó thì rẽ trái đi về hướng cây đa, từ đây bắt đầu đi về hướng Vương Xá thành, nhà tổ phụ con ở cách Vương Xá thành vài dặm, muốn đi thì con chỉ cho mà đi. ”
Đức Phật hỏi tiếp, “Này người thanh niên, nếu ngươi biết đường chỉ cho họ mà họ không đi thì họ có tới được nhà tổ phụ ngươi hay không?”
Người thanh niên nhìn Đức Phật, tỏ vẻ ngạc nhiên và hỏi lại, “Bạch Đức Thế Tôn, sao lạ vậy, con biết đường chỉ cho họ nhưng mà họ phải tự đi thì mới tới được, chứ không đi thì làm sao tới, con đâu có cầm tay ai mà dắt đi được đâu?”
Đức Phật trả lời: “Này người thanh niên, giáo pháp của Như Lai cũng như vậy. Con đường đi đến Niết Bàn, Như Lai đã từng đi qua, đi lại, đi tới, đi lui, Như Lai biết và chỉ cho chúng sinh, nhưng muốn đến thì chúng sinh phải tự đi, Như Lai là bậc toàn tri, toàn giác chứ không toàn năng nên Như Lai không thể đưa một người đến nơi mà họ muốn tới, nhưng họ lại không muốn tự đi.
Cũng tương tự như vậy, nếu ngươi muốn gia đình của mình được an vui thì hãy áp dụng lời dạy của Như Lai vào trong cuộc sống hàng ngày chứ Như Lai không thể ban hạnh phúc, an vui cho bất kỳ một ai được .”

Bởi thế mà Đức Phật đã kêu gọi: "Hãy tự thấp đuốc lên mà đi!".
Ngài còn cho biết trong tất cả mọi loài chúng sinh trong sáu cõi Luân Hồi của Tam giới chỉ có con người nơi thế giới Ta Bà mới tu và đạt được đạo mà thôi; mặc dù trong cuộc đời này có nhiều khổ hơn là vui. Và Ngài đã nói đến "Bát nạn" mà trong Từ Điển Phật Học Hán Việt do Phân Viện Nghiên Cứu Phật Học của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã trích từ Kinh điển và ghi như sau:

Bát Nạn: Tám chỗ khó khăn chướng nạn. Chỉ tám thứ khó khăn trở ngại cho việc thấy Phật nghe Pháp. Kinh Duy Ma, phẩm Phương Tiện, Thiên Thai sớ, q.3: "Nói tám nạn thì thứ nhất là Địa ngục, Thứ hai là Ngã Quỉ; Thứ ba là Súc sinh; Thứ tư là Bắc-Uất-Đan-Việt, tức là người ở châu Bắc-Câu-Lư sống sung sướng, nên không ham tu học. Thứ năm là Trường Thọ Thiên; người ở đây không có tâm tưởng nên không tu học được. Thứ sáu là đui điếc câm ngọng. Thứ bảy là Thế Trí Biện Thông, cậy mình thông biện, theo đòi thế sự nên không tu học. Thứ tám là sinh vào thời trước Phật, sau Phật".

Xem như thế, chúng ta được làm con người, mà là con người ở cõi Ta Bà như hiện nay thì chúng ta rất là may mắn và có nhiều phước báu trong thời quá khứ: Vì chúng ta không bị đọa trong Địa Ngục; cũng chẳng bị làm chúng sinh trong loài Súc Sinh hay ở cõi Ngạ Quỷ. Ngoài ba nạn đó ra, chúng ta cũng không là chúng sinh ở châu Bắc-Uất-Đơn-Việt hay Trường-thọ-Thiên. Được làm con người nhưng chúng ta lành lặn, không bị câm, ngọng, đui, điếc cũng là quý lắm rồi; mà chúng ta cũng không phải là người tài giỏi, ỷ vào sức mình mà không hề để tâm đến Phật pháp. Chúng ta chỉ còn có một nạn thôi, mà nạn đó cũng không tròn vì chúng ta không là người sinh ra trước Phật. Mặc dù sinh sau Phật, ta vẫn có Phật pháp của Phật để lại mà học hỏi, nghiên cứu và hành trì. Chúng ta hiện đang có nhiều lợi thế để tiến tu mà vượt ra cửa ngõ của Luân Hồi. Một cơ hội ngàn năm một thuở! Cứ nghĩ rằng chúng ta trong lúc làm con người như thế này, chúng ta thỏa mãn với hiện tại mà không lo hành thiện, hoặc thích làm ác thì liệu kiếp sau chúng ta có thể làm người nữa hay không? Hay đến khi đó thì cả ngàn kiếp sau mới được quay trở lại làm người nơi cõi Ta Bà như hiện nay. Điều ấy khiến cho chúng ta cũng nên suy ngẫm để mà sống cho tương xứng với kiếp con người, dù không là năng nỗ trong trình tự tiến tu nhưng chúng ta cũng đừng nên bỏ qua một cơ hội tiến vào bờ mà Đức Phật gọi là "Bờ Giác", lên bờ để tìm lại căn nhà xưa yêu dấu mà chúng ta đã ra đi không biết tự bao giờ để hoàn tất một cơ hội ngàn năm!

Nguyên-Thảo,
15-07-09.