Thursday, August 17, 2017

*Đường Đến Băng Hà. (3)



Hôm nay là ngày đầu tiên chúng tôi khởi hành đi “Băng hà”, lòng tôi có nhiều háo hức và lâng lâng niềm vui, vì từ nhỏ cho đến bây giờ mình chưa bao giờ được tiếp xúc với băng hà, có chăng là qua phim ảnh đã được coi trên truyền hình, hay ở phim tài liệu hoặc sách vở. Những kiến thức trong các môn học vạn vật hay địa lý ở trường lại hiện về: “Băng hà” là tiếng Hán Việt để chỉ cho “dòng sông băng” mà chúng được kết tụ từ trong thung lũng ở trên núi cao do tuyết nén nhau tạo thành “băng” (nước đá), mỗi năm càng nhiều, rồi với trọng lực chúng theo đường hẽm núi mà di chuyển dần về phía dưới thấp với vận tốc rất chậm, mũi nhọn đi đầu được gọi là “lưỡi băng hà”; để rồi đến ngày nào đó “lưỡi băng hà” di chuyển đến nơi mà nhiệt độ cao khiến chúng tan chảy thành nưóc tạo thành những dòng đi ra sông biển vùng đó gọi là “vùng băng tan” để những đá sỏi nặng hơn mà chúng đã bào mòn, lôi cuốn trên đường đi nằm lại ở đó thành những bãi đá sỏi.
Chúng tôi được báo thức từ lúc 6 giờ sáng, nhưng tôi và anh Thới đã dậy sớm hơn cùng nhau uống cà phê tán gẫu, rồi đi ăn sáng ở phòng ăn của khách sạn. Đến 7 giờ 40 thì đem hành lý xuống để tài xế chất lên xe và đúng 8 giờ thì khởi hành.
Theo sơ đồ đường đi mà công ty du lịch cung cấp: Hôm nay chúng tôi sẽ rời Vancouver đi theo đường Quốc lộ 1 để sang Golden. Điều nầy Vincent có thuyết minh cho chúng tôi cả nửa tiếng đồng hồ trên xe. Nhưng với trình độ tiếng Anh “bấp bõm” mà tôi không thể hiểu được nhiều! Vincent là người đã có nhiều kinh nghiệm trong việc hướng dẫn du lịch, nên ông ta biết pha trò khiến mọi người cười thoải mái trên các khoảng đường xa. Lần đi nầy, do tập họp được nhiều nhóm người từ các tiểu bang, mà qua đó đoàn chúng tôi mới thấy tiếng Anh của đoàn mình không khá lắm, ngoại trừ anh Hiệp vì anh làm nghề Thông dịch trong nhiều năm, nên chúng tôi thường dựa vào anh ở nhiều phương diện. Còn các đoàn khác đa số thì họ trẻ và được kinh qua trường học, hoặc những người dù già nhưng đã có vốn tiếng Anh giỏi từ trước.
Tôi chỉ hiểu loáng thoáng về câu chuyện cá “Salmon” mà Vincent đã kể trên đoạn đưòng nầy, ông kể cuộc sống và sự sinh sản của cá “Hồi”, thật là ông đã đọc tài liệu rất nhiều khiến tôi cũng học được chút ít. Cá Hồi là loại được sinh sản từ trên vùng núi cao, nước cạn. Khi đẻ xong cá mẹ lại phải chết và cá con nở ra sống trong vùng nước ngọt, rồi theo dần dòng nước đi vào sông, lúc đó người ta chỉ gọi là “Trout”. Ra đến cửa biển chúng sống ở đó cả năm để làm quen với nước biển. Sau đó thì ra đại dương vùng vẫy đến những vùng thật xa của đại dương, có khi xa đến cả mấy ngàn cây số. Lúc ở đại dương người ta gọi chúng là “Salmon”.
Vincent kể đến đây thì xe đã đến Hope là một thị trấn nằm ở phía đông của Vancouver, cách khoảng 154 cây số, ở đây là hợp lưu của hai con sông Fraser và Coquihalla. Xe vào bến để chúng tôi xuống nghỉ ngơi và đi vệ sinh. Tôi cùng mọi người đánh một vòng quanh đó và thu được vài hình ảnh của Hope. Ở đây có nhiều trụ được gọi là Totem Poles đặt ở nhiều nơi để trang điểm cho đường phố cùng đánh dấu cái lịch sử của nó qua thời gian. Hope được xây dựng gần sông và núi nên có vẻ nên thơ, khí trời vào Xuân hãy còn lành lạnh đối với chúng tôi, nhưng vào mùa Đông chắc là buồn lắm. Tôi đi vào vườn Nhật và ở đây tôi thử “selfie” để xem thế nào.
Nghỉ nửa tiếng, rồi chúng tôi lại lên xe tiếp tục cuộc hành trình vào lúc 10 giờ 15 trên con đường mang số 5, chứ không phải số 1 nữa. Sau vài câu chuyện vui vui, Vincent lại tiếp tục chuyện cá hồi và xe đang trên đường số 5 để hướng về Kamloops.
Cá hồi lại vượt biển về lại cửa sông mà nó đã đi ra để làm quen với nước lợ, cũng cả năm trời; rồi lại vượt nước đi về nguồn nơi mà nó xuất phát, để rồi đẻ trứng và lại chết. Vincent kể chi tiết khá nhiều như là ông đã đọc, nghiên cứu tài liệu về cá hồi nhằm chia sẻ kiến thức với những người đi tour du lịch như chúng tôi. Nhưng cũng chính vì vậy mà chúng tôi không cảm thấy mệt mỏi trên những đoạn đường dài hay những đoạn đường nguy hiểm vì chúng tôi mãi mê theo dõi điều ông kể, đồng thời lại được hiểu biết thêm đôi điều. Đôi khi ông chỉ theo cái hướng của đồng hồ để ông giải thích ngọn núi, vùng gì đó mà mọi người cần nên biết như: 9 giờ là phía tay trái của chúng tôi, 3 giờ là phía tay phải, 11 giờ là phía tay trái xéo về phía trước chẳng hạn. Sau chuyện kể về cá hồi ông lại chiếu phim về đời sống của cá để chúng tôi theo dõi nhằm bổ sung kiến thức. Tại sao ông lại nói về cuộc sống của cá hồi? Vì Canada có hai biểu tượng mà đi đâu cũng thấy là “Gấu” bắt “Cá hồi” để ăn, ngoài “chiếc lá” của cây phong (maple) trên lá cờ của xứ ấy.
Trên đoạn đường nầy chúng tôi đã thấy có nhiều đỉnh núi có tuyết phủ cùng những vùng tuyết tuột xuống theo những eo hẹp của sườn núi mà người ta gọi là “avalanche”. Màu xanh của núi rừng, màu trắng của tuyết làm tương phản màu sắc của thiên nhiên và cảnh đầu núi đầy tuyết trắng cùng vách đá màu đen sẫm vươn lên nền trời xanh với những áng mây làm nên cảnh đẹp mà tranh ảnh đã thể hiện rất nhiều ở những nơi xứ lạnh. Đến đây rồi tôi mới cảm nhận được cái đẹp của nó!
Cảnh rừng, núi, tuyết, bầu trời, mây.

Ngồi trong xe mà tôi cứ ráng quay máy về những hướng ấy để thu lấy hình ảnh, nhiều người không hiểu tôi thu lấy để làm gì, có người gọi đùa tôi là phóng viên. Nhưng tôi đã thú thật với các bạn rồi: “Tôi thích quay các cảnh trên đường đi hơn”! Vì thế trong nhiều chuyến đi trước kia tôi cứ mãi mê cảnh bên ngoài, dọc đường; nên khi đến các di tích, hay cung điện chính thì máy đã hết “pin”. Từ đó tôi phải học lấy kinh nghiệm nên thường sau nầy tôi phải lo “đạn dược” đầy đủ cho dư chứ không thể thiếu. Có một lần tôi đi vòng đảo Đài Loan quay thật nhiều, nhưng khi về Hoa Liên thì máy bị hư hoàn toàn, thế nên trong chuyến ấy tôi bị mất hầu hết, chỉ trừ một số hình ảnh còn lại trong máy chụp hình! Thật là uổng công toi!
Cảnh núi tuyết hấp dẫn thật! Tuyết rơi đầy trong rừng thông, không biết đây là loại thông, tùng hay bách, nhưng dáng nhọn và cao thẳng lên, mà theo kiểu nầy, tuổi chúng chắc thật là cao, vì ở xứ lạnh có tuyết tất nhiên mỗi năm chúng chẳng lớn và được cao là bao nhiêu, nên với tầm cỡ như vậy chúng có thể lên đến hàng những trăm năm. Tôi cố nhìn thẳng vào trong rừng vẫn thấy tuyết đầy trên mặt đất, nhưng ngộ một điều là ở tại gốc nó không có tuyết, không biết là do tàng lá che chắn mà tuyết không đến được hay là trong gốc ấm hơn nên tuyết đã tan, ngay cả những cây nhỏ cũng vậy. Nơi nầy không xa với Hope, chỉ hơn độ nửa giờ xe chạy, chắc nơi đây là vùng Coquihalla Summit Recreation chăng?
Qua đoạn đường đó thì không còn thấy núi có tuyết nữa và có nhiều khoảng đồng bằng trống, tuy nhiên sự trồng trọt, canh tác không có nhiều. Đến khoảng 12 giờ 10, xe chúng tôi đến một thị trấn tương đối đông đúc, phồn thịnh nằm ở trong thung lũng kia. Vincent cho biết đó là Thành phố Kemloops là nơi hợp lưu của hai sông Nam, Bắc Thompson. Ở đây chúng tôi sẽ ghé thăm nơi bán và trồng sâm. Tức là một “farm” sâm!
Kamloops cách Vancouver vào khoảng 354 km đường xe chạy, có số dân hơn 90,000 người, là một Thành phố lớn với diện tích gần 300 km2. Chúng tôi băng qua thành phố và đến văn phòng của nhà máy chế biến sâm: “Ginseng Farm” để tham quan. Ở đây mọi người được cho uống thử nửa ly trà sâm, và được hướng dẫn đi đến những container đang sấy sâm cho khô, rồi sau đó mới vào trong “shed” để các người có trách nhiệm thuyết về cách trồng trọt, thời gian và thu hoạch sâm qua các bức tranh giới thiệu treo trên tường. Cuối cùng thì đi vào nơi bán để ai muốn mua thì mua từ kẹo sâm, râu, bột cho đến những củ sâm đắt tiền. Mua về để làm quà hay làm tốt cho sức khoẻ của người già. Một điều khiến tôi nghĩ đây là một công ty của người Trung Quốc hoặc sáng lập, hoặc họ mua lại vì toàn bộ nhân viên đều nói tiếng phổ thông Trung Quốc. Từ giã farm sâm chúng tôi lên xe đi ăn trưa ở một nhà hàng Tàu.
Sang đến 2 giờ 10 chúng tôi lại lên xe tiếp tục cuộc hành trình. Đường đi bây giờ không là đường số 5 nữa mà là đường 1 tức là nối trở lại đường Trans-Canada Highway để đi qua Salmon Arm  chạy dọc theo bìa hồ Shuswap rồi qua Sicamous để đến Craigellachie, mà nơi đó có một đài tưởng niệm 100 năm ngày đóng cây đinh cuối cùng cho việc hoàn thành đường rầy xe lửa xuyên Canada vào ngày 7 tháng 12 năm 1885. Ở đây có gian hàng bán đồ lưu niệm cùng với địa điểm, dấu hiệu hướng dẫn cây đinh đường rầy cuối cùng để cho du khách biết, và cây đinh đó được đóng xuống do nhà tài chánh của dự án đường rầy là Donald Alexander Smith qua hình ảnh còn lưu lại. Và chúng tôi vừa tham quan vừa nghỉ ngơi, vừa tránh cơn mưa nhỏ ở đây cho đến 4 giờ 45 thì lại lên xe buýt để lên đường tiếp tục.
Xe chạy dọc theo bờ hồ Three Valley. Cuối bờ hồ có một “Chateau” rộng lớn mái đỏ chót mà Vincent giới thiệu đó là một cái khách sạn lớn với 200 phòng ngủ. Rồi xe lại băng qua thành phố Revelstoke đi vào những khu rừng núi, lúc đó đã quá 5 giờ. Đến chừng 6 giờ đoàn chúng tôi đã đến nơi len giữa hai dãy núi mà Vincent cho biết đó là Roger’s Pass. Hai bên dãy núi nhiều núi cao và phủ tuyết khá nhiều. có những nơi tuyết đổ xuống cùng với đất trông rất dơ, có nơi lan ra tới ngoài đường.
Núi tuyết và tuyết tuột (avalanche)
                                                     
Vincent cho biết mấy hôm trước đất chuồi ở khu vực nầy và người ta mới dọn dẹp xong. Tôi mới nhớ ngay sáng sớm hôm sau ngày đặt chân đến Canada tôi muốn coi thời tiết nên mở truyến hình để xem thì có tin tức báo ở Québec bị lụt lội nước dâng lên đến mức báo động, còn ở Bristish Columbia thì có đất chuồi nhưng tôi chẳng biết nơi nào, thì ra lại là nơi nầy.
Hiện tượng đất chuồi (landslide)

Thế là chúng tôi hãy còn hên vì không bị trở ngại nào cả. Qua khu vực nầy Vincent nhắc mọi người lấy lại giờ của đồng hồ vì qua múi giờ khác của Tỉnh Alberta.
Đường xe lên cao nhìn sang bên phải một khung cảnh núi tuyết sáng rực lên và đẹp đẻ khiến mọi người đưa máy hoặc phone lên mà chụp lia lịa, còn tôi thì cứ thế mà quay, khi nào hứng chí thì chụp vài bôi hình. Rồi trên độ cao đó xe lần về hướng đông, núi có tuyết giảm dần để rồi chúng tôi về đến khách sạn Prestige ở Golden vào lúc hơn 8 giờ (giờ địa phương). Và sau đó chúng tôi đi ăn tối tại nhà hàng Kicking Horse Palace cũng gần đó.

Nguyên Thảo,
10/8/2017.



*Vịnh Thơ Ngông.



*Khích Bác.     

Có kẻ thường hay khích bác người
Muốn người "nổi trận" để coi chơi
Đôi khi đứng thủ ngoài vòng chiến
Đợi lúc người suy "đoạt món lời".

Có người thấy "Tưởng thế cô đơn"
Dùng trí đa mưu khích bác người,
Sẵn tánh anh hùng, người "nổi máu"
"Con cờ lợi dụng" khác gì hơn!

Lại lũ hèn kia chẳng dám làm
Đem lòng xui giục đứa lòng tham
Tham danh, tham vọng, tham tiền bạc
Mắc phải mưu thâm, thay hắn làm!

Ôi đời! sao lắm người gian thế!
Chỉ muốn mượn người để lợi ta
Lời ngọt, ý thâm luôn thúc đẩy
Lợi là y, chết lại là ta!

Đồ Ngông,
25-4-02.



 
*Ông Là Ai?    

Hỏi vậy, nhưng tôi đã biết rồi
Vì ông chưa tới, đã mùi hôi
Hầm cầu ông khuấy, vương hơi khói
Nhà cửa ông châm, lửa bắt mồi.
Cứ tưởng đem tài ra góp sức,
Ai ngờ nhân cách hóa ra tồi.
Ông về xem lại bao kinh Phật,
Kinh Thánh từng trang hối lỗi thôi!

Đồ Ngông,
12-08-02.

 

*Ông Là Gì?   

Ông tưởng dân ta: "Một lũ ngu?"
Tha hồ ông quậy đến chổng khu,
Hội đoàn ông móc ra từng lão,
Một nhóm người khen lại chống dù.
Lãnh đạo tinh thần ông chẳng kể,
Dân đen, viên chức coi như mù.
Tha hồ ông múa gậy vườn hoang,
Chỉ tội dân ta tại xứ người.

Đồ Ngông,
12-08-02.

 


*Vịnh Thơ Ngông.

Ngồi buồn viết bậy mấy thơ ngông,
Lấy chữ, danh từ chất khoảng không
Phản kháng, xấu người cùng xấu nết,
Xuôi theo, đẹp bóng lẫn đẹp lòng.
Tài hèn sức kém nên đôi chút,
Sự lớn, đời to cũng khó mong.
Thơ vạch thói đời bao cái xấu,
Quét người lại quét cả thằng ngông!

Đồ Ngông,
14-08-02.



Saturday, August 5, 2017

*Khi Hoa Anh Đào Nở! (4)



Dù lỡ rồi, nhưng sáng khi dậy sớm (từ lúc 5 giờ) tôi cũng cầm máy để quay một vòng cảnh gần nửa thành phố Osaka vào ban đêm với không nhiều ánh đèn, để gọi là kỷ niệm cái thành phố đầu tiên mình đến khi đặt chân lên đất Nhật. Xong, tôi sửa soạn chuẩn bị những gì cho chuyến đi ngày hôm nay. Rồi một lần nữa cũng không quên cầm máy quay lại cái góc độ có Thành Osaka đẹp đẻ ở phía công viên, vườn tược bên kia sông khi trời sáng. Từ phòng tôi nhìn xuống là dòng sông O (O river), có cầu cho những người đi bộ sang công viên để tập thể dục; kế bên đó là một sân vận động thì phải, vì nó có những trụ đèn của nhiều bóng đèn cực mạnh để chiếu sáng về ban đêm. Tiếp đó là những tàng cây che cả một vùng rộng lớn, mà trung tâm của nó là Thành Osaka. Dọc hai bên sông O, người ta trồng nhiều cây anh đào đến nay hãy còn nhiều bông. Từ cầu đi qua là Osaka Jo Hall, và phía sau trên gò cao đó là Thành Osaka. Nó đứng sừng sững duyên dáng, nhưng không kém hùng tráng, thanh tao.
Và rồi, mọi người lần lượt kéo nhau xuống phòng ăn để ăn sáng khá sớm, vì sau đó hầu còn có nhiều thì giờ lo vài chuyện nữa, trong đó có việc vệ sinh cá nhân và thủ tục trả phòng. Với thời gian chờ đợi sự kiểm phòng của nhân viên trong khách sạn hơi lâu, nên chúng tôi lần ra bờ sông đi dọc theo những hàng cây anh đào mà chụp vài bôi hình, hoặc quay những cảnh nào mình thấy ưng ý để sau nầy ngồi xem lại như kỷ niệm của một lần đi.
Xe buýt đến, chúng tôi chuyển hành lý cho tài xế chất lên xe. Đoàn bắt đầu lên đường từ lúc 8 giờ 15. Cái thú của tôi lại là quay phim những phong cảnh dọc đường để nhìn cảnh nơi xứ người và phỏng đoán cái cách sống của người dân. Xe chạy trên đường tốc hành (không có đèn dừng lại) và chắc là đường trên cao, nên hầu hết các đoạn đường đều có nhiều vách ngăn ở hai bên để giới hạn tiếng động cho những khu dân cư đông đúc. Xe cũng chạy phần đường bên trái giống như ở bên Úc. Ra đến ngoại ô, tầm nhìn hai bên đường mở rộng vì không còn có những vách ngăn nữa. Tới các nơi có nhà nilông, tôi biết nơi đó là vùng nông nghiệp nên thường chú ý hơn để xem nông nghiệp xứ người ra sao. Còn về công nghiệp thì xứ Nhật nầy chắc đã là tiến bộ lắm rồi!
Đến 9 giờ 15 xe vào bãi đậu xe bên đường, đoàn chúng tôi xuống để ghé thăm Nijo-jo Castle. Thành nầy có âm theo tiếng Hán Việt là Nhị Điều được xây dựng bắt đầu từ năm 1603 dưới thời Mạc Phủ Tokugawa thứ nhất là Ieyasu và hoàn tất vào thời Mạc Phủ Tokugawa thứ ba là Iemitsu vào năm 1626; và nó được liên kết với vài công trình của thành Fushimi được xây dựng vào thời Momoyama (1573-16140). Thành nầy được xem là một trong những khuôn mẫu tinh tế nhất về cách kiến trúc, tranh ảnh, và nghệ thuật chạm trỗ của thời kỳ Edo và Momoyama trong văn hóa Nhật Bản. Được biết toàn khu thành rộng hơn 28 mẫu với hai lớp tường đá, hào sâu. Còn các công trình kiến trúc chiếm khoảng 8,000m2 gồm có cung điện Honmarru, Ninomarru các nhà bảo vệ, nhà bếp và các khu vườn.
Chúng tôi đi qua cổng và vào một dãy dài có các kệ để giày dép, để cởi giày vì giày phải bỏ ngoài rồi mới được đi tham quan trên các hành lang theo lộ trình chỉ dẫn, vì các cung điện nầy đều bằng gỗ. Không được phép quay phim, chụp hình. Đa số những phòng trống trơn với những hình nhân sáp để tạo cảnh sinh hoạt trong phòng ấy như thế nào của ngày xưa. Nhưng đặc biệt nhất là sàn gỗ được thiết kế có những tiếng kêu khi có người đi trên đó như là để tránh kẻ lạ đột nhập hay thích khách. Đi một vòng và cuối cùng ta được ngắm những khu vườn theo cách riêng biệt của người Nhật trước khi bước đến các dãy nhà dài lấy giày dép để ra ngoài.
Thành nầy trở thành lãnh địa của Hoàng gia khi Mạc Phủ thứ 15 của dòng Tokugawa là Yoshinoku trở nên Hoàng Đế. Đến năm 1884 Thành được đổi tên là Dinh Thự Nijo. Đến năm 1939 nó được hiến cho Thành phố Kyoto quản lý và được đổi tên là Nijo-jo Castle. Và UNESCO công nhận là Di Sản Thế Giới vào năm 1994.
Lúc 10 giờ 15, xe buýt lại trên đường đi, bây giờ chúng tôi sẽ đến tham quan Nishijin Textile Centre.  Trung tâm nầy không xa với Thành Nijo-jo bao nhiêu chỉ chừng 5 phút đồng hồ đi xe thôi. Đến đây để xem Kimono show và mua sắm vài món hàng lưu niệm.
Người ta bày bán tơ lụa và những bộ đồ kimono cùng những tranh ảnh bằng lụa, những quà lưu niệm trên tầng lầu 2. Chúng tôi cùng nhau lên đó để chọn cho mình những gì ưng ý. Riêng tôi chẳng biết mua gì đành lựa chọn cho mình vài bức tranh cho ba đứa cháu gái, và một đứa cháu trai để coi như là món quà nho nhỏ. Rồi sau đó cùng nhau dự vào một show trình diễn kimono của các cô gái Nhật ở sàn diễn tầng dưới.
Kimono show
Kimono show

Trung tâm nầy được xem như là một bão tàng viện của ngành dệt may ở vùng Nishijin nầy. Kỹ thuật và nghệ thuật dệt tơ lụa Nishijin được nhiều người biết đến từ thời kỳ đầu của cố đô Kyoto. Lúc đó khoảng vào năm 794 khi một phần của gia tộc “Hata dan” đến đây sinh sống nuôi tầm và dệt lụa. Họ rất giỏi về nghề nầy nên từ đó nền kinh tế ở Kyoto được phát triển đến đỗi Hoàng Đế Kanmu quyết định dời kinh đô về đây. Vào thời đại Edo có chừng 5000 xưởng dệt tơ lụa đa số nằm trong vùng Nishijin, và từ đó khu nầy trở nên nổi tiếng nhất của Nhật về tơ lụa cùng những bộ kimono truyền thống.
Sau, đoàn chúng tôi lên xe và được Jennifer đưa đi ăn trưa. Không biết đối với những người khác như thế nào chứ tôi cứ làm lạ là hầu như các đường không thấy thùng rác ở đâu, vậy mà đường phố vẫn luôn sạch sẽ; nhất là những hàng cây dọc đường, chúng được cắt tỉa như thế nào mà giống những cây bonsai to lớn, không bao nhiêu cành nhỏ vào khoảng thời gian nầy cả. Bây giờ thời tiết mùa Xuân có nhiều cây đâm chồi nẫy lộc, nhưng vẫn còn nhiều loại cây chưa vuơn mình được, chúng sáng sủa, vén gọn do cắt xén. Nghĩ thật là kỳ công và công cắt tỉa nầy phải “lắm công phu” cho các đường phố dù các cây hai bên đường đó là lớn hay nhỏ, thấp hay cao.
Xe đi vào “car park” nơi có nhà hàng Arashiyama mà chúng tôi sẽ ăn trưa ở đây. Nhưng nhà hàng đó ở trên lầu mà vì chưa tới giờ hẹn của chúng tôi nên đoàn còn rảo trong các gian hàng bán đủ thứ bánh kẹo, mứt ở tầng dưới. Sau chừng gần 20 phút, chúng tôi lên nhà hàng để cùng nhau ăn trưa. Đây là nhà hàng “buffet” Nhật nên chúng tôi ăn tùy thích. Xong, mọi người xuống để đi thăm cái cầu được giới thiệu là có tuổi khoảng 400 năm. Đó là cầu Togetsu. Cầu ở khu vực Arashiyama về phía Tây của Thành phố Tokyo. Cầu được xây bắt qua sông Katsura dài 155m
Có người viết: Cầu được xây dựng từ thời Heian (794-1185) để người hai bên sông qua lại được dễ dàng mà lại gần chùa Pháp Luân nên gọi là Pháp Luân Kiều. Rồi một ngày, Thượng Hoàng Kameyama (tại vị 1259-1274) đi du lãm trên sông vào đêm trăng rằm nên ngài thấy “bóng trăng như chạy qua cầu” và từ đó cầu có tên là “Độ Nguyệt Cầu” (Togetsu). Cầu có dáng thanh nhã, đẹp nhìn mãi mê không chán. Nước sông lúc nầy không nhiều, có hai bờ đập phía trên và phía dưới cầu để điều tiết lượng nước mà bão vệ cây cầu lịch sử nầy chăng? Hai bên bờ sông được lót đá thoai thoải, và trồng nhiều cây anh đào để tạo sự hấp dẫn khi trời vào Xuân. Lại có người cho biết thêm: Cầu được xây dựng ban đầu do nhà sư Dosho, đệ tử của cao tăng Kuhai, vào thời Thừa Hòa (834-848 đầu thời kỳ Heian). Cầu ấy nằm ở phía thượng nguồn so với hiện tại, nhưng qua nhiều lần bị hư hại do thiêu hủy, lụt lội nên dời về vị trí hiện tại từ năm 1606.
Đến 12 giờ 50 đoàn lại lên xe để Jennifer hướng dẫn sang Chùa Vàng.

Nguyên Thảo,
18/07/2017.



*Háo Thắng.



*Lừa Dối.   

Thói đời lại thích lừa dối nhau,
Đem đến cho nhau những thảm sầu.
Cố ý bày mưu, giăng bẫy sập
Vô tình vướng mắc, dính cần câu
Người thua ấm ức, lòng như hoạn
Kẻ được hân hoan, dạ ước cầu.
Lừa bạc, lừa tiền, lừa ơn nghĩa,
Tình người, đồng loại sẽ về đâu?

Đồ Ngông,
 25-4-02.

 


*Tham Lam.   

Kẻ tham vốn sẵn lòng không đáy
Vơ vét thế nào, chẳng đủ đâu
Lúc chủ ngó lơ, lần tay bốc
Thơ thẩn người đi, chộp lấy liền.

Trong đời hàng khối kẻ gian tham,
Tham vật, tham tiền, tham cả danh
Không bỏ, không từ bao thủ đoạn
Mưu thâm, lấy vặt lẫn tranh giành.

Tham lam trang điểm đời thêm xấu
Thế giới an bình vứt bỏ đi
Nước quậy, sóng cồn, sao thấy đáy?
Lòng người như thế, nói năng chi...!

Đồ Ngông,
25-4-02.

 

*Háo Thắng.    

Háo thắng dù trẻ hoặc đã già
Cũng phường háo thắng, cũng do ta
Cũng ham ta thắng, người ra bại
Ta thích cười to: Thắng của ta!

Háo thắng, bao giờ cũng muốn được
Từ trong đời lẫn chuyện vu vơ
"Hơn người" là nết cần hơn cả
"Chẳng chịu thua ai, chẳng bẻ cờ".

Háo thắng nhiều khi thành lố bịch
Vô năng, thiếu trí lẫn không tài
"Nói đùa, nói đại" như ngang bướng,
Chẳng biết rằng mình: "Đúng hoặc sai"?

Đồ Ngông,
25-4-02.