Dân
là những “Thằng Người” của tận cùng xã hội, là tầng lớp “đại đa số đang sinh sống”
trong một quốc gia. Đối nghịch lại là “Những con người đang lãnh đạo” trên tầng
lớp cao nhất của đất nước. Khoảng giữa là những ông quan kể cả quan văn và quan
võ, là những tầng lớp giúp cho chính phủ hay chính quyền thực hiện những chỉ thị,
phương cách cai trị đến các tầng lớp thấp kém bên dưới, là lũ “dân ngu cu đen” (theo
thói thường những người dân đã tự coi họ đúng với những từ ngữ ấy)!
Ngày
xưa, nếu tính theo từ thời Thượng Cổ thì những con người sống bình đẳng với
nhau, nhưng vì mạnh ai nấy nói, mạnh ai nấy làm, làm cho cuộc sống trở nên xô bồ
xô bộn, không ai nghe lời ai cả mà trở nên xung đột. Qua quá trình tiến bộ cũng
như sự phát triển về trí thông minh, con người đã biết tổ chức theo kiểu bầy đàn
để cùng nhau hợp lực chống chọi với thiên nhiên, thú dữ; hoặc đôi khi chống lại
với những đoàn người khác đến từ bên ngoài, nhằm bảo vệ khu vực của mình khi mà
con người biết chú trọng đến quyền chiếm hữu và định cư, dùng nông nghiệp, săn
bắn để làm môi trường sinh sống. Để rồi, từ khung cảnh đó tiến đến tổ chức xa hơn
là lãnh thổ và phát triển lãnh thổ bằng cách chiếm lấy của người, sắc dân khác
bằng vũ lực, sức mạnh hay chiến tranh, làm cho đất của mình càng ngày càng lớn
hơn, to ra.
Theo
như nền văn hóa của Đông Phương, nhất là những nơi ảnh hưởng của nền văn minh
Trung Hoa thì vị vua được xem là “Chân mạng Đế Vương” do số ở Trời định là được
làm vua để cai trị dân trong toàn lãnh thổ của mình. Ông Vua nầy có quyền tối
thượng thi hành mọi chính sách, cách cai trị của ông, đồng thời cũng như bổ nhiệm,
cử ai làm quan, làm tướng tùy ông ta. Tuy nhiên theo quá trình lịch sử, và do vào
kinh nghiệm trong dân gian, từ xưa đã có những điều ghi chép để giúp công việc
trị nước của vua được tốt hơn cho người dân. Và các điều ấy được Khổng Tử trong
Thời Xuân Thu Chiến Quốc thu thập và san định trở lại thành những Kinh, Thư làm
căn bản cho một nền Học Thuật Nho giáo, mà dân gian gọi nôm na là Đạo Khổng,
Nho Giáo hay Khổng giáo giống như câu: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh” chẳng hạn. Tuy nhiên Vua cũng là con người, mặc dù mọi quyền hạn, sinh sát
trong tay thì Ông ta cũng không thoát qua khỏi những cái “Tính” căn bản của con
người mà chỉ có Duy Thức Học trong Phật Giáo mới phân tích rõ các tâm tính ấy,
và cũng chẳng có triết học nào phân tích được rõ hơn. Các tâm tính ấy là gì? Là
“Tham, Sân, Si”. Tham là đã có nhưng lại muốn được nhiều hơn, sung sướng lại thích
sung sướng hơn, có ít thì lại muốn có nhiều. Muốn mà không được thì sinh ra sân
hận, giận dữ, lòng nổi lửa lên; để rồi không kiềm chế được cơn nóng giận dữ mà
sinh ra những hành động tàn ác, ngoài ý muốn thiện của mình và có hại đến cho
muôn dân và cơ đồ, xã tắc.
Đó
là chuyện của ông vua, còn ông Vua có toàn quyền bổ nhiệm cái đám “Tay sai” của
mình để thừa hành những điều, chỉ thị mà mình đã ban ra, bằng cách phong cho những
thân nhân, người quen, hoặc những người có tài về phương diện nào đó giữ những
chức vụ quan trọng điều hành, thực hiện cái ước muốn của ông vua thành hiện thực
trong mọi phương diện. Nếu về phương diện hành chính thì là quan văn, nếu về quân
sự, võ lực thì là quan võ. Văn hay võ đều là củng cố, thực hiện cái chính sách của
chế độ, của Ông Vua. Ngoài việc sử dụng những người Thân, Quen, Người đã có công
trong công cuộc kiến quốc hay tạo nên triều đại; ngày trước người ta còn tuyển
dụng những người có tài, có kiến thức trong dân chúng nên mới có tầng lớp sĩ tử
từ trong dân gian. Không những tầng lớp sĩ tử nầy phải học về những điều cần
thiết trong việc làm quan theo đường hướng của Đạo Khổng, mà còn phải biết về
việc võ nữa, thế mới có câu; “Văn võ toàn tài”. Đã thế mà họ còn trải qua các kỳ
thi, mà ở Việt Nam trong Lịch sử đã có Thi Hương, Thi Hội, Thi Đình mà các sĩ tử
phải “xôi Kinh, nấu Sử” chờ ngày đi thi. Do đó mà vợ phải: “Bên anh đọc sách, bên
nàng quay tơ” để chờ ngày “Bái Tổ Vinh Quy”, “Ngựa anh đi trước, võng nàng theo
sau”. Từ quan niệm đó mà vinh dự của làng xã, thôn xóm cũng tăng theo nếu có người
đỗ đạt. Hay có những gia đình làm được cuộc đổi đời bằng có người làm quan và
giúp cho dòng họ khá hơn theo dân gian đã nhận xét “Một người làm quan, cả họ được
nhờ”!
Cái
tiêu chí làm quan ngày xưa, theo quan niệm của Đạo Khổng là “Tu Thân, Tề Gia”
trước, rồi mới đến xa hơn là “Trị Quốc, Bình Thiên Hạ” chẳng kể là Vua hay quan
đều như thế cả. Ông Quan phải đem hết tài trí, khả năng của mình ra đóng góp
cho đất nước, làm cho đất nước được giàu mạnh, dân chúng ấm no, hạnh phúc “Quốc
Phú, Dân Cường”, vì vậy mà các Ngài phải “Chí Công, Vô Tư”, “Lo trước cái lo của
Thiên hạ, vui sau cái vui của Thiên hạ”, và lòng Kiên Định không thay đổi giống
như câu “Phú Quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”.
Tuy
nhiên trên lý thuyết thì như thế ấy, nhưng thực tế thì tùy vào tâm tính, hoàn cảnh
kinh tế xã hội mà vị quan thể hiện cái ước muốn, cũng như tỏ thái độ của mình
trên đường quan lộ. Nhất là những kẻ “nịnh hót, hèn hạ với cấp trên” để rồi “hống
hách bắt nạt kẻ dưới, làm tiền ở người dân” làm cho dân chúng càng trở nên điêu
đứng, sau sự khốn khó mà triều đại đem đến. Điều ấy không phải là hiếm, ngay từ
trong các Triều đại xưa cho đến nay đều có xảy ra. Nơi nào kiếm ăn được, có thể
kiếm được nhiều tiền thì các vị làm quan đều “ngắm nghía” đến và có thể tung tiền
ra mua chức vị ở đó để được “giàu vì làm quan” mong cầu bản thân, gia đình được
ấm no, hạnh phúc và sung sướng. Đôi khi với chức vụ ấy cần có trình độ Văn hóa đến
đâu thì với cương vị, quyền hạn người ta có thể bỏ tiền ra mua những bằng giả để
được duy trì ở chức vụ mà thực hiện âm mưu, lẫn ước mơ của mình. Mãi rồi trong
xã hội người ta không biết là ai xài bằng giả, hay bằng thiệt; ai là quan giả,
ai là quan thiệt; ai là quan làm cho “dân giàu, nước mạnh” và ai là quan “tham
nhũng, đòi hối lộ, hút máu của nhân dân”! Thật là chuyện xã hội, quả khó mà lường!
Mãi rồi bao nhiêu người dân không biết phải xử trí thế nào và cũng chẳng biết tương
lai mình sẽ về đâu?
Trong
những xã hội Tự do, với báo chí người ta có thể phanh phui những trường hợp
quan lại tham nhũng, hống hách, bức hại người dân. Hay với những thư tố cáo lên
cấp trên thì quan lại ấy có thể mất chức như chơi mà không phải bị bắt, trù yếm,
đe dọa, trả thù. Và với “lỗi lầm như thế đấy” họ khó có thể đi kiếm một công việc
nào khác để sinh sống nếu ở xã hội tự do. Vì khi đi xin việc ở nơi mới, thì nơi
dó thường hay tìm đến lý do nghỉ việc ở nơi trước, nếu quá trình xấu thì không được
nhận làm. Nhưng ở trong vài chế độ người làm xấu nơi nầy lại chuyển đi đến nơi
khác, để rồi họ lại tiếp tục làm chuyện xấu bằng những hành vi cẩn thận và tinh
tế hơn. Và càng ngày những vị quan chức xấu càng nhiều, họ chẳng hề có lợi mà
chỉ là những “Con sâu” bòn rút, gây hại cho đất nước, khiến người dân nghèo nàn,
xã hội băng hoại và đất nước càng lúc càng bị tiêu vong hơn.
Và
cũng ở nơi Dân Chủ và Tự Do, người dân hội đủ điều kiện có thể ra ứng cử để được
bầu vào những Hội Đồng Địa Phương làm Nghị Viên, tham gia công việc hoạch định
những kế hoạch làm ích lợi cho Địa Phương mình. Họ có thể là trong Đảng phái hoặc
là những Ứng Viên tự do, không theo Đảng phái nào. Nhưng khi họ được dân chọn,
bầu cho thì ít ra họ cũng có những khả năng cống hiến cho địa phương hay là đất
nước, nếu trong nhiệm kỳ mà họ làm không được việc, thì đến cuộc bầu cử sau, họ
không được dân chúng chọn nữa. Còn ở những nơi đặc quyền, đặc trị cho thành phần
nào đó và với thành phần đó khó kiếm người thay thế thì với quyền hạn, thế lực
họ dễ dàng bức hiếp người dân để đòi hối lộ, hay gây khó khăn làm tiền, hầu cho
người dân phải “lòi” tiền ra mà lo lót, hối lộ để viên chức không cần làm nhiều
mà được lợi to. Không biết những giới chức ở cấp cao có biết không, mà sao các
thành phần ấy cứ ung dung “hút máu” của dân lành! Điều đó trong lịch sử xã hội trên
thế giới chắc là không ít, kể cả mọi thời đại dù là phong kiến hoặc hiện nay.
Quý vị thử “nghiệm” lại xem sao?
Đồ
Ngông,
13/08/2019.