Sunday, July 24, 2022

*Khung Trời Kỷ Niệm! (4)

Trong năm nầy chiến sự có nhiều thay đổi. Đất nước được ngưng chiến không còn lính Tây đi bố nữa, mà trên báo chí đăng tin hòa bình theo Hiệp Định Genève gì đó. Sau đó không lâu, có nhiều đoàn người từ Bắc vô Nam gọi là di cư, và một số bộ đội lại Tập Kết ở những địa điểm để kéo lần ra Bắc. Đất nước bị chia thành hai miền. Tôi theo cùng gia đình ra bìa Hố Đá để đưa tiễn Chú Sáu Đẹp, chú ruột của Nghĩa tập kết ra Bắc. Có những chiều mưa lất phất vài chiếc xe bò chở những bộ đội thương binh đi về phía trong Tân Long, không biết họ đi ra Bắc bằng đường nào? Và ở khoảng thời gian nầy Thầy và Cô giáo Khai cất nhà ở phía sau trường học, cùng hai người con trai lớn hơn tôi một chút cũng về ở chung: Hùng và Cảnh. Cảnh trắng trẻo rất đẹp trai và sáng sủa, Hùng không bằng, hơi đen. Hai anh học ở nơi nào đó mà chúng tôi không biết được. Xong hết khóa nầy theo lẽ đám học trò chúng tôi được lên Lớp Ba, nhưng vì Thầy Thăng nghỉ dạy cho nên Lớp Ba không có Thầy, do vậy mà cả bọn lại “nhảy tọt” lên học trên Lớp Nhì với Thầy Khòm. Thầy rất nghiêm cho nên đứa nào cũng sợ. Với Thầy, lớp thỉnh thoảng có nhiều học trò phải nằm trên bàn để đánh đòn thay vì bị phạt. Nhà Thầy trên Cống Ông Huyện, Thầy đến trường bằng xe đạp.

Đất nước hòa bình rồi không còn tiếng súng, không còn chun hầm nữa. Nhưng người ta cũng chưa tin hẳn điều đó vì vậy chuyện lấp hầm còn chậm chạp lắm. Kế bên Trường Tàu được khai phá các chồi cây, bang bằng rồi cất lên một rạp hát, nghe nói của Thầy Giáo Khai hùn với mấy người nữa. Trong rạp được trang bị bằng nhiều băng dài để cho khán giả ngồi coi. Gian chính giữa rộng có hai dãy băng hai bên, khoảng giữa là đường đi. Hai bên hông kê những băng ngắn hơn dành cho khán giả ít tiền. Thuở đó thường là những gánh hát bội về hát những tuồng cổ dựa theo những truyện Tàu, nên người đi coi cũng khá đông nhất là trong giai đoạn đầu. Đoàn hát thường có máy phát điện để chạy đèn, âm thanh và những thứ cần thiết. Từ ngày có rạp hát sự sinh hoạt ở chợ vui hẳn lên. Chiều chiều đã có xe ngựa chở trống đánh thùng thùng đi quảng cáo, tụi nhỏ như chúng tôi chạy theo xin giấy xem đứa nào được nhiều. Đến tối thì tiếng trống đánh cổ vũ, kêu gọi khán giả liên tục. Ban đầu do người trong đoàn hát phụ trách, sau có nhiều đứa nhỏ ham vui tập đánh rồi đánh hăng say thay thế, người trong đoàn được giây phút nghỉ ngơi. Tôi cũng thử tập, nhưng tập hoài không được, tiếng trống của mình sao khó nghe quá. Có thằng Trai, bạn tôi nó đánh hay thiệt, nghe dòn dã làm sao, chính chú trong đoàn hát khen ngợi nó nhiều, có khi ông ấy dẫn cho nó vào trong rạp xem hát. Trống đánh đến khi nào bắt đầu hát thì thôi, kể cả việc phát thanh các bản nhạc Cải cách hay bây giờ gọi là Tân Nhạc. Công nhận việc đánh trống cùng phát thanh nhạc cải cách trước khi hát làm cho người ta bồn chồn, bị lôi cuốn để đi xem. Đó là chưa nói đến quang cảnh các xe bánh kéo tới bán bánh nầy, bánh kia, rồi tới nước mía, mía ghim, ổi, xoài, đồ nhậu, khô mực, chuối nướng, đậu phọng rang… đầy trước sân rạp thật là vui, trong đó có tiếng chơi đùa của bọn con nít chúng tôi. Nhưng vào những ngày mưa, nhất là mưa đêm thì khách không đi coi bao nhiêu, không đủ sở hụi nên gánh hát đành hủy bỏ đêm hát. Nói như vậy không có nghĩa là gánh hát đến Tân Khánh nầy hát luôn được suôn sẻ, lúc nào cũng được đông khách mà nó còn tùy thuộc vào mùa mưa hay mùa nắng và đoàn đó hát hay hay dở nữa. Thường thì đoàn đến hát trong vài ngày thì chuyển đi nơi khác ít khi ở đâu lâu lắm. Mà ngành hát bội chỉ có người lớn tuổi am hiểu về câu chuyện hay điệu bộ mới thích, chứ người trẻ không thích vì diễn tiến trong tuồng hơi lâu, nhất là cứ í ì i hoài nghe quá mệt. Hơn nữa, thói thông thường người ta muốn đi coi nhưng lại không muốn bỏ tiền ra khá nhiều, vì thế bằng nhiều cách để người ta đi coi “cọp”, đôi khi lại đem tiếng không tốt cho vùng gọi là “rừng nhỏ cọp nhiều”, nhất là những người có quyền hành trong xã đến gởi người vào. Nhưng quý vị đừng nghĩ đến bọn con nít chúng tôi nhe. Chúng tôi chỉ lân la phía trước rồi xem ai mua vé, xin đi theo vô coi thôi, gọi là nắm đuôi áo theo cùng giống như họ dẫn con cháu theo đó mà. Nói là vô coi chứ thật ra coi được mấy hồi, coi được chừng một lúc, chán quá lại đi ra, có khi nằm ngủ trong đó khiến ba má đốt đèn đến kiếm; giống như tôi có lần ngủ quên má tôi phải đến tìm đưa về. Có lần nọ, gánh hát kia đến hát nhưng gặp trời mưa bão lâu ngày không hát được, ế quá chi phí tốn quá nhiều, đành nằm chịu trận, và không biết vì sao mà gần cả tháng cũng không đi để rồi phải rã gánh tại đây, nếu tôi nhớ không lầm tên gánh ấy là “Huỳnh Thành” thì phải, tôi nhớ như vậy là do người ta hay trêu là “Huỳnh Lì” tức là ở lì không chịu đi.

Dù có mê gánh hát đến đâu, cũng không quên chuyện học hành vì Thầy Khòm rất nghiêm khắc đứa nào cũng sợ, mỗi lần có chuyện Thầy kêu lên là thiếu điều “té đái” hay ‘teo”; cho nên đứa nào đứa nấy lo học “thấy mồ”, lo làm bài “trối chết” dù không biết cũng ráng hỏi người ta đặng làm cho được. Tuy vậy, cũng có nhiều chuyện rất vui, mà ông Thầy cũng không thể “hành hạ” học trò cho được. Một buổi nọ, tự dưng ở tựa vách của lớp, có tiếng thưa: “Thưa Thầy, thằng H. nó sợ không dám xin Thầy đi đái, nó lấy thun cột cu nó lợi nè Thầy”, thế là ông Thầy vộì kêu nó đi ra ngoài, đi tiểu, rồi dặn cả lớp nhớ đừng làm như nó, có ngày bể bọng đái chết à nhen! Rồi lại có anh chàng Đinh Ba, vì lớp có hai trò tên Ba, Ba nầy họ Đinh, nên thường được gọi là Đinh Ba nói hơi ngọng về chữ “L” thầy kêu sửa hoài mà sửa vẫn chưa được, ngày nọ khi bị kêu lên “trả bài” (tức là lên đứng kế bàn Thầy mà đọc lại bài bằng cách thuộc lòng để Thầy xem thuộc bao nhiêu mà chấm điểm). Sau khi trả bài xong Thầy kêu đứng đó nói câu “Cái lu lũng lỗ” coi. Trò Ba đứng đánh lưỡi hồi lâu “Cái ngu ngũng ngỗ”. Thầy kêu làm lại đôi ba lần nữa nhưng vẫn không được. Thầy cho về!

Thế rồi ngày nọ, tự dưng chỗ tôi ngồi có tiếng chưởi “Khốn kiếp”, sau đó thì cả lớp im bặt, nín thinh đợi sự phán quyết của Thầy. Thầy hỏi: “Đứa nào nói đó?”, không ai trả lời, cuối cùng Thầy kêu tôi lên. Tôi lo sợ đi lên trên đứng bên cạnh bàn. “Con nói phải không?”, “Thưa Thầy con không có nói”, “Vậy, chứ ai nói?” Tôi lặng thinh một hồi, rồi thưa: “Thưa Thầy con không có nói”, “Con không nói, phải không? Vậy thì le lưỡi liếm chừng nào tới lỗ mũi thì là không có nói”. Nghe vậy tôi thử le lưỡi đưa lên lỗ mũi chẳng thấy nó tới đâu, hồi lâu bí quá tôi bèn khai đại: “Thưa Thầy thằng Khoa nói, chứ con đâu có nói”. Thầy kêu: “Khoa, tại sao nói Khốn kiếp?”, Khoa giải thích lý do, còn Thầy cho tôi về chỗ. Hú hồn! Sở dĩ tôi quả quyết thằng Khoa nói vì nó thường bắt chước theo tuồng hát mà hay nói chữ “Khốn kiếp” đó, vậy thì chắc có nó thôi. Ai dè đúng vậy!

Đa số học trò học với Thầy Khòm đều cho rằng ổng rất khó, đôi khi tụi nó nói “dữ” nữa, nhưng có lẽ chính vì vậy mà ai cũng ráng lo học để khỏi bị đòn. Chỉ tội cho thằng Tư “Gà”, không biết do đâu mà bạn bè gọi nó là Tư Gà, không biết lúc trước má nó có bán gà không, chứ ba nó bán bánh mì, với cái thùng gắn sau xe đạp. Ông chạy xe đạp khắp xóm để bán bánh mì “nhận” (thức ăn) cho dân trong xóm. Ông thương thằng Tư lắm, nhưng khổ nỗi nó còn tệ trí nhớ hơn tôi, học khá tệ vì thế ông hay gởi Thầy chăm sóc, dạy dỗ cho nó. Nó rất dở toán, nhiều lần lên bảng ít khi nó làm được, đành chịu “khẽ” mà về. Một ngày nọ, Thầy kêu nó lên bảng, bài toán không khó mà nó cũng không biết làm, Thầy tức quá, nắm đầu “dọng” (ấn mạnh) vô bảng đen kêu rầm rầm, đám học trò tụi tôi ngồi dưới đều xanh mặt, trên kia tấm bảng đen nhảy ra khỏi hai chốt đỡ bảng của cái giá rớt xuống đất. Từ đó, bọn học trò chúng tôi lại càng sợ và ráng học hơn để mình không bị đòn như nó. Ở lớp học nầy tôi mới nghe mấy thằng bạn kể là nó có nghe về bộ sách “Giáo Khoa Thư” lúc trước, bộ sách ấy hay lắm mà bây giờ không còn nữa. Và cũng ở lớp học nầy lần đầu tiên tôi mới học được cách làm chữ nổi do anh Ngô Văn Bé bên lớp Nhất của Thầy Giáo Khai xuống chỉ cho người bạn trong lớp và tôi được “học lóm” từ anh.

5- Sự hòa bình tới làm cuộc sống có nhiều thay đổi. Song song vào đó, người từ Bắc vào Nam; kẻ từ Nam ra Bắc theo cái Hiệp Định Hòa Bình Genève. Dân chúng ban ngày không sợ cò hiến binh, mã tà khám xét; nhất là ban đêm được thoải mái đi lại, ngủ yên giấc không phải sợ hai bên đụng độ, súng nổ; hoặc phải chun hầm ẩn núp khi có tăm-lông (phóng lựu), moọc-chê hay cà-nông bắn tới. Ngoài ở nơi rạp hát ồn ào tiếng trống, loa phóng thanh nhạc cải cách, để cổ vũ người đi coi, thì những nơi sân nhà rộng rãi bọn con nít chúng tôi được đàn anh chỉ, hướng dẫn chơi các trò chơi dân dã thật là thích thú. Nhớ nhiều đêm trăng, phong trào các bà, các cô tập cưỡi xe đạp rất là vui. Những màn vịn xe cho người tập không nỗi, thắng không kịp, hay lủi vào bụi cây nào đó vẫn thường xảy ra tai nạn. Tôi cũng tập lái xe đạp từ đây. Vì nhỏ con không ngồi trên sườn xe được, đành “lòn chưn” dưới thanh ngang dàn cái qua bàn đạp bên kia mà đạp. Lúc đầu tôi lòn chân sang phải, nhưng khi rành thấy mình không giống với người ta, rồi lại từ phía phải “lòn chưn” sang trái. Bây giờ trong Tân Long cũng có rạp hát nữa, rạp được cất bên phía đất trống tại ngã ba, có lần tôi đã tới đó với nhiều người lớn bằng cách đi bộ từ Tân Khánh kéo tuốt vô Tân Long. Các gánh hát lúc nầy thay đổi không còn hoàn toàn là hát bội như xưa mà thêm vào đó cách hát thoải mái hơn được gọi là “hát bội pha cải lương” tức là vẫn còn hát bội nhưng “hội thoại” nhiều hơn và xen vào các bản ca từ kiểu cách của đờn ca tài tử mà chính là “vọng cổ” và các bản nhỏ, cho nên các người nổi tiếng lúc ấy là ông Út Trà Ôn, Bảy Cao, Kim Chưởng, Hoài Dung, Hoài Mỹ… mà tôi được nghe tiếng. Rồi đến giai đoạn tiếp theo các đoàn hát không còn hát bội mà chỉ là cải lương giống như đoàn Thanh Minh, Hoa Sen, Kim Chung… thu hút nhiều khán giả hơn! Riêng đoàn Hoa Sen của ông Bảy Cao có hát tuồng lại có xen chiếu bóng, xem khá lạ và nhiều thích thú!

Thế rồi, một ngày kia có xe Thông Tin từ trên Tỉnh chạy xuống, vừa chạy vừa phóng loa kêu người dân đến ngày nào đó đi bỏ phiếu Trưng Cầu Dân Ý, và rải truyền đơn dọc theo đường; đám con nít chúng tôi hiếu kỳ chạy theo lượm giấy truyền đơn xem đứa nào được nhiều hơn. Sau nghe nói Ông Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã truất phế Bảo Đại mà chúng tôi cũng chẳng biết ông nào. Rồi thời gian nữa, nửa nước Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào bây giờ có tên là Việt Nam Cộng Hòa! Và vị Tổng Thống đầu tiên là Ngô Đình Diệm.

Vài tháng sau chúng tôi hoàn tất lớp học với Thầy Khòm thì trường vào kỳ nghỉ Hè. Đến gần tựu trường lại có thông báo đến ghi danh đi học phải đem khai sanh theo. Ngày ấy tôi đi ghi danh một mình không có ba đi cùng, mấy Thầy Cô ghi danh lạ hoắc, họ bảo đưa giấy khai sanh vào và ai sanh năm 1948 trở về trước đưa cho thầy và ai sanh năm 1949 đưa cho cô và nhỏ hơn thì đưa cho cô khác. Lúc đó tôi nhìn lại khai sanh của mình và tự nghĩ: “Sao ba khai cho mình năm 1949 nhỏ quá vậy?”. Tôi không vừa ý, liền mượn cây viết của thằng bạn ngồi kế bên có màu mực giống trong khai sanh rồi sửa số 9 trở thành số 8, thế là tôi có năm sanh mới là năm 1948. Tôi được xếp vào học lớp Ba. Ngày tựu trường hay được gọi là khai giảng niên học mới chúng tôi được giới thiệu: “Đây là Trường Sơ Cấp Tân Phước Khánh là Trường Công Lập học không phải đóng tiền, chỉ đóng một số tiền nhỏ gọi là Tiền Niên Liễm vào lúc đầu năm”; cùng với ông Trưởng Giáo là Hạ Ngọc Thơ; Thầy phụ trách dạy Lớp Ba là Nguyễn Văn Hòa; Lớp Tư là Hoàng Thị Thọ và hai Lớp Năm do cô Cúc và Thầy Hạ Ngọc Thơ. Đó là niên học 1956-1957. Như vậy là cơ sở Trường Cây Gòn không còn thuộc vào Thầy Khai nữa, mà cũng không biết Chính phủ trưng dụng hay mua lại của Thầy Khai, nhưng sau đó Thầy Khai dời nhà vào trong khuôn viên chùa Cao Đài và mở lớp học trong đó. Có một số theo học với Thầy mà không học trường công ngoài nầy như To, Hòa, Tâm, Chánh, Lập, Sang, Sinh để rồi sau họ xin học ở ngoài Trường Tiểu Học Nam Châu Thành ở ngoài Tỉnh hay Trường Tiểu Học Cộng Đồng Dẫn Đạo ở ngoài Búng cùng với những người thuộc lớp lớn hơn. Lớp Ba nầy gồm một số từ ấp Bình Hòa như chị Mây, Chi, Thiện, Bảy. Ở Tân Khánh có tôi, Tùng, Ten, Gia, Tự, Mười, Trung, Nghĩa, Trí, Em (Úng), Sương, Huynh, Ruộng, Ớt. Bên gái có Kim Phượng, Tâm, Tuyết, Hờ và Băng Tâm cùng Cao Thoại Hoa từ trên Sài Gòn theo gia đình về đây. Thầy Hòa từ Bến Tre về, Thầy trọ ở nhà của ông Hai tôi phía trên dãy phố phía trên chợ, tức là nhà của Út Xang. Dáng Thầy rất trẻ, hay mặc quần soọc trắng lại càng có vẽ thư sinh hơn. Trong năm nầy có mấy phần học bỗng của ai đó tặng cho học sinh trong Tỉnh, nên mỗi trường chọn ra vài học sinh giỏi để đi thi, địa điểm thi là Trường Tiểu Học Nam Châu Thành. Thầy Hòa chọn tôi và Nghĩa bên phía nam, và nữ thì Liêu Tuyết, chị Mây. Nhưng cuối cùng chỉ có Nghĩa đậu được phần học bỗng khoảng 15 hay 20 đồng gì đó mỗi tháng. Còn tôi, chị Mây lẫn Liêu Tuyết đều rớt cả. Và Thầy Hạ Ngọc Thơ thì ở ngoài chợ Thủ Dầu Một trên con đường Đoàn Trần Nghiệp, từ Nhà làng Phú Cường ngó ra chợ thì về phía tay trái, không xa Nhà Làng lắm. Tôi có lần ghé nhà Thầy, hình như ngày đi thi học bỗng thì phải. Thỉnh thoảng, trường được mấy Thầy dạy ở các vùng phụ cận như Thầy Khuê, Thầy Liệu, Thầy Di, Thầy Viễn ghé trường trò chuyện, ca hát tạo một không khí sinh hoạt sinh động và vui vẻ.

Vào thời gian nầy các lớp không học nguyên ngày (ngày hai buổi) như thời Thầy Khai mà chỉ học một buổi, ngày nào học nhiều môn thì bãi học hơi trễ một chút thôi. Còn trong xã thì có thêm các Thầy khác mở trường tư để dạy như Thầy Chấn lúc đầu dạy ở tại nhà trọ, sau xuống Công-Xi nơi đền thờ ông Quan Công của những người Hoa mở lớp. Và Thầy Thăng lúc trước ở trường Thầy Khai đi đâu trở về dạy ở xóm Cây Gõ, ngoài Trường đang có của Thầy Khai. Ở Tân Phước Khánh những năm nầy có nhiều thay đổi rất quan trọng mà tôi không thể không kể cho Quý độc giả nghe được.

Một là cơ quan Hành Chánh xã không còn nằm chung với đồn bót nữa mà cất riêng ra ngoài trước, phía trong bờ hào, mở cửa rào để dân chúng thoải mái đi xin đơn, giấy tờ. Bót không còn do lính Cao Đài trấn đóng mà giao lại cho lực lượng quân sự địa phương gọi là Dân Vệ phụ trách. Cái vòng rào chắn ngang đường đi ra Búng được mở ra cho xe chạy thông suốt, không phải chạy vòng tránh vòng rào của đồn bót như trước kia. Chợ dời lên khu đất mà hàng rào bót đã thu hẹp lại ra tới bìa đường đi Búng, xây cất có vẽ khang trang hơn. Một rạp hát mới được dựng quy mô ở khoảng đất trống trước đồn, phía trước có phần gác đúc có thể thích hợp cho việc chiếu phim: Tường gạch tô, có hai cửa ra vô trước, có các cửa hông, sân khấu chắc chắn, mái che là fibro xi măng, các băng ngồi đều mới toanh, do ông Lê Nguyên nào từ trên Bình Dương (Tỉnh được đổi tên thay thế cho Thủ Dầu Một) về xây dựng. Ông Lê Nguyên nầy người ta nói gia đình ông trước kia ở Cống Ông Huyện nơi Thầy Giỏi (Ông Giáo Khòm) đang ở, chắc là bà con với Thầy. Ở sân trước rạp hát có cất hai tiệm bán cà phê hai bên. Sau đó, người ta xin phép xây tiếp nối hai bên mấy căn phố. Và phía bên đất trống trước Trường Tàu người ta cất nhiều nhà nối nhau theo dọc đường, bây giờ trở nên đông vui. Còn cái rạp hát của Thầy Giáo Khai và những người khác đã trở nên củ kỹ, dột nát vì nó lợp bằng tranh nên bỏ đi, không sử dụng nữa và khoảng đất trống đó trở thành đường xe bò chở hồ, đất sét đến cho các lò để làm ra chén, bình, dụng cụ bằng sành.

Từ ngày có rạp hát mới khang trang, các gánh hát về thường xuyên hơn, lúc nầy tôi không còn mê đi coi hát nữa. Thỉnh thoảng mới nắm đuôi áo người quen xin đi theo vào coi; phần nhiều thời gian là đi phụ cho bà dì sáu, ông dượng chiên bánh tiêu bán phía trước. Rồi những lúc không có đoàn hát đến thì người ta thường tổ chức chiếu phim. Bọn chúng tôi được dịp xem các phim về Tarzan trong rừng già, hú voi lên chúng chạy tới quá chừng, hay Tarzan lăn lộn với cá sấu dưới nước dùng ngọn dao đâm chết cá sấu, hoặc đu những sợi dây leo chuyền từ nơi nầy sang nơi khác. Rồi đến phim “Bạch Tuyết và bảy Chú Lùn” có cái mặt bà phù thủy gian ác với chiếc mũi nhọn hoắc đứng trên tảng đá cao bị gió cuốn xuống vực sâu với tiếng la văng vẳng của bà. Cùng những phim “Charlot” diễu tức cười mà duyên dáng. Năm đó, chúng tôi được một mùa Hè thoải mái đi bắt cá lia thia trên cánh đồng bên kia suối, hoặc đi ra tận cánh đồng ngoài Phước Lộc, rồi trở về tắm ở các mội nước dọc theo các đường nước kế bên các bụi dứa gai trước khi trở về nhà. Và vào những đêm trăng tỏ, nếu không có gánh hát thì tụ tập với những anh chị lớn hơn để chơi bỏ khăn, u bắt mọi, kéo dây. Tiếng reo hò khắp nơi thôn xóm của những bầy con nít. Quả là một cảnh thanh bình như các bài hát “Gạo trắng trănh thanh”, “Trăng thanh bình” và duyên dáng hơn là “Trăng rụng xuống cầu”…


Nguyên Thảo,

25/07/2022.



Saturday, July 2, 2022

*Cái Khẩu Trang!

 

Ngày trước, cái mà để bịt lỗ mũi là để cho người ta che lại, không phải hít bụi bặm khi đi ra ngoài đường, hay những người làm những công việc nào quá nhiều bụi phải cần đến nó để không hít nhiều bụi vào làm cho phổi nặng ký thêm ra, cũng là để tránh bệnh đường phổi về sau. Ở Việt Nam ta thì nhất về chuyện đó, vì khi làm đường đổ đất cát đầy nhưng không có xe rưới nước nên “bụi bay đầy trời” khiến ai cũng ngộp thở, vì thế mà sinh ra “phải thủ thế” nên cái bịt mũi được thay bằng “khẩu trang” cho nó đẹp và mỹ miều hơn. Song nắng cháy trên đầu vào những ngày “hạ nắng” khiến những cô nàng phát minh ra nón rộng vành, cùng những chiếc găng tay dài để bảo vệ làn da không bị ăn nắng và giữ được cái trắng trẻo, xinh xinh của người con gái, hay thay vào đó là miếng vải xéo được cột chặt vào sau ót, thế là các cô nàng Việt Nam thành đệ tử của đạo phái Ninja bên Nhựt. Rồi cái khẩu trang ấy lại chạy sang nước ngoài theo cư dân tha phương đi vào các nông trại trên xứ người cho những ai bị dị ứng với cây cà, phấn bụi. Cái khẩu trang bằng vải đó nó vẫn tốt hơn là những cái khẩu trang của các người thợ làm trong hãng xưởng. Thế rồi cái khẩu trang hơi xa lạ đối với người ngoại quốc dần cũng được quen mắt đi.

Nhưng rồi đột nhiên một cái, khẩu trang lại phát triển khắp nơi trên thế giới bùng theo dịch bệnh có xuất xứ từ cái đất Vũ Hán ở bên Tàu. Vốn là không biết như thế nào đó mà tại Thành Phố Vũ Hán phát sinh một bệnh lạ từ hôm 8/12/2019 với bệnh nhân tên là Huang, 23 tuổi. Bác Sĩ Nhãn Khoa Lý Văn Lượng có đề cập đến bệnh đó với 150 người bạn cũ, sau đó bị Quan chức Y tế triệu tập, khiển trách; và phải ký biên bản với Cảnh Sát vào ngày 3/1/20. Trung Quốc báo cho cơ quan Quốc Tế WHO và đóng cửa chợ Thủy sản. Ngày 7/1/2020 Trung Quốc xác định bệnh do chủng loại Corona mới (nCoV) và ngày 9/1/20 có trường hợp chết người đầu tiên. Thế rồi bệnh lan đến Bắc Kinh, Thẩm Quyến vào ngày 20/1/21. Sang ngày 23/1/21 Thành Phố Vũ Hán bị phong tỏa trong khi 5 triệu người khác đã tỏa ra khắp nơi; Bí Thư Thành Ủy bị bãi chức. Bệnh lan tỏa theo số người đi ra từ Vũ Hán gieo rắc một số nơi trên thế giới, theo cùng với “cái khẩu trang” để bảo vệ cho sự lan truyền, mặc dù vậy số người bệnh lẫn người chết tăng dần theo ngày tháng!

Lúc đầu, “cái khẩu trang” bị kỳ thị vì sự kỳ quái trên lỗ mũi, miệng con người, nhưng sau đó nó mang thêm tính chất sắc tộc vì sắc tộc mang bệnh đến cho thiên hạ. Nhưng cuối cùng người ta đành thuận theo “ý trời” mà lo bảo vệ tính mạng mình hơn là cái sắc tộc. Cuối cùng con người trở thành một sinh vật “tự mình hại mình” và bao nhiêu người cùng nhau mang một hình tướng quái dị trên mặt của mình mà không một sinh vật nào khác làm được! Cái bệnh dịch quái ác vẫn tiếp tục lan rộng khắp các quốc gia trên toàn thế giới làm con người điêu đứng để đối phó, các chính phủ lúng túng, loay hoay trong phương pháp ngăn ngừa dịch mà nơi xuất phát cứ mãi “chối tội” và tìm cách đổ qua cho người khác, bất hợp tác trong việc tìm “nguyên nhân từ đầu”! Thế là một chứng bệnh của thế giới vẫn “vòng vo tam quốc” không đi tới đâu cả, làm người ta phong tỏa riết muốn chết dân lành, mọi sinh hoạt, phát triển kinh tế đều bị đình trệ. Sự đối phó cuộc sống cả hai năm trời đăng đẳng, may mà lệnh khẩn cấp tìm kiếm thuốc chủng ngừa được ban hành để các chức trách có bổn phận nghiên cứu “vaccine” gấp rút hoàn thành. Nhưng cái “dị tướng” trên mặt vẫn hãy còn. Thế kỷ 21 là thế kỷ của cái “khẩu trang”, là thế kỷ của cái “tàn ác”, “lọc lừa”, “phản đạo đức” của những kẻ ích kỷ, những con người chỉ biết “muốn thống trị người khác, bất chấp mọi thủ đoạn vô nhân” mà họ lấy cái “cứu cánh biện minh cho phương tiện”! “Lấy hung tàn" để khống chế thế gian!

 

Đồ Ngông,

01/07/2022.

 

 


*Khung Trời Kỷ Niệm! (3)


 Không lâu sau đó, thì hai đứa em của tôi lên cơn nóng sốt, chúng qua đời cách nhau không xa. Má trở nên buồn rầu, nhưng vẫn duy trì bán ở chợ, còn ba đi xuống Sài gòn để đi xe ba-gác, chở cát, gạch, ngói, vật liệu xi-măng cho khách hàng ở tiệm Cô Ba Thưa, nhà chỉ có hai má con. Đêm nọ, khi tôi ngủ má có chuyện lên nhà Chú Ba Oanh gần đó. Nhưng khi vừa ra cửa về thì có chuyện trên đồn bắn xuống liên tu và thụt tăm-lông (phóng lựu) xuống nữa, khiến bà không về được. Tôi vẫn yên ngủ mà chẳng bị hề hấn gì. Thật là hú hồn! Nếu không, thì bây giờ đâu có tôi ngồi để viết chuyện hôm nay!

Thôi kể chuyện chiến tranh xong rồi, tôi sẽ kể tiếp chuyện đi học. Tôi được lên lớp Tư! Như đã nói ở trên Lớp Tư là lớp mà Cô Giáo Khai, tức là vợ Thầy Khai phụ trách. Theo lề lối hồi xưa, ông bà mình có câu “Thương cho roi cho vọt, Ghét cho ngọt cho bùi”, quan niệm ấy được ghi ngay cả trong tục ngữ ca dao của mình nữa cơ mà. Không biết điều ấy có phải là quan niệm của mấy ông Đồ ngày xưa không, khi mấy ổng theo nề nếp của Nho giáo mà ghép học trò vào khuôn khổ để học giỏi, học cho hay. Cho nên cô giáo Khai cũng nghiêm khắc như nhiều người khác. Đối với Thầy Giáo Sáu ít khi khẻ (đánh trên tay) học trò, chắc có lẽ Thầy dễ hơn, hay học trò không có bài vở nhiều, vì vậy mà không có nhiều cái để thuộc. Còn ở Lớp Tư nầy học rất nhiều môn: Lịch sử, Địa Lý, Thường Thức, Tập Đọc, Học Thuộc Lòng, Toán Pháp, có khi Toán Đố nữa và vài môn khác như Tập Viết, Chính Tả, Đức Dục chẳng hạn. Vì vậy học trò về nhà phải học thuộc để lên trên bàn cô mà trả bài. Nói lên bàn Cô trả bài, không có nghĩa là đứng trên bàn của cô, mà chỉ là đem vở bài viết của mình tới bàn của cô, đưa vở cho Cô xem, rồi mình đứng kế bên, xa ra một chút, khoanh tay lễ phép đọc thuộc lòng cho Cô dò theo và chấm điểm. Nội cái khoanh tay mỗi đứa một cách, nếu ai để ý cũng thấy ngộ nghĩnh, có khi đến tức cười mà đám học trò tụi tui gọi là “móc nách” chứ không phải là khoanh tay. Có đứa thì khoanh tay mà cong vai lên hay là khoanh tay trong tư thế khúm núm sợ sệt. Tất nhiên là tôi không biết tôi đã khoanh tay như thế nào, nhưng không thấy đứa nào ghẹo là biết mình ổn rồi. Mà cái chuyện khoanh tay là chuyện cơ bản, còn chuyện học thuộc bài hay không mới là chuyện quan trọng. Chuyện đó mới là chuyện bị đòn, bị khẻ nhiều hay ít, bị quỳ gối lâu hay mau mà thôi. Đi học, chuyện học mới là chính!

Nói đến đây, Quý vị có mường tượng ra được không? Tức là khi được kêu tên lên trả bài. Có thuộc thì được điểm đi về. Tùy theo thuộc ít thuộc nhiều; đọc vấp váp, lựng khựng hay được nhắc như thế nào mà được điểm cao hay thấp. Còn học không thuộc ư? Thì đứng vào góc tường hay quay mặt vào vách mà học. Tới khi hết lúc trả bài thì đọc lại cho cô nghe. Không được nữa thì bị đòn. Xè tay ra, hay chúm mấy đầu ngón tay lại cho cô khẻ. Đau lắm nghe! Khôn hồn ráng học thuộc bài đi. Nói như vậy có lẽ Quý vị thấy cái đặc điểm của Cô Giáo Khai rồi chứ? Đặc điểm ấy là khẻ trên đầu ngón tay! Nghe nói trước nữa cái cách của Thầy Cô là dùng những hình phạt làm cho học sinh ghê sợ mà lo học, trong đó có quỳ gối trênvỏ sầu riêng, vỏ mít; khẻ trên bàn tay hay đầu ngón tay và bắt nằm dài trên bàn và dùng roi mây đánh đít dù mạnh hay nhẹ. Tới thời tôi biết thì không còn quỳ trên hai loại vỏ nữa, ít trường hợp nằm dài trên bàn, chỉ còn khẻ mà khẻ trên đầu ngón tay tôi đã được hưởng nhiều lần với Cô Giáo Khai! Mà cũng chính vì vậy học trò cố gắng học hết mình để khỏi bị đòn! Nhớ có một lần về bài Học Thuộc Lòng chỉ có bốn câu, mà chỉ có một người đọc thuộc mà thôi. Đó là anh Mên con ông Năm Mứt người Tàu bán thuốc rê trong giấy tên Liêu Việt Hà, còn bao nhiêu thì đứng trong góc phòng mà học. Ai thuộc thì đọc trước đi về chỗ, ai chưa thuộc thì đứng học tiếp. Cuối cùng ai không thuộc phải chịu chúm bàn tay đưa cô khẻ mấy cái mới được về. Tôi không nhớ được bốn câu đó vì nó khó học quá mà chỉ nhớ được bốn câu đầu (phấn 1) và cái tựa bài, còn 4 câu sau (phần 2 hay phần tiếp theo) thì không nhớ, chính 4 câu đó mới là phần “ăn đòn”. Phần đầu như thế nầy và phần hai, nếu ai biết thì xin ráp vào:

Con Voi Và Con Chuột Lắc.

 

Con voi cao lớn dềnh dàng

Tưởng rằng anh chị trong làng bốn chân

Ra đường muôn thú hãi hùng

Lại càng hừng chí vô cùng nghênh ngang.

 

Trí nhớ tôi vốn dĩ tồi tệ: Học thì lâu thuộc, mà lại mau quên như tôi đã trình bày ở trên, lúc ba dạy cho tập đếm số từ một tới mười. Thế mà trong thời lớp nầy, tôi lại nhớ được phần ấy cũng như bài sau:

Mùa Đông Chiến Sĩ

 

Mùa Đông tháng giá

Lạnh thấu đến xương

Không chiếu không giường

Gối đất nằm sương

Cực khổ trăm đường

Ta ở hậu phương

Xiết nỗi nhớ thương!

 

Có vài câu chuyện kỷ niệm ở đây khiến lòng tôi khó phai, ngẫm nghĩ lại tức cười đồng thời cũng nhiều thương hại. Ngày nọ, sau khi tan học, như thường lệ học trò sắp hàng rồi từ từ hàng ngũ kéo nhau ra về. Đến ngã ba chợ với đồn gật đầu chào Thầy Khai (đứng tại đó) mới tẽ ra rã hàng ra về. Về đến nhà, chưa vào tới trong, tôi vội khoe với Út Xang: “Út ơi! Hôm nay tập viết con viết bậy bậy mà bà cô cũng cho con 8 điểm”. Cô Út tôi giơ tay lên bảo tôi im, khi tôi tới gần, Út tôi mới nói: “Chết cha mầy bây giờ, bả ở đằng sau đó”, vừa lúc đó Cô Giáo Khai từ đằng sau nhà đi lên. Tôi giựt mình, khoanh tay thưa cô mà lo. Khi Cô đi về, tôi hỏi Cô Út: “Út, Út bả xuống hồi nào vậy?”. “Bả xuống kiếm má mầy đó!”. Thực tình tôi không biết Cô có quen với má, thôi thì có sao thì chịu vậy. Còn chữ viết của tôi cũng là xứng đáng với số điểm ấy, dù không có hoa tay nhưng chữ của tôi có nhiều bạn bè vẫn khen là đẹp!

Một câu chuyện khác thương tâm hơn. Quý vị biết học trò trong quê mà, lúc đi học thường hơi lớn tuổi, trong đó có chị kia học chung, không biết chị thực sự là biết yêu chưa, nhưng một ngày nọ cái thư tình của chị với anh bên trường Tàu lọt vào tay của một trò khác. Trò ấy đưa cho Cô. Thế rồi một màn kịch diễn ra. Cô kêu chị đó lên, bắt quỳ gối trên băng ngồi, dán lá thư trên trán, rồi nhờ một đứa đọc lớn cho cả lớp nghe. Cứ mỗi câu thì lại đánh cái thùng thiếc vài tiếng làm chị khóc sướt mướt. Đại ý cái thư là sự hẹn hò trong cơn mưa, đợi hoài sao không tới. Sau đợt đó là chị nghỉ học luôn, không còn trở lại lớp nữa!

Còn cái Thằng Sinh nữa, nó ngồi kế bên tôi mà nó thường hay nói bậy và lí lắc lắm. Nó có anh đi lính đóng ở trong bót Cây Trắc đường vô xóm Tân An, không biết anh nó giỏi hát hay nhạc không mà nó ca cũng hay. Cứ gần cuối giờ là nó hát bên lỗ tay tôi: “Chiều ơi! Lúc chiều về bà đái trong ve, ông bà về ổng tưởng la-ve ổng quứt liền” hay nó đổi món “Chiều ơi! Lúc chiều về bà ỉa trong lu, ông bà về ổng tưởng la-gu ổng quứt liền” khiến tôi nhịn cười không được, nhưng không dám cười lớn vì sợ chúm tay cho Cô Giáo khẻ! Rồi qua một đêm nọ Việt Minh đánh đồn Cây Trắc, thằng Sinh không còn được anh chở ra học, không biết nó chết hay còn, tôi không được nghe những câu hát “tầm bậy” của nó nữa! Với cô giáo Khai nửa năm trôi qua tôi cũng như một số bạn không đủ sức lên lớp đành ngồi học thêm nửa năm nữa! Lần nầy ít bị đòn hơn!