Thursday, December 19, 2019

*Báo Động!



Người Việt làm chấn động địa cầu
39 người chết trong toa xe đông lạnh
Khi nhập cảnh lậu vào Anh!
Rồi 4 người cùng nhau đâm chém ở Pattaya
Trên đất Thái Lan để bao nhiêu người hoảng sợ.
Lại thêm nữa, cô nàng ăn cắp
Hơn 8000 mỹ phẩm ở Nhật,
Có cả công viên treo bảng từ chối không cho người Việt,
Ôi! Cảnh thật là đau!
Những người Việt du lịch đến Đài Loan
Rồi bỗng dưng biến mất
Kể cả chuyên cơ phái đoàn Quốc Hội
Vài người không trở lại khi thăm viếng Đại Hàn!
Chuyện sinh viên ở Đại Hàn, người trồng “cỏ” ở Anh
Rất nhiều và rất nhiều nữa
Sao người Việt sinh tệ trong thế giới con người
Đem bêu xấu thanh danh cho dân tộc
Còn đâu “Hiếu khách, Tử tế, Anh hùng, Cao quý, Dũng cảm, Đảm đang…”
Mình chỉ tự ca, tự tôn vinh, kiêu hãnh
Nhưng sự thực gần như trái lại!
Ai sẽ chịu trách nhiệm?
Và hậu quả ấy bỡi vì ai?
Có phải chăng do vì hoàn cảnh,
Hoặc từ sự hướng dẫn ban đầu?
Tôi suy nghĩ, nhưng rồi không thể biết!

Đồ Ngông,
20/12/2019.




*Tham Vọng!



Nói đến “Tham Vọng” thì chắc ai cũng đều có tham vọng cả, từ đứa nhỏ cho đến người lớn. Đứa nhỏ bé “muốn giành đồ chơi hết, không cho bạn mình”; người lớn thì muốn “ai cũng phải theo ý mình”! Từ trước tôi chỉ xem đó là những tâm tính của từng con người, nên chẳng để ý gì cho lắm! Rồi đến một ngày nào đó, với cơ duyên, tôi lại chui vào cái là lạ của tâm lý học. Với Tâm Lý Học của Triết học thì ít ra tôi cũng được học từ chương trình lớp Đệ Nhất (Lớp 12) của bậc Trung Học rồi, song những điều tôi học chỉ phân tích, cung cấp kiến thức để mình có thể phân biệt hoặc nhận biết tổng quát thôi. “Cái là lạ” của Tâm Lý Học ở đây là lúc tôi tiếp cận với Tâm Lý Học Phật Giáo hay đúng hơn là Duy Thức Học. Duy Thức Học đã mở cho tôi một cái nhìn mới về con người, mọi vật và phần lớn những gì xảy ra trong cuộc đời nầy. Thực sự tôi chẳng hiểu nhiều gì về những điều siêu hình trong Duy Thức. Nhưng với cái phân tích tổng quát đã làm cho tôi có thể hiểu được nhiều vấn đề. Trong đó các “Điều chính yếu” (Tâm Vương) chỉ khác với Triết học chút ít: Nếu triết học có “ngũ quan” (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân), ý thức; thì trong Duy Thức Học lại có thêm hai phần khác là Mạt-Na-Thức (Thức Thứ Bảy cũng là Ý Căn), và A-Lại-Da-Thức (Thức Thứ Tám hay Tàng Thức). Lúc đầu tôi phân vân giữa Ý Thức và Thức Thứ Bảy vì cả hai đều là “Ý Thức”, thế nó lại khác nhau như thế nào? Rồi một ngày tôi nhớ lại chuyện Tây Du Ký thì Tôn Hành Giả tượng trưng cho Ý Thức (nhận biết và sáng suốt trong nhiều vấn đề), còn Trư Bát Giới cũng là Ý thức (nhưng các ý thức ấy chỉ giành và đem lại quyền lợi riêng cho mình), thế là đối với riêng tôi hầu như tôi tìm được sự phân giải mà chẳng biết là đúng hay không?
Con người hay mọi sinh vật đều có thân xác, trên thân xác ấy có các giác quan: Để nhìn ra bên ngoài thì có mắt (thị giác), mũi để đánh hơi, biết mùi (khứu giác), lưỡi để nếm các vị (vị giác), tai để nghe các âm thanh, tiếng động (Thính giác), da hay thân xác để nhận biết khi tiếp xúc, va chạm (xúc giác). Và từ những giác quan đó mà con người mới nhận định, có ý thức và các hành động tiếp theo, mà trong Duy Thức gọi các giác quan là Căn để tiếp xúc với trần cảnh bên ngoài gọi là “sáu Trần” mà nhận biết trần cảnh như thế nào qua “sáu Thức”. Với Ý Thức hay Thức Thứ Sáu thì khi người ta tìm được, nhận biết những điều mà họ khám phá ra, rồi lúc họ Ứng dụng hay Hành xử đều không có mục đích dành riêng cho mình, đôi khi đem lại ích lợi cho người khác, nhân loại giống như các nhà Khoa Học, các nhà Bác Học thậm chí đến những Triết gia. Nhưng nếu những ai muốn hành xử, ứng dụng giành riêng cho mình, cho nhóm hay cho quốc gia mình thì đó là họ đi về “Thức Thứ Bảy” hay Ma-Nạt-Thức.
“Tham Vọng” là gì? Tham là ham, tham lam; Vọng là mong muốn. Tham vọng là ham muốn, tham lam nhiều hơn nữa, vô bờ bến. Như vậy, vì con người có thân xác nên cần có những nhu cầu để đáp ứng cho thân xác như về ăn, mặc, nhu cầu sinh lý. Lúc đầu chỉ cần “ăn no, mặc ấm”, rồi xa hơn là “ăn ngon, mặc đẹp”, rồi xa hơn nữa. Đó là lòng tham. Cái lòng tham không dừng lại cho nên trong tục ngữ ca dao của ông bà ta mới có câu “Túi tham không đáy”, vì “không đáy” nên xã hội loài người đầy dẫy sự chiếm đoạt, tham nhũng, cướp công, hoạnh họe, áp bức, vòi vĩnh… người khác bất chấp những hành động tội ác giống như trong Đạo Phật phân tích. Vì “Tham” nên cần chiếm nhiều, nhiều hơn nữa; nếu bị cản trở thì trở nên “sân hận”, rồi từ “sân hận” quá trở nên không kiểm soát, kìm hãm được mình trở nên “si mê” mà sinh ra các hành động “Sát (giết người), Đạo (trộm cướp), Dâm (làm việc không chính đáng), Vọng (làm càn, sằn bậy, lừa đảo)” để gây “Nhân” và phải trả “Quả”, và cũng từ đó bắt đầu cho các sự việc xảy ra tiếp theo theo thuyết “Trùng trùng Duyên Khởi”.
Tham vọng của từng con người (của Ta) nó chưa quan trọng bằng Tham vọng của nhóm người, của một dân tộc hay quốc gia (của chúng Ta). Nếu một người muốn vươn lên để trở thành nhân tài đem sức cống hiến cho dân tộc, nhân loại thì sự tham vọng đó đáng được vinh danh, ghi nhớ. Còn tham vọng lên cao để điều khiển, bắt thiên hạ phục tùng, phục vụ cho ước muốn của mình thì điều ấy chưa hẳn là tốt. Do đó mà trong Đạo Phật đặt nặng vấn đề “Vô Ngã” tức là “Không Ta”. Nếu nghĩ đến “Không Ta” thì người ta sẽ phục vụ cho Tha nhân như những nhà “Tôn Giáo”, hay những nhà Bác Học, Khoa Học lẫn Triết Gia; Và cũng “Không Ta” khi xem thân xác của mình là không thật, chỉ do các yếu tố: Đất, Lửa, Gió, Nước kết hợp tạm thời trong mấy mươi, hoặc trăm năm thì người ta mới không cần đến tìm cách cho thân xác mình được sung sướng hay bắt người ta phải phục vụ cho mình!
Nhưng trong cuộc đời nầy không có bao nhiêu người như vậy! Cái “Ta” được thể hiện ở mọi nơi, cái Ta “anh hùng, dũng cảm, hơn người, nhất thiên hạ, bá chủ, thiên tài, kiêu hãnh…” luôn được thể hiện khắp mọi nơi trên địa cầu nầy, từ đó mới sinh ra những biến cố lớn lao trên thế giới như một Cesar, Constantine, Charlemagne, Napoleon, Hitler… hay Tần Thủy Hoàng, Hán Cao Tổ, Thành Cát Tư Hãn vân vân…Đó chỉ là trong phạm vi cái Ta cá nhân mà đã là như vậy!
Còn cái “Của Chúng Ta” thì thế nào? Với một tập đoàn “Cái Ta” thì sẽ khủng khiếp hơn nhiều! Một cái Ta thì sẽ có nhiều sơ hở, có lúc sớm bị tiêu vong, chứ với “Của Chúng Ta”, qua sự tính toán của nhiều người, kế hoạch của một Tập Đoàn thì nhân loại sẽ đi vào giai đoạn đen tối không biết đến khi nào, trong khi qua các sự thực hiện các kế hoạch lại được che đậy tinh vi bằng những mỹ từ “hòa bình, giúp đỡ, tương trợ, cùng nhau có lợi…”. Lại thêm luôn khuấy động tinh thần dân tộc thì chắc chắn họ muốn dân tộc hay đất nước họ sẽ chiếm lĩnh cả địa cầu để thực hiện “một giấc mơ” về chủng tộc! Những nước hùng mạnh chưa chắc sẽ ngăn cản nổi thì nói chi đến các nước nhỏ, cho nên họ muốn vẽ ra sao thì vẽ, nói thế nào thì nói dù là “nói một đàng làm một nẽo” để lừa đảo thiên hạ và thế giới!
Đó cũng là một cuộc cờ!

Đồ Ngông,
20/12/2019.




Monday, December 16, 2019

*Quê Người! (25)



Những người mới tới Nam Úc để định cư đa số đều ở tại trại tiếp cư Pennington nầy trong một thời gian, rồi sau đó tùy theo tình trạng quen biết, có thân nhân giúp đỡ thì có thể ra ngoài mà chia phòng với người khác để được nhẹ chi phí hơn; ngoại trừ những người đi sang Úc bằng sự bảo lãnh của gia đình thì họ có nơi ăn chốn ở sẵn không cần ở tại trại tiếp cư, nhưng vài thủ tục họ vẫn phải vào trong nầy làm. Trong “list” tôi cũng có vài người như vậy!
Tính ra thì chúng tôi ở trại tiếp cư cũng cả tháng rồi, mọi thủ tục về giấy tờ, khám sức khỏe đều hoàn tất, bây giờ chỉ chờ đợi để học Anh Văn hầu mai sau có thể giao tiếp được với người ta. Nhưng thời gian nầy mọi trường học đều vào thời “nghỉ học kỳ” nên lớp học phải đợi chờ. Mọi ngày cứ đến buổi thì rủ nhau lên căng-tin rồi về phòng, thật là buồn chán! Sự rảnh rang càng làm cho mình nôn nóng hơn về chuyện gia đình ở Việt Nam vì mình chẳng giúp cho họ được gì, trong khi mình đang ở đây cũng chưa biết mình sẽ ra sao?
Rồi ngày học “Đời Sống Mới” với ông Y cũng đến. Tất nhiên lớp khá đông. Phòng học cùng dãy nhà tiền chế với văn phòng làm việc của “nhân viên di trú” trong trại. Ông Y là một trong hai nhân viên “Sở Di Trú” làm việc tại Pennington, ông phụ trách giúp đỡ cho người Việt, và một ông khác phụ trách cho người Kampuchia về các vấn đề di trú. Lớp học nầy là do “Sở Di Trú” phụ trách chứ không phải của bên ngành Giáo Dục. Các vấn đề được đặt ra là những chi tiết giao tiếp với người Úc kể cả các vấn đề liên quan đến giấy tờ bảo lãnh, hay cách sống của Úc để mình sống cho thích hợp với họ. Có những cách diễn tả của người Úc khác ý nghĩa với của người Việt, khi mình sử dụng theo thhói quen làm cho người ta dễ hiểu lầm, nên cẩn thận. Anh Y kể chuyện rất duyên dáng, nói chuyện thân mật và cách diễn đạt của anh dễ hiểu khiến cho mọi người thích thú và có cảm tình với anh ngay từ buổi đầu. Khi đến giờ nghỉ ngơi tôi đến bên anh hỏi ngày xưa anh có đi dạy không? Anh nói đi dạy ở Bình Long. Tôi mới hỏi tiếp là sau trường dời về Gò Đậu của tỉnh Bình Dương và rồi anh có công tác trong trại tiếp cư trong “Mùa Hè đỏ lửa” của năm 1973. (Tôi xin đóng ngoặc nơi đây để giải thích vì sao gọi là “Mùa hè Đỏ Lửa”: Vì sau khi cuộc Hội Nghị “Chấm Dứt Chiến Tranh và Tái Lập Hòa Bình tại Việt Nam” ở Paris được ký kết thì Hiệp Định sẽ được thực hiện vào Mùa Hè của năm 1973, nhưng vì trong Hiệp Định qui định Lực lượng nơi nào ở yên trong phạm vi chiếm đóng của lực lượng ấy, cho nên ngay trước khi Hiệp Định có hiệu lực các lực lượng cố chiếm để “Dành dân, lấn đất, cắm cờ”, do vậy mà cuộc chiến lại càng ác liệt hơn bao giờ hết mà ở Miền Đông Nam Phần hai Tỉnh Bình Long, Phước Long và các quận phía Bắc Tỉnh Bình Dương là nặng nhất. Nói như vậy không có nghĩa là cuộc chiến chỉ riêng ở Miền Đông, mà khắp cả Miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ đều đầy “Tiếng súng, lửa đạn” cho nên mới gọi là “Mùa Hè Đỏ Lửa”). Anh hỏi: “Sao tôi biết?”. Tôi mới nói: “Ngày đó trong các đêm trực ở trại tôi có nghe nói đến tên anh, vì tên anh rất dễ nhớ chỉ có một chữ Y dài thôi”! Không ngờ tôi lại gặp anh ở đây! Rồi tôi anh nói chuyện về ngày xưa trong chốc lát, để anh còn thì giờ đi về phòng uống nước, nghỉ ngơi. Thế là hai người đặc biệt nhất trong thời kỳ công tác ở trại Tiếp Cư Gò Đậu, thời kỳ khi mà Hiệp Định Đình Chiến Paris bắt đầu được thi hành để  cuộc chiến ở Việt Nam tạm ngưng, nhưng không ngờ trở thành cuộc chiến giành giựt khốc liệt nhất khiến cho dân hai tỉnh Bình Long và Phước Long phải tan nát nhà cửa, cố thoát chạy khỏi vòng chiến tranh để về Bình Dương và Trại Tiếp Cư Gò Đậu được thành lập để tiếp nhận họ. Và phần lớn nhà giáo chúng tôi được lệnh vào công tác trong trại để giúp đỡ về hành chánh cũng như phân phát các nhu yếu phẩm cứu trợ. Ở đó, tôi có dịp nghe đến “Thằng Y” và “Hiệp Lùn”, không ngờ nay trên xứ người tôi lại gặp cả hai ở trên đất Nam Úc nầy! Xong buổi học, anh Y cho biết vấn đề sẽ học trong lần sau và anh cũng cho hay là chúng tôi sẽ gần học lớp Anh Văn rồi vì học sinh chuẩn bị vào học kỳ mới. Có buổi học nầy cũng giúp cho chúng tôi đỡ buồn chán hơn và phát họa trong đầu vài cách ứng xử để thích ứng với nếp sống theo kiểu Tây Phương rất là xa lạ. Tôi có cảm tưởng như mình bắt đầu “rọ rạy” cho một bước đầu tiên trong cuộc sống mới sau thời kỳ “giấc ngủ đông miên”!
Bây giờ tôi không còn nôn nóng trông chờ vào giấy tờ từ bên nhà gởi qua nữa. Trông chờ lắm thì cũng vậy thôi. Thư từ đi thì không biết đến bao lâu sẽ tới, và gởi ra thì cũng chẳng biết thế nào mặc dù giá cả rất mắc. Vả lại, trong lúc nầy thì Nhà Nước Việt Nam cũng đã “ngưng cứu xét hồ sơ xuất ngoại theo diện bảo lãnh” rồi! Thôi thì bao lâu thì lâu, đành phải thí cho số phận! Mình ra đi chẳng là giao cho số phận hay sao? Nghĩ rồi tôi cũng tự tức cười: Tại sao trong chiến tranh ác liệt mình chẳng phải lưu vong, mà khi chiến tranh chấm dứt, thống nhất đất nước thì bao nhiêu người lại bỏ nước ra đi, không cùng nhau xây dựng lại đất nước. Cũng tại việc xây dựng “Xã Hội Chủ Nghĩa”, và “Quan Điểm Hận Thù” mà ra. Những người tị nạn trong trại nầy phần lớn từ những nước Cộng Sản Ba Lan, Tàu Tân Cương, Liên Xô rồi Việt Nam, Kampuchia, Lào, thỉnh thoảng có vài người từ vài nơi khác. Ai có thân nhân ở bên ngoài thì ra trại nhanh hơn, còn những ai “cô thân gối chiếc” thì ở lâu hơn tùy theo điều kiện của mình!
Để chuẩn bị cho những lớp Anh Văn được mở ra vào học kỳ mới, chúng tôi phải trải qua một cuộc phỏng vấn với các Thầy Cô người Úc để họ định theo trình độ mà xếp lớp. Nghe nói ông Hiệu Trưởng trường là ông Sang người Việt, và có thầy Tỉnh dạy ở đây cũng khá lâu. Các lớp Tiếng Anh nầy là cho những người mới tới gọi là ESL, viết tắt cho chữ English as Second Language vì những người học các lớp nầy là những người đã có ngôn ngữ khác là Tiếng mẹ đẻ và Tiếng Anh chỉ là ngôn ngữ thứ hai.
Tôi không hiểu chuyện nghĩ học kỳ nên lần gặp ông Y trong lần học Đời Sống Mới kế tiếp mới hỏi anh, anh cho biết: Ở Úc không có học suốt thời gian trong năm học để tới hè mới nghỉ Hè như ở Việt Nam; mà người ta chia ra những học kỳ tương ứng với ba tháng. Học sinh học chừng 10 tuần thì nghỉ hai tuần, rồi lại vào học kỳ mới. Cuối năm thì cũng nghỉ Hè nhưng thời gian nghỉ không dài lắm. Thế là tôi lại học thêm được một điều mới! Chính vì vậy mà chúng tôi phải kéo dài thời gian ở không có nhiều buồn chán!
Ở trong trại Tiếp Cư nầy cũng có cái Câu Lạc Bộ để người ta có thể đánh Bida, banh bong hay xem truyền hình hoặc uống cà phê, ngồi tán gẫu. Nhưng vì có nhiều thanh niên ồn ào và đang trong thời kỳ mà phong trào kỳ thị dâng cao cho nên chúng tôi ít hay bén mảng đến, chỉ khi nào muốn giải khuây thì kéo đến đó trong chốc lát rồi trở về phòng. Ngoài ra tôi có nghe nói bên phòng đằng kia nơi đất trống có lớp võ đường Thái Cực Đạo, mỗi tuần hình như dạy hai buổi do Anh Mai Hồng Vân nào đó cũng người Bình Dương đang hướng dẫn, nhưng tôi cũng không đến đó vì mình không có khiếu. Cứ quanh quẩn trong trung tâm từ Căng-tin, Câu lạc bộ cho đến người thân quen. Nay có thêm lớp Đời Sống Mới nên cuộc sống tha hương đỡ buồn hơn. Còn đi ra ngoài thì “lạ nước lạ cái” lại trong lúc kỳ thị dâng cao nên không dám, thà rúc vào cái vỏ cho an toàn, chỉ khi nào cần thiết thì hai ba đứa rủ đi cùng.
Rồi ngày tựu trường cũng đến. Lớp học được khoảng ba chục người đa số là người Việt, vài người Kampuchia, một người Lào cùng vài người Ba Lan. Tôi, Bác Vỹ, Bác Phương, Tịnh, Kim, Liêm, Chú Nhiệm và một số người qua chung “list” cùng lớp. Thành, Kiệt, Anh Ba Nguyên học lớp bên kia. Người dạy lớp tôi là bà Helena gốc người Ba Lan. Thú thật, về viết thì tôi còn đỡ hơn chứ về nghe tôi rất dở nên không mấy phản ứng nhanh, lại cộng thêm mình phải dịch nghĩa trong đầu óc xong lại tìm câu trả lời bằng tiếng Việt mới dịch sang tiếng Anh, rồi mới trả lời. Do đó chuyện học của tôi rất là vất vả. Lúc ấy tôi mới tiếc là khi ở đảo hay trại Tị nạn mình không tham dự vào các lớp học để bây giờ được phản ứng nhanh hơn. Tiếc chỉ để tiếc thôi, chứ mọi việc cũng qua rồi! Học từ Thứ Hai cho đến ngày Thứ Sáu vào mỗi buổi sáng. Thứ Bảy và Chúa Nhật nghỉ. Chương trình học thì do Cô giáo phát bài bằng những đoạn văn nào đó từ trong truyện hay báo, sách mà cô chọn rồi in ra phát cho từng người. Dựa vào bài đó mà cô đặt câu hỏi, cũng như giải nghĩa về từ vựng, hay chúng tôi cùng nhau thảo luận về đề tài. Gần như cô muốn cho chúng tôi tập về đàm thoại nhiều hơn.
Tuy nhiên, với người Việt của mình nói chung thì viết hay làm bài tương đối khá, có lẽ do căn bản được học từ trường học trước kia dù là học Sinh ngữ 1 hay Sinh ngữ 2; nhưng về trả lời vấn đáp thì có nhiều chậm chạp và không đúng vì cách phát âm tiếng mẹ đẻ ảnh hưởng vào. Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm nên khi phát âm nó trở nên ngắn, gọn mà Tiếng Anh là ngôn ngữ đa âm nó cần đến sự mềm mại của lưỡi và miệng. Chính vì thế mà sự học Tiếng Anh của người mình cần luyện tập nhiều hơn về giọng đọc, lớn tuổi rồi thì trí nhớ cũng giảm đi nên chuyện học Từ Vựng là cả một vấn đề. Nếu không đủ Từ vựng thì không thể diễn tả được cái ý của mình, giọng đọc không đúng thì người nghe không thể hiểu điều mình muốn nói. Đã thế mà thói quen của mình là chú ý về Văn Phạm nên chuyện học đàm thoại thêm nhiều trở ngại. Có lần cô giáo kêu chúng tôi cứ học thuộc cái câu trả lời có sẵn để trả lời câu hỏi theo cách phản ứng tự nhiên, cứ nghe câu hỏi thì trả lời thẳng không cần suy nghĩ, rồi từ từ về sau sẽ nghĩ đến Văn Phạm. Còn cái miệng không quen với ngôn ngữ đa âm thì hãy tập nhiều lần giống như cô cho thí dụ: “I go to the bank”, đọc càng ngày càng nhanh, xong nối dài câu ấy ra “to get some money” rồi ráp lại đọc cho nhanh hơn, và “to buy something”. Theo cách đó thì sự đọc Tiếng Anh của chúng tôi có tiến bộ hơn, nhưng nó chỉ là tương đối thôi. Từ đó tôi lại nhớ những người Tàu sống trên đất Việt Nam lâu đời mà còn nói tiếng Việt không rành thì bây giờ chúng tôi cũng sẽ lâm vào tình trạng giống như vậy trên xứ Úc là quê hương thứ hai nầy! Chính những người Cộng Sản đã cho chúng tôi một quê hương thứ hai! Quê hương chính chỉ để “dành riêng cho họ”. Quê hương có hùng mạnh, giàu có hay nghèo đói, mất nước cũng do chính họ mà thôi!
Thời tiết bây giờ càng vào sâu trong mùa Thu, những cây có lá vàng, trở màu đều đã rụng cả rồi, cành trơ ra để lộ những mái nhà đỏ, xanh, đen, màu tôn hay màu khác mà người chủ thích. Có chỗ cây rụng lá để lộ cả vách tường màu gạch đỏ mà trước kia tôi chỉ nhìn thấy trên hình ảnh trong các sách hay tạp chí về mùa Thu ở các xứ miền Ôn Đới. Bây giờ tôi mới được nhìn thực tế bên ngoài! Mùa Thu với lá bay, cây trơ cành, trên trời đầy mây vần vũ, gió lành lạnh, mưa bay bay, người co ro với những quần áo ấm. Đây quả thật là một mùa Thu đầu tiên trong đời của tôi!
Càng ngày thời tiết càng lạnh, cái lạnh đầu tiên mà tôi chưa từng hưởng. Đêm đến chúng tôi mở lò sưởi ống nhiều hơn, kéo cái mền trùm kín đầu mặt vậy vẫn còn nghe lạnh, người ta nói trời dần đi vào mùa Đông. Có vài hôm nắng ấm, vậy mà những người Ba Lan lại nằm trên sân cỏ phơi nắng, trong khi đó chúng tôi vẫn còn nghe lạnh. Trọng luống này hơi bận nên cũng ít vào thăm tôi, Thành. Có hôm rảnh thì đến chở tôi, Thành về nhà ăn bún cùng Trí, Mai, Kiệt, Hường; hoặc hôm nào chở đến nhà Huynh vào buổi tối cuối tuần để xem phim. Quả thật, nơi tha hương xứ người gặp được Trọng, chị Yến và những bạn bè của họ khiến tôi, Thành nghe được ấm lòng mà quên bớt đi nỗi nhớ nhung quê nhà cũng như vợ con.

Nguyên Thảo,
12/11/2019.




Tuesday, December 10, 2019

*Lắng Lòng!



Hãy lắng lòng để nghe từng cơn bão nổi
Hãy lắng lòng cho sân hận qua đi
Hãy lắng lòng vào những khi thù ghét
Để đi tìm một cuộc sống diệu kỳ!

Hãy lắng lòng, lắng lòng trong tâm niệm
Như bao lần chướng bận đã dấy lên
Hãy bình yên như ta vừa an nghỉ
Để nhìn sâu vào tâm thức vùng miền!

Lắng lòng, hãy lắng lòng không vướng bận
Đời đấu tranh như những lúc lọc lừa
Cuộc gian dối rồi qua đi chấm dứt
Và cuối cùng cũng chỉ lại tiễn đưa!

Người vào đời với bàn tay nắm chặt
Và lớn lên cùng bao nỗi thù hằn
Danh vọng, tiền tài, yêu thương giăng mắc
Ra đi rồi lại cũng “Dế cùng trăng”!*

Đồ Ngông.

*Ngoài nghĩa địa đêm chỉ nghe dế kêu cùng trăng sáng.




Monday, December 9, 2019

*Đi Nga. (3)




Hơn một tiếng đồng hồ sau khi rời phi trường, xe buýt đưa đoàn chúng tôi vào phạm vi Thành phố Moscow. Giọng Bà Hướng Dẫn Viên nhỏ nhẹ, từ từ giải thích những nơi cần thiết mà đoàn đi tới. Đôi khi có nhiều tiếng ồn mà chúng tôi không thể nghe được rõ; nhưng điều quan trọng nhất là ai cũng lo nhìn quang cảnh bên ngoài hoặc quay phim, chụp hình hơn là nghe Bà nói. Do vậy mà cứ nghe bấp bõm chứ không lĩnh hội được nhiều. Nhưng dù gì: Có bà giải thích thì vẫn tốt hơn, thế cho nên công ty du lịch đã chọn giải pháp tối ưu đó. Vì với Bernard nếu có giỏi thì cũng không thể biết rành rẽ về các nơi đang đi tới và sẽ đi, nhất là các xứ vừa thoát ra khỏi chế độ Cộng Sản không lâu, tất nhiên Bernard lại càng mù tịt hơn nữa khi Bernard được sinh ra, lớn lên ở trên đất Mã Lai, do Mã Lai không phải là quốc gia Cộng Sản.
Xe chạy dọc theo dòng sông gọi là Moskva River, đi vào trung tâm của Thành phố. Hai bên bờ sông đều được xây bằng bê tông nên không có nơi nào là bờ thiên nhiên, cả hai bên bờ là những đường lớn xe chạy một chiều với khoảng 5 làn mà lượng xe cũng không là ít dù thời kỳ Liên Xô tan rả chẳng là xa lắm! Bà Hướng Dẫn Viên thuyết minh hoặc chỉ những nơi cần biết, hoặc giới thiệu những building, khách sạn mới được xây dựng về sau nầy ở Moscow khi xe đi ngang qua. Có nhiều cầu bắt qua sông với cách thiết kế vững chắc và có nét cổ làm tăng cái nét đẹp của con sông cùng những chiếc du thuyền đang chở hành khách tham quan trên đó. Xe buýt đưa chúng tôi đi vòng “City tour” nầy từ lúc hơn 9 giờ rưỡi, đi qua nhiều con đường, phố xá để giới thiệu khái quát về những gì mà Moscow đã có, hoặc đang thay đổi. Có lẽ Moscow khác xưa nhiều vì trong thời kỳ Cộng Sản thì chắc nơi nào cũng vậy. Trong thế giới Cộng Sản thì những tổ chức lề mề, lễ mễ, rối rắm, rườm rà làm ngăn trở bước tiến trong xã hội đang có để trở về với những thời kỳ trước đó hàng nhiều năm: Cũng như muốn tổ chức thương nghiệp thì phải đánh tư sản, rồi kiểm kê những cửa hàng bán lẽ, xong cửa hàng thương nghiệp mới thành hình. Nhưng cửa hàng thương nghiệp cũng không cung cấp đủ hàng hóa cần thiết cho đời sống dân chúng vì nông nghiệp cũng đang phải tái tổ chức thành hợp tác xã, công nghiệp thì thiếu nhiên, vật liệu đành ngưng hoạt động. Một hoàn cảnh bi đát cho mọi người dân khi xã hội phải bị chuyển đổi từ tổ chức xã hội cũ để tiến sang giai đoạn mới. Như trong thương nghiệp đôi khi phải xếp hàng cả ngày mới mua được vài thứ đồ. Điều ấy chắc Karl Max, Engel không muốn, hay là nghĩ đến vì khi mấy ông ấy khi nghiên cứu và đưa ra lý thuyết Cộng Sản là phải “cung ứng dư thừa vật chất cho toàn xã hội, cho mọi người” với một cách công bằng: “Ai cũng như ai, không có người bốc lột người”. Các ông ấy còn chia xã hội tiến lên thành hai giai đoạn: Xã Hội Chủ Nghĩa và Cộng Sản chủ Nghĩa. Ở Xã Hội Chủ Nghĩa thì câu phương châm: “Có làm có hưởng, làm ít hưởng ít làm nhiều hưởng nhiều, không làm không hưởng”, và trong Cộng Sản Chủ Nghĩa là: “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” và “Nhà nước tự tiêu vong” để từ đó thành lập một Thiên Đàng nơi hạ giới ở từng nước rồi sau đó cùng sống trong một Thế Giới Đại Đồng mà giai cấp nồng cốt là công nhân, vì công nhân là thành phần sản xuất, cung cấp cho mọi nhu cầu xã hội, và nông dân lúc ấy đã trở thành công nhân vì nông nghiệp đều được cơ giới hoá. Có thể vì lý thuyết như vậy nên Chủ Nghĩa Cộng Sản đã thu hút không biết là bao nhiêu người trí thức. Những con người có khuynh hướng công bằng xã hội đi theo và tranh đấu cho một xã hội tương lai. Nhưng ngay từ đầu khi người ta thực hiện chủ nghĩa nầy đã khiến cho cuộc sống toàn xã hội phải bị đình trệ, và thoái hóa cùng những sự phản kháng chống đối đồng loạt lại nổi lên, tâm tính con người cũng trở nên kỳ hoặc, bất thường, liều lĩnh, đạo đức bị đảo lộn do nơi bị tước đoạt quyền sở hữu và nhiều thứ tự do căn bản của con người. Trong khi đó những tổ chức của Nhà Nước cung cấp mọi nhu cầu thiết yếu cho toàn xã hội chưa hoàn thiện, hoặc thành hình quá chậm chạp khiến dân chúng thiếu thốn mọi bề. Vì sự sống người dân phải bươn chải với mọi cách, mọi thủ đoạn để bảo toàn mạng sống cho chính mình và gia đình, bất chấp mọi lệnh nghiêm cấm hay sinh ra trộm cắp, cướp giựt, cướp của giết người. Sự chịu đựng giới hạn nên đến lúc nào đó, khi có dịp phải ly khai, thì chuyện cái nôi của sự thực hiện Chủ Nghĩa Cộng Sản trên thế giới là ở  Đất nước Liên Xô nầy và các nước Đông Âu đã chứng minh cho điều ấy! Không biết người dân Nga có bao giờ thích quay lại thời bao cấp của chế độ Cộng Sản nữa hay không? Chứ bây giờ thấy nước Nga có nhiều biến đổi mà chúng tôi đang nhìn thấy mà bà Hướng Dẫn Viên đã nói về vấn đề sự phát triển mạnh mẽ của các Nhà Thờ sau thời kỳ Cộng Sản sụp đổ. Hôm nay đoàn chúng tôi đến Moscow nầy cũng như hành trình của tour là phần lớn đi qua những nước Cộng Sản ngày xưa. Tất nhiên là đời sống, sinh hoạt của người dân cũng khác xưa khá nhiều. Tính ra trong cuộc đời tôi vẫn còn rất nhiều may mắn khi được tham dự “tour” nầy để mình có thể thực tế những gì mà mình tìm hiểu, tra cứu vài vấn đề mà sau ngày kết thúc chiến tranh và thống nhất đất nước 30/ 04 năm 1975 trên lý thuyết cùng sách vở mà tôi đã thắc mắc khi môn dạy của tôi bắt buộc tôi phải tìm hiểu về lý thuyết, và cũng là để “thực tế hơn” về Chủ nghĩa Cộng Sản ở Tây Phương xem ra có khác gì với sự áp dụng cái gọi là “Chủ Nghĩa Xã Hội” ở Việt Nam hay không?
Xe đưa đến chỗ chiếc cầu, mà bên kia sông sau chiếc cầu là vòng rào bằng gạch đỏ, Hướng Dẫn Viên cho biết đó là vòng thành của Điện Kremlin. Với màu đỏ nó hiện lên một cách đặc biệt khiến ai cũng phải ngắm nhìn hay quay phim. Tường có vài pháo đài hay đài quan sát có cách kiến trúc đẹp, hài hòa làm tăng thêm nét hùng mạnh của nó.
Xe buýt đưa đoàn đi vòng trong thành phố thêm một thời gian nữa và ngừng lại ở một tiệm có bảng đề theo chữ Nga mà tôi đoán đó là “Cà phê”. Thời gian lúc nầy khoảng 11 giờ, mình vào đây ăn sáng ư? Hay là ăn trưa? Đoàn người vào trong, thì ra chắc là giờ ăn trưa! Tôi và nhiều người muốn thoải mái trước bữa ăn là đi vào “toilet” trước. Ôi, phòng vệ sinh không có nhiều, chỉ có hai cho bên phía đàn ông, nên đành phải sắp hàng rất lâu. Mọi người đều lấy làm ngạc nhiên và cười ồ. Không biết bên mấy bà như thế nào mà họ lại xếp hàng phải lâu hơn nữa!
Đến lúc bồi bàn đem thức ăn ra, mọi người càng ngạc nhiên hơn vì “salad” là món đầu tiên mà không có món nào khác ngoại trừ bánh mì để sẵn trên bàn. Lúc đó tôi mới nhớ lại lúc trên máy bay, người ngồi kế tôi chính là người ở Nga, thì ra cách ăn của tôi không đúng theo cách của Nga rồi. Thôi thì mình cứ ngồi ăn mà nghiền ngẫm thêm về cách của người Tây Phương.
Hơn tiếng đồng hồ sau, chúng tôi hoàn tất buổi ăn trưa đầu tiên trên đất Nga. Xong, nhiều người đi vệ sinh lần nữa trước khi tiếp tục lên đường, còn một số thì ra phía trước quay phim hay chụp hình. Xe chuyển bánh đi trong thành phố trong một thời gian nữa và Bà Hướng Dẫn viên tiếp tục thuyết minh về những nơi trong thành phố Moscow, tất nhiên Bà không thể bỏ qua Tòa Đại Sứ của Úc vì chúng tôi toàn là những du khách đến từ Úc. Không biết khu kỹ nghệ ở nơi nào mà trên đường phố rất ít những xe tải hạng nặng xuất hiện. Tính ra trong thời kỳ Cộng Sản, người ta cũng ước lượng kỹ càng nên đường xá đến bây giờ vẫn thênh thang, thừa cung ứng cho sự giao thông, cùng các building chung cư vẫn hài hòa tạo nên khung cảnh đẹp cho hai bên đường. Các công viên rộng lớn đầy cây xanh màu lá tươi tốt của khung cảnh mùa Xuân. Có nhiều công trình, khu vực mới được thành hình từ sau chế độ Liên Xô sụp đổ làm như Moscow cố vươn lên cùng với các thành phố khác trên thế giới!
Cung điện gỗ.

Đến hơn 1 giờ trưa xe đổ vào bãi đậu của một công viên, mọi người xuống và đi bộ theo Hướng Dẫn Viên dẫn đường. Đoàn đi qua một đoạn đường khá dài, đi qua công viên ít được cắt cỏ gọn ghẽ như các nơi khác mà để tự nhiên, nên thoáng nhìn qua người ta cũng có vẽ thích thú với sự hoang dã của nó. Nhưng không, đây là một lâu đài làm bằng gỗ, có cách kiến trúc độc đáo với nhiều màu sắc. Nhưng chính của nó là màu chocolate, vàng, xanh lá cây, và trắng. Ngôi biệt thự rất là kiểu Nga. Thì ra đây là nơi ở của vua Alexey Mikhailovich thuở trước. Theo Bà Hướng Dẫn Viên chúng tôi phải đợi hơi lâu vì chưa tới giờ hẹn với nhân viên ở đây. Trong thời gian ấy mọi người chụp hình, quay phim trên nhiều góc cạnh để làm kỷ niệm, vì ở chung quanh đây là công viên rất rộng với nhiều loại cây và bông hoa. Khoảng 1 giờ 45 chúng tôi mới được phép vào trong cung điện và những nhân viên ở đây với trang phục cổ của người Nga tiếp chúng tôi tham quan các phòng trưng bày những vật dụng, vũ khí, vật trang trí và họ thuyết minh để chúng tôi có thể hiểu được phần nào. Các phòng được sơn son thiếp vàng thật là lộng lẫy, với những hoa văn tinh tế, đầy mỹ thuật. Vật dụng được trưng bày trong tủ kính. Tất nhiên là mọi thứ du khách không được chạm vào. Nào là phòng ngủ của vua, của người trong hoàng gia, rồi đến hành lang hoặc các vách tường trưng bày vật dụng của chiến sĩ cùng vũ khí của họ. Kế đến là xem phòng tắm ngày xưa của những người trong hoàng tộc. Nơi lò sưởi có những hòn đá được đun nóng ở đó sẽ được bỏ vào trong những bồn nước để làm cho nước trở thành nước nóng mà tắm. Tôi lại học một điều mới mà từ trước tôi không nghĩ tới.
Sau đó đoàn được người hướng dẫn đưa về một phòng khá rộng có các băng để mọi người ngồi. Rồi ông hoạt náo viên bắt đầu giới thiệu công việc làm ở đây qua sự thông dịch của Bà Hướng Dẫn Viên. Thì ra mọi người sẽ được giới thiệu hình thức một đám cưới ngày xưa của một sắc tộc Nga.
Lúc đầu ai cũng tưởng các nhân vật là do người Nga thủ vai. Nhưng không, điều kỳ thú là họ chọn người trong đoàn từ vai cha mẹ bên đàng trai cũng như bên gái. Rồi cô dâu, chú rễ lại là cặp vợ chồng Nghi, Dung. Người được chọn mặc sắc phục của sắc tộc cùng được trang hoàng theo phong tục. Trong lúc đó thì những bài hát cùng giọng đàn được cổ vũ theo, tạo nên khung cảnh vui nhộn. Cuối cùng chúng tôi được một bài học khái quát về nét văn hóa trên đất Nga trong ngày đầu tiên. Xong tiệc cưới mọi người thưởng thức rượu mật ong trên cái chén mà mình có thể giữ lấy làm kỷ niệm. Đến khoảng 3 giờ 50, đoàn rời cung điện gỗ, ra xe và tiếp tục cuộc hành trình.

Nguyên Thảo,
08/09/2019.




Sunday, December 1, 2019

*“Cái Nền Giáo Dục”!



Rõ ràng cái nền giáo dục chắc chắn sẽ ảnh hưởng trên tất cả mọi người đi học từ khi còn nhỏ cho đến hết cuộc đời. Một con người được đi học đều mang những hình ảnh đầu tiên khi cắp sách đến trường, đến thầy cô giáo và mái trường thân yêu, ngay cả cái hình ảnh lớp học và khung trường với những cây cối xung quanh. Rồi những năm dài trên ghế nhà trường cùng bao nhiêu bạn bè chung lớp, hết đợt nầy đến đợt khác; quen, thân rồi lại xa nhau. Từng kỷ niệm, từng kỷ niệm in dấu ấn lên tâm hồn để đến khi già nó được quay lại như một cuốn phim. Ai cũng vậy! Nhưng đi học để làm gì? Không biết các bạn nghĩ như thế nào, chứ Đồ Ngông tôi cũng tự hỏi với mình nhiều lần. Hỏi thì hỏi, nhưng tùy theo hoàn cảnh mà mỗi người có thể có một hướng nhìn hay đi riêng mà trong đó chắc phải có cái “học để biết, có một số kiến thức để ra đời”. Tôi cũng trong trường hợp như vậy, vì khi ba tôi dẫn tôi tới trường là mục đích “cho tôi biết vài ba chữ với người ta”, “cho nó đi học để ở nhà nó đi phá cũng vậy”! Thực ra học cũng là để chống với cái “ngu”, cái “dốt” mà lúc tôi còn nhỏ thường nghe nói lớp “bình dân học vụ”, “xóa nạn mù chữ”, chống với “giặc dốt”. Chính vì vậy mà chữ “quốc ngữ” hay chữ viết theo mẫu tự La Tinh sáng chế của mấy Ông Cố Đạo Tây Phương, có thể khi họ muốn học Tiếng Việt đành phải lấy chữ cái La Tinh để phiên âm mà học (giống như tôi bây giờ học Tiếng Anh phải ghi chú giọng đọc các chữ bằng tiếng Việt vậy) mới được ra đời. Do sự dễ dàng, thuận tiện mà nó phát triển nhanh chóng để thay thế chữ Hán (viết chữ Tàu, nhưng giọng đọc khác Tàu), hay cách viết của chữ Nôm mà phải mượn qua nhiều chữ Tàu kết hợp để phiên âm giọng đọc tiếng “Thuần Việt” quá ư là rắc rối (vì chữ Việt cổ đã bị biến mất từ lâu). Trong sách sử có nói đến ông Hàn Thuyên làm thơ chữ Nôm khởi đầu cho nền Văn Học chữ Nôm, nhưng sự mượn chữ Hán để làm thành chữ Nôm cũng phải qua nhiều năm trước đó. Như vậy ngôn ngữ Việt cho đến ngày nay đã trải qua hai thời kỳ biến đổi: Thời kỳ mượn chữ Hán để phiên âm mà phát triển nhất là bài thơ của Hàn Thuyên khởi đầu cho nền Văn Học Chữ Nôm, và đến khi các Cố Đạo Tây Phương mượn mẫu tự La Tinh để phiên âm học Tiếng Việt nay thứ chữ nầy được phổ biến rộng rãi, được xem là “Quốc ngữ” từ năm 1919. Từ đó các khóa thi bằng Chữ Hán như Thi Hương, Thi Hội, Thi Đình cũng chấm dứt. Thế là Đồ Ngông tôi thất nghiệp, không còn làm Thầy Đồ nữa, mà chỉ còn là thứ “đồ” ngông thôi!

Nhờ thứ chữ dễ viết, dễ học nầy mà mấy ông Cố Đạo Tây Phương thành công trong việc giảng đạo, cũng như người học mau có kiến thức để giúp sức vào đời. Tôi nhớ khi tôi còn nhỏ có biết vài người còn học chữ Nho, nhưng lúc đó họ chỉ học để làm thầy thuốc, hoặc các chú tiểu trong chùa học để đọc Kinh sách nhà Phật thôi. Còn trong dân gian thì họ học lớp “Bình dân học vụ”, “Xóa nạn mù chữ” để biết đọc, biết viết; để dễ tính toán trong buôn bán, đi chợ nhất là để đọc truyện Tàu được in ra bằng chữ Quốc Ngữ. Thời đó những Truyện Tàu được nhiều quầy cho mướn Truyện lưu hành; các sách Thơ như Lục Vân Tiên, Thạch Sanh Lý Thông, Phạm Công Cúc Hoa, Lục Súc Tranh Công… được bày bán theo các chợ. Ông nội tôi biết chữ Quốc ngữ không nhiều chỉ để giao tiếp, đọc chuyện. Ba tôi thì biết khá hơn vì có đi học với các ông Thầy học trước có chữ nghĩa nhiều dạy lại. Đến thời tôi còn nhỏ trường học thật hiếm mấy xã mới có một trường tư. Mãi đến sau năm 1954 thì gần như mỗi xã mới có một trường gọi là Trường Sơ Cấp chỉ có lớp Năm, lớp Tư, và lớp Ba (tức lớp 1, 2, 3 ngày nay). Xong bậc đó, vì số học trò lên cấp trên ít hơn nên từ mấy xã dồn lại để có lớp Nhì, rồi năm sau lên lớp Nhất (tức lớp 4 và lớp 5). Trường phát triển đó gọi là Trường Tiểu Học. Xong năm học lớp Nhất thì thi bằng Tiểu Học và thi lên lớp Đệ Thất (lớp 6) bậc Trung học, nhưng năm tôi học đã bỏ thi bằng Tiểu Học chỉ còn thi lên lớp 6. Năm nay (2019) đánh dấu 100 năm sự áp dụng chữ Quốc Ngữ nên trên mạng có nhiều chương trình kỷ niệm, nghiên cứu về chữ Quốc Ngữ được phổ biến, trình chiếu!

Nói chung, chữ Nôm thì mượn hình thức chữ Tàu để diễn đạt ngôn ngữ Việt khiến người Tàu phải “ngẩn ngơ”, còn chữ Quốc ngữ theo mẫu tự La-Tinh thì người Tây cũng ngạc nhiên vì có những dấu giọng mà họ không thể hiểu. Quả thật Tiếng Việt làm cho thiên hạ dễ “nhức đầu” thắc mắc! Nhưng vấn đề đó không là vấn đề quan trọng, mà vấn đề quan trọng là “Mục đích của nền giáo dục là gì?”.

Đúng ra, theo lẽ khi cái thứ chữ dễ dàng sử dụng, dễ dàng học tập được phổ biến rộng rãi, thì cái nền giáo dục phải được phát triển và càng thăng tiến hơn lên, cộng với những người chuyên môn định hướng cho nền giáo dục khi họ hoạch định “cái chương trình” giáo dục hợp lý thì kết quả mới đem lại cho đất nước những nhân tài, những công dân ưu tú ở tương lai. Nhưng những điều ấy chưa hẳn mà tùy thuộc vào “giai cấp” cầm quyền có nhiệm vụ thi hành nền giáo dục.

Như ngày xưa, người ta cần những người có đạo đức “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”, “chí công vô tư”, “thanh liêm”, “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”, “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ” để ra làm quan, điều hành công việc của đất nước, nhằm cống hiến tài năng cho cuộc đời để làm cho quốc gia hùng cường “dân giàu, nước mạnh” như trong văn thơ của Nguyễn Công Trứ đã diễn đạt mà chúng ta đã học, đã biết. Như vậy cái học chính của ngày xưa là đào tạo ra những con người có năng lực, tài năng ra làm quan có đạo đức biết “Tu thân, Tề gia” rồi mới đến “Trị quốc, Bình thiên hạ” nhằm làm cho dân giàu có, đất nước trở nên hùng mạnh!

Đến thời Tây học, chương trình học được đặt nặng “Vấn đề tri thức” nhằm cung ứng kiến thức toàn diện cho “những đứa học trò” có điều kiện “đi vào trường học” kể cả vấn đề luyện tập về thân thể theo tinh thần “Một tinh thần minh mẫn trong một thân thể tráng kiện”! Chính vì thế học sinh được hưởng nền giáo dục có tri thức theo ba vòng tròn đồng tâm: Thời Tiểu học học các tri thức khái quát đơn giản, thời Trung học cấp thấp học Tri thức khá hơn, thời Trung học cấp cuối thì học đầy đủ hơn để sau đó bước vào Đại học với Trình độ chuyên môn cao. Chính vì thế mà trong thời kỳ Trung học người ta mới được học nhiều về các vấn đề xã hội, kinh tế trong đó kể cả học về “Chủ nghĩa Cộng sản” và “Chủ nghĩa Tư bản”, đó là tiền đề cho những ai có khuynh hướng “Công bằng xã hội, chống bất công, làm cho xã hội tốt đẹp hơn” thường hay ngã về khuynh hướng “Xã hội chủ nghĩa” vì đã diễn tả cái cảnh một xã hội đầy tốt đẹp và nhân ái! Chính vì thế mà “Chủ nghĩa xã hội” đã thu hút không biết là bao nhiêu người “Trí thức” trên thế giới kể cả những người làm “Cách mạng”! Nói như vậy có nghĩa là với các nền giáo dục khai phóng, phóng khoáng trước kia đã giúp cho cuộc “Cách mạng xã hội chủ nghĩa” ra đời với sự lãnh đạo phần lớn là những người thuộc “Thành phần Tiểu tư sản, hay Tư sản trí thức”. Dĩ nhiên khi họ được đi học, học hành đầy đủ tức họ thuộc thành phần có ăn, hay dư dả, giàu có tức là gia đình Trung nông, Điền chủ hoặc Tư sản chứ không thể là Thành phần “Bần cố nông hay Vô sản” được!

Nền giáo dục Tây học không những đào tạo những con người Tài năng có ích chính cho họ, gia đình mà còn có thể cung ứng cho xã hội nhiều nhân tài đóng góp công sức vào cho xã hội, đất nước và đôi khi vượt ra ngoài biên giới quốc gia tiến ra thế giới và nhân loại nữa!

Đó là chuyện của những nền giáo dục rộng rãi, phóng khoáng, nhưng dù vậy họ cũng không quên định hướng cho tư cách sống, hành xử, lòng bác ái, nhân đạo, lễ phép, lòng tự trọng…của người công dân trong nước qua những bài về Đạo đức, Công dân giáo dục được giảng dạy trong nhà trường. Điều ấy nếu những ai đã đến nước Nhật Bản sẽ nhìn thấy đường sá không có thùng rác mà không thấy rác bừa bãi, hoặc những cung cách của họ đối xử với khách mà chúng ta cần học hỏi và noi theo.

Tuy nhiên, “cái nền giáo dục” không phải “nơi nào cũng giống nơi nào” nó có nhiều thay đổi tùy theo những nhà cầm quyền, các nhà lãnh đạo cũng như phong tục, tập quán mà những nhà hoạch định kế hoạch giáo dục của nước đó vạch ra. Nhưng chung qui nếu nền giáo dục bị giới hạn về tri thức thì nền giáo dục ấy bị “thui chột”, bị “mù” về một số vấn đề mà học sinh không được học. Nền giáo dục mà “bị định hướng” để nhằm phục vụ cho những mục đích nào đó thì những con người tương lai trở thành “những con ngựa kéo xe bị che mắt” để khỏi phải nhìn thấy hai bên đường. Nền giáo dục mà “bị nước ngoài chi phối, nhất là trong vấn đề lịch sử của dân tộc, quốc gia” thì nền giáo dục ấy chỉ là một “nền giáo dục nô lệ” trước sau gì cũng “mất nước”! Do đó, nếu theo một “chủ nghĩa quốc tế” nào đó mà mình chỉ là một nước nhỏ thì nước mình chỉ là “Tôi Mọi” để nước lớn sai khiến mà thôi! Vì vậy mà ông Lão Tử ngày xưa có câu: “Làm thầy thuốc sai lầm chỉ hại cho một người, làm chính trị sai lầm chỉ hại cho một nước, làm giáo dục sai lầm thì hại cả đến muôn đời”, điều ấy khiến cho người đời sau vẫn phải có nhiều “suy ngẫm”! Tôi có nhiều suy nghĩ, nhưng bạn có suy nghĩ gì không?



Đồ Ngông,

02/12/2019.






Monday, November 18, 2019

*Quê Người! (24)



Tôi nghe người ta nói là chúng tôi qua đúng vào lúc gần nghỉ học kỳ của học sinh nên những sinh hoạt ở trung tâm cũng bị đình trệ vì trường học nghỉ, rồi nhân viên liên hệ cũng ít tới nên chúng tôi đành phải chờ. Lớp học Anh Văn cho người mới tới nghỉ gần tuần rồi. Cứ mỗi ngày kéo nhau lên căng-tin ba buổi sáng, trưa, chiều để ăn, rồi lại về phòng cho hết ngày giờ hoặc gặp nhau tán gẫu vài ba câu chuyện, trong khi thì tâm tư không an: Không biết vợ con bây giờ ở quê nhà như thế nào, rồi lại nghĩ đến chuyện gia đình được xếp vào thành phần có người đi vượt biên, thành phần phản quốc thì bị đối xử hất hủi, có khi vợ đang ở nhà bị cho thôi việc, con cái thì bị tách rời khỏi sinh hoạt chung của nhà trường thì lại khổ hơn. Trong khi mình đang ở đây không làm được cái gì để giúp ích cho gia đình. Chỉ hi vọng là bắt được liên lạc qua thư từ để biết được hoàn cảnh gia đình ra sao, nhưng cho đến giờ nầy cũng chẳng được tin tức nào cả. Tôi đã gởi thư qua địa chỉ của cô Ba Thưa ở Sài gòn để nhờ chuyển về cho gia đình. Không biết thư có tới hay chưa? Mọi mối lo âu, tôi phải đành từ bỏ không dám nhớ tới nữa vì có thể nó sẽ làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, và tự nghĩ: Mình phải giữ gìn sức khoẻ, ổn định tinh thần để ứng phó với hoàn cảnh hiện tại, cũng như tương lai. Và rồi tôi lại cố gắng chuẩn bị cho chuyện học Anh Văn được nhanh chóng hơn vì ngôn ngữ bây giờ trở nên thiết yếu và quan trọng.
Thời gian gần đây Trọng bận rộn đi làm cho nên ít vào chơi. Nhưng có nó thì hoàn cảnh tôi và Thành được ấm cúng hơn, còn không thì chúng tôi cũng phải tự lo. Những người cùng cảnh ngộ thì dễ cảm thông, cho nên trong trại tiếp cư chúng tôi dễ quen nhau nhiều. Cùng nhau kể cho nhau nghe những mẫu chuyện trong chuyến hành trình vượt biên, những sinh hoạt hồi còn ở quê nhà, hay những suy nghĩ về chế độ mới với ưu và khuyết điểm của nó. Kể thì kể chứ có thay đổi được gì, vì sự cứng nhắc về tổ chức, cũng như đường lối “bảo vệ tới cùng” chế độ bằng sự “chuyên chính vô sản,” bằng “bạo lực cách mạng” thì ai cũng phải đành chịu thua. Mình sống không nổi thì tốt nhất là mình bỏ chạy đi thôi! Riêng tôi, tôi thấy cái lý lịch của mình ảnh hưởng đến con cháu “ba đời” thì tương lai của chúng sẽ ra sao trong chế độ nầy, cho nên khi có dịp tôi chọn con đường ra đi. Ra đi để tìm lấy tương lai cho con cháu và tôi không phải chịu trách nhiệm vì ảnh hưởng của mình lên chúng nó, mặc dù tôi chỉ là một “giáo viên quèn” trong chế độ cũ! Tôi không thể ngờ tình thế đến nước ấy! Lúc trước nhiều người trong quê cứ nghĩ thanh niên trong chiến tranh nên chọn ngành nghề nào không dính dáng đến quân sự, chính quyền để sau khi chấm dứt chiến tranh mình vẫn có thể sống yên ổn, không bị phiền toái. Nhưng không, sau khi chiến tranh kết thúc, đất nước thống nhất hòa bình thì những biện pháp “đối với kẻ thù” bên kia chiến tuyến được bày ra nhiều phương cách. Khi còn được “lưu dung” trở lại, tôi đã thấy những đứa trẻ học giỏi nhiều bộ môn bị đánh rớt trong kỳ thi như thế nào, sau khi cha là sĩ quan cấp trung đã đi học tập cải tạo ở trong các trại tập trung nơi rừng sâu nước thẳm. Mỗi lần khai lý lịch (lý lịch được khai thường xuyên) làm tôi lại càng nhớ đến cái ảnh hưởng của mình đè lên “lý lịch” của con cháu về sau. Bây giờ sang đến đây, chỉ riêng tôi là thoải mái thôi, nhưng cả gia đình đang nằm trong vòng “kiềm tỏa” nặng nề, kể cả ba má tôi và những người liên hệ trên huyết thống! Nhưng tôi cũng đang đối diện rất nhiều cái khó khăn trong đời sống của kiếp “tha hương” nơi đất khách “quê người”! Cũng may là tôi “không chết trên biển”, hay “bị bắt nơi chốn lao tù”. Tại nơi trại tị nạn tôi ở cũng không lâu thì được phái đoàn Úc nhận cho định cư ở Úc Đại Lợi; và rồi tính tất cả chưa đến một năm sang tới Úc và được Úc giúp đỡ đủ thứ, thế mà tôi vẫn có nhiều hụt hẫng dù bên tôi có Thành, Trọng, chị Yến cùng những người mới quen, hay các gia đình bạn bè cùng chuyến bay từ Mã Lai sang Úc. Trong những lúc ấy tôi mới thấy mỗi người có một “định số” vì mình không làm chủ được gì đối với bản thân mình cả, mà chỉ “thí” cho định số quyết định cho mình!
Trong lúc tôi đang có nhiều suy nghĩ, mệt mỏi và thiêm thiếp đi vào giấc ngủ thì được Bác Vỹ gõ cửa rủ sang chơi. Thì ra Vũ Minh với mấy người bạn nữa đến thăm Bác Vỹ, Bác Phương. Trong câu chuyện tôi mới biết những người thanh niên ấy từ Melbourne đến để tổ chức buổi chiếu phim về “Kháng chiến”. Họ nói ông Hoàng Cơ Minh ra mắt “Phong trào kháng chiến” từ trong chiến khu và rủ chúng tôi đi xem. Từ lúc còn ở trong nước tôi có xem báo thỉnh thoảng có đề cập đến phong trào nầy cũng như vài phong trào khác, nhưng tôi không mấy quan tâm vì lúc ấy phong trào thật và phong trào giả rất nhiều. Chính quyền mới bắt người trong phong trào thật cũng có, mà tạo ra phong trào giả để gài bẫy cho những người nhẹ dạ rồi bắt họ để trừ hậu họa cũng có. Vào thời ấy người ta chỉ thủ thân và lo cái ăn nhiều hơn trong cái hoàn cảnh ngăn cấm nhiều thứ khiến cho đời sống thường ngày trở nên khốn đốn và lao đao. Những tổ chức theo kiểu Xã Hội Chủ Nghĩa chỉ mới thành hình, còn thiếu thốn mọi bề không thể cung cấp nỗi cho đời sống của dân chúng: Thương nghiệp thì không có bao nhiêu hàng; giao thông vận tải trưng thu xe vào trung tâm nằm ụ, thiếu xăng dầu; Hợp tác xã nông nghiệp bị nông dân phản đối vì đưa đất vào trong hợp tác xã để rồi đi làm mỗi ngày với chấm công điểm; nhà máy bị quốc hữu hóa không người chuyên nghiệp điều hành, thiếu nguyên liệu để sản xuất… Nhiều và nhiều vấn đề bị đình trệ và cả toàn xã hội đều bị ngưng, sự tiến triển giống như một cỗ xe chở người phải ngừng lại để ổn định, sắp xếp theo một qui cách mới, mà qui cách ấy cũng không được hoàn hảo để rồi khi lên đường xe cứ phải ngừng lại để kiểm điểm, sửa sai. Có lẽ vì thế mà Việt Nam đi sau các nước khác trong vùng rất là nhiều năm, mặc dù trước kia Miền Nam chẳng thua gì với Singapore và Đại Hàn, hơn hẳn cả Thái Lan, Mã lai và Phi Luật Tân mặc dù vùng đất miền nam trong thời chiến tranh bị tàn phá khủng khiếp!
Có lần tôi đọc báo thấy nói đến vụ Võ Đại Tôn từ Úc xâm nhập về Việt Nam bị bắt ở trên vùng Tây Nguyên với đầy đủ tài liệu, tôi không tin là thật. Đến khi sang đến đảo Bidong hay ở trại tị nạn Sungai Bési mới nghe nói nhiều đến phong trào của Hoàng Cơ Minh, nhưng tôi cũng chẳng hề quan tâm vì tôi “vượt biên” chỉ nhằm lôi cuốn con tôi ra khỏi cái ảnh hưởng “lý lịch” của tôi thôi. Tôi đi tìm tương lai thoải mái cho chúng nó dù tôi vẫn biết bước đường của tôi rất là gian nan. Tôi đánh ván bài ăn thua! Nếu tôi chết thình lình đi thì chúng sẽ khổ thêm thôi, còn nếu như suôn sẻ thì tôi không cảm thấy ân hận đối với cuộc đời của chúng. Tôi không ngờ một lý thuyết nhằm đem Thiên Đàng, công bằng, hạnh phúc đến cho con người, cho xã hội như chủ nghĩa của Marx như thế, mà “người ta” áp dụng một cách mà tôi không thể tưởng tượng ra được!
Bây giờ có người đang đi quảng bá phong trào Kháng Chiến của Hoàng Cơ Minh khiến tôi cũng tò mò. Trong cuộc trò chuyện Bác Vỹ hỏi chừng nào. Mấy anh trẻ ấy cho biết là tối nay sẽ chiếu phim tại võ đường Hắc Long của Vũ Minh ở dưới Hindmarsh. Bác Vỹ hỏi sao cho hay trễ vậy thì Vũ Minh cho biết là cả tuần nay rồi, nhưng bữa nay mới cho ở đây biết thôi.
Trong bữa cơm chiều ở căng-tin, tin ấy được truyền lan. Kim cũng tò mò rủ tôi tối nay cùng đi xem thử. Khi xe chở chúng tôi đến võ đường của Vũ Minh thì trời đã tối. Tôi không thấy được rõ hình dáng của cái Nhà Thờ mà những người Việt theo Đạo Thiên Chúa đến hành lễ ở đó. Còn võ đường của Vũ Minh thì ở phía sau Nhà Thờ, tôi và Kim cũng như mọi người đều không thấy rõ hình dáng mà chỉ đi vào phía trong ngồi vào những băng, ghế đã kê sẵn trước màn ảnh để chiếu phim.
Trời lạnh, không gian mờ mờ, người cũng khá đông. Trong khi các anh thanh niên trẻ “giáo đầu” buổi chiếu phim thì người ta truyền nhau miếng giấy ghi tên của mình vào danh sách. Ngồi bên Kim, hai đứa tôi thắc mắc: Không biết đây là thật hay giả đây, không khéo danh sách ấy về Việt Nam thì khổ cả cho gia đình nữa. Ngần ngừ rồi hai đứa truyền tờ giấy ấy cho người kế bên nói để ghi sau. Buổi chiếu phim cũng đến. Nội dung của phim là chiếu cảnh Hoàng Cơ Minh ra mắt cái phong trào của ông ta trong khu rừng mà được cho là chiến khu với bài diễn văn, kêu gọi tham gia phong trào. Nhưng có điều lạ mà tôi và Kim cứ thầm thì là Hoàng Cơ Minh cũng mặc bộ đồ bà ba đen, mang dép râu, khăn rằn quấn cổ, râu cũng để chòm như hình ảnh của Hồ Chí Minh khi ở chiến khu Việt Bắc. Lại thêm ba chữ viết tắt của cái tên cũng là HCM. Hai đứa xem xong phim đều thắc mắc như nhau. Thôi thì: “Ai làm gì thì làm, mình cứ lo chuyện mình trước đi đã”! Tàn cuộc, những người lái xe đưa chúng tôi về nhà Vũ Minh ăn cháo trước khi chở về trung tâm Tạm cư Pennington.

Nguyên Thảo,
19/11/2019.




Tuesday, November 12, 2019

*Nghe Tin!



         (Tưởng niệm 39 người Việt chết ở Anh)



Nghe tin chấn động

Khắp cả địa cầu

Với 39 người Việt chết trong một toa xe đông lạnh

Để nhập cảnh lậu vào Anh.



Tôi lại nghĩ thân tôi

Một nhân viên quèn chế độ cũ

Sau chiến tranh huynh đệ, tương tàn thảm khốc

Đất nước được thống nhất hòa bình

Hàng triệu người đi vào trại cải tạo

Với lý lịch đè nặng lên con cháu

Chúng chẳng tìm thấy tương lai!



Theo dòng người

Thí thân cho biển cả

Mặc xác chốn lao tù

Làm thân người xứ lạ

Mình chẳng còn quê hương,

Quê hương: “Dành cho người Cộng Sản”!



Đa số các em

Được “Đảng cho mùa Xuân”, “cơm no, áo ấm”

Sao giờ lại bỏ nước ra đi

Để rồi không bao giờ trở lại

Để thế giới thương tiếc ngậm ngùi!



Tôi nghe tin chấn động

Mình cảm thấy chơi vơi!

Quê hương mình đẹp lắm

Dải giang sơn gấm vóc vô ngần

“Rừng vàng, biển bạc” thênh thang

Hai vựa lúa hai đầu Nam, Bắc

Mà sao người cứ mãi muốn lang thang

Sao nghèo đói cứ còn vương vấn mãi!



Tôi lại phải suy tư

Nghĩ đến điều mà người ta không muốn nghĩ!



Đồ Ngông,

13/11/2019.






*Đi Nga. (2)



Thế rồi máy bay của hãng Singapore Airlaines cũng vượt qua chặng đường hơn 10 ngàn cây số,  trong khoảng gần 12 giờ để mang mấy trăm người cùng hành lý đến được phi trường Moscow. Bây giờ chúng tôi rời máy bay để bước lên đất Nga, khiến trong đầu óc lại nhớ đến chuyện Tề Thiên Đại Thánh “đằng vân” (cưỡi mây) đi đây đi đó, rồi ngầm thán phục Ông Ngô Thừa Ân khéo tưởng tượng ra trò “đằng vân” nầy. Thực ra tôi chẳng được đọc là bao nhiêu chương trong truyện Tây Du Ký từ lúc nhỏ cho đến khi trưởng thành; nhưng qua một chuyến du lịch ở vùng núi, tôi thấy mây bay từ bên nây núi sang núi bên kia thì tôi lại nghĩ: Hay những người Tu Tiên ngày xưa thường hay ở trên núi, mỗi lần sang thăm bạn phải cơm nước xuống thung lũng rồi mới sang núi bên kia xa xôi, vất vả quá, nên họ tưởng tượng “nếu họ cưỡi mây sang thăm bạn được thì hay quá”! Và tôi lại đoán phép “đằng vân” được sinh ra từ hoàn cảnh ấy. Nhưng bây giờ “phép đằng vân” một lần được cả mấy trăm người cùng với hành lý cộng với sức nặng của máy bay. Ôi! Thật là vĩ đại cho trí thông minh của con người!
Máy bay đáp xuống phi trường đúng giờ qui định theo lịch trình tức là 6 giờ sáng. Ở phi trường nào cũng vậy, nơi khâu nhập cảnh và thủ tục hải quan đều phải xếp hàng chờ đợi thật đông người. Đợi một lúc khá lâu, thì chúng tôi phát hiện có khu vực dành rìêng cho công dân một số nước đã ghi theo bảng hướng dẫn. Thủ tục thì nhanh hơn, nhưng vì qua máy móc, nên một vài người bị trở ngại do không có người giúp đỡ. Còn những người làm được nhưng phải qua khu chụp hình thì không thể quay lại để giúp. Bởi vậy mà những người gặp trở ngại phải quay lại nơi sắp hàng mà chờ đợi, như vậy phải chịu lâu hơn. Ở đây, tôi thấy anh bạn ngồi kế bên tôi trong chuyến bay đã nói chuyện với nhân viên hải quan bằng ngôn ngữ tiếng Nga. À! Thì ra, anh nầy có thể là người của quốc gia nằm trong Liên bang Xô Viết ngày xưa, hoặc là sắc tộc nào đó của dân Nga. Rồi tôi lại nghĩ đến cách ăn đồ ăn Tây của mình! Cuối cùng thì mọi người đều được êm xuôi qua khâu hải quan để kéo nhau đến khu lấy hành lý nhận lại hành lý của mình.
Xe đẩy hành lý để hơi xa nên chúng tôi phải chạy đi lấy, khá tốn nhiều thời gian và mệt đối với những người già như tôi. Vừa thở vừa chất hành lý lên xe, rồi tập hợp lại một chỗ để đợi mọi người đi chung qua sự hướng dẫn của Jennifer. Vừa ra khỏi cổng của khu vực hành lý thì gặp ngay một anh chàng cầm cờ với chữ Friendly Travel đang giương lên chờ đoàn. Anh chàng nầy có thể là nhân viên của công ty du lịch ở bên Âu Châu mà ông Chánh đã làm ăn với họ trong nhiều năm. Trong một chuyến đi lần trước, tôi mới biết ông Chánh làm ăn với một công ty du lịch ở bên Anh tại Thủ đô London vì vào bữa ăn tối nọ ông Chánh đã giới thiệu ông chủ đó với người trong đoàn.
Sau cuộc giới thiệu để làm quen thì Bernard đưa đoàn ra bên ngoài phi trường. Trời se se lạnh chứ không đến nỗi lạnh nhiều như chúng tôi tưởng, hay do thời tiết hôm nay tốt. Chúng tôi làm một màn chụp hình quay phim sốt dẻo trên đất Nga, nhất là cái nét của phi trường ở Moscow nầy. Với mái vòm hình vòng cung bao trùm một khu vực rộng lớn phủ toàn là kính thật là khang trang. Phi trường nầy có vẻ là phi trường mới nên sự xây dựng chưa được hoàn tất, vật liệu còn đang bày trí khá nhiều. Tên của phi trường là Domodedovo. Trong lúc mọi người còn đang bận rộn với việc quay phim, chụp hình thì Bernard nói chuyện với một bà người Nga và đợi chờ xe buýt đến. Và bên ngoài những chiếc xe đến rước người nhà hay những chiếc taxi màu vàng đang rước khách cùng với màu vàng cam của những cột trụ làm cho phi trường có màu sinh động hơn.
Phi trường Domodedovo vào sáng sớm.

Xe buýt lớn đã đến và tài xế vội chất hành lý lên xe. Mọi người ổn định chỗ ngồi theo sự sắp xếp của Jennifer. Xe đưa đoàn rời phi trường vào lúc 8 giờ 33 phút. Bà người Nga giới thiệu mình với mọi người, Jennifer thông dịch lại, nhưng tôi lại không nhớ được tên của Bà. Bà là người cũng khá lớn tuổi, chắc chắn bà là người đã sinh ra và lớn lên trong thời Nga còn là Cộng Sản hay đúng hơn là theo chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa lúc đó được gọi là Liên Bang Xô Viết mà người ta thường gọi tắt là Liên Xô. Đất nước nầy là khởi thủy của tổ chức, và là mẫu mực theo mô hình Cộng Sản cho các nước Cộng Sản trên thế giới. Tuy nhiên chế độ nầy đã sụp đổ và tan rã tại Liên Xô và Đông Âu từ năm 1991. Xe đi trên đường phố theo như được báo là hôm nay theo lịch “City tour”. Đường phố cũng khang trang, xe cộ tương đối đông đảo chứ không là ít; tuy nhiên lạ một điều là hầu như gần hết các xe đều mở đèn khi chạy mặc dù là ban ngày trời sáng tỏ. Lúc đầu tôi lấy làm lạ là trong chuyến đi nầy ngoài Jennifer, Bernard, sau lại có thêm bà người Nga nầy nữa; không giống như chuyến đi Tây Âu thuở trước. Lúc đó chỉ có vợ chồng Anh Chánh dẫn đoàn và khi đến Hòa lan thì giao cho Hướng dẫn viên ở bên đó đưa đi và thuyết minh. Nay Bà người Nga nầy là người thuyết  minh và hướng dẫn, tức là người địa phương am tường và giải thích những gì mà du khách cần thiết phải biết. Tôi nghĩ như vậy thì cũng hay, nhưng những người vốn Tiếng Anh không nhiều như tôi thì cũng chẳng hiểu được bao nhiêu, và phần lớn ai cũng lo nhìn quang cảnh đó đây hoặc chụp hình, quay phim cái “xứ lạ, quê người” thì mấy ai chú ý. Nhưng nếu mình nghe, hiểu được hết các thông tin bà đã truyền cho thì thật là bổ ích. Thôi thì cứ bấp bỏm mà nghe vậy!
Từ phi trường Domodedovo chạy về Trung tâm thành phố Moscow theo tài liệu thì cách tới 42 km từ hướng Nam-Đông Nam, tất nhiên là xe đang chạy qua những vùng phụ cận ngoại ô. Hai bên đường có những khu rừng xanh mát, một màu xanh rất sinh động, chứng tỏ sự phì nhiêu của đất và đầy đủ nước cho cây (có lẽ là sau mùa Đông tuyết tan). Tôi thì thích ghi hình vùng ngoại ô, thôn quê, cách kiến trúc nhà cửa hơn nên tôi đã không bỏ qua từng cơ hội đã đến. Những khu rừng thì cây cũng đa dạng, chứ không giống như xứ Úc, tuy nhiên có một loại cây thân trắng khá nhiều, không biết đó có phải là cây Bạch Dương hay không? Người ta nói xứ Nga là xứ sở của Bạch Dương, vậy thì Bạch Dương là cây thế nào? Tôi nhìn hai bên đường xen với những vườn cây là những khu nhà cao tầng mà Bà Hướng Dẫn Viên cho biết đó là những khu nhà chung cư được xây dựng lên trong thời Xô Viết để cung cấp cho cư dân, nhưng đa số được phân phối theo vị thế, tiêu chuẩn và tùy theo số người. Tất cả nhà cửa, đất đai ở thời kỳ ấy đều do Nhà Nước quản lý và phân phối; không có riêng tư. Qua đến những Nhà Thờ, Bà cho biết ngày xưa trong chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa các nhà thờ đều là nơi để chứa hàng, hoặc nhà kho; nhưng sau khi Liên Xô sụp đổ thì dân chúng bắt đầu xây lại với hàng ngàn nhà thờ được mọc lên. Dân Nga đa số theo Đạo Chính Thống giáo. Bà kể lại nhưng chúng tôi cảm thấy có sự dè dặt của Bà là người từng sống trong chế độ Cộng Sản. Ai đã từng sống trong chế độ Cộng Sản đều thừa biết rằng tư tưởng, lời nói của mình đều có thể khiến mình có thể bị tù, hay đi cải tạo vì khác với chủ trương, đường lối của Nhà Nước hay của Đảng. Con đường đi duy nhất là tuân theo, thi hành những gì do Đảng và Nhà Nước lãnh đạo! Bà nói đến một “farm dâu tây” nhưng rẫy dâu đâu không thấy, có thể nó chỉ ở sau khu phố kia mà một tấm bảng của farm được dựng lên gần đó như là sự chỉ dẫn.
Xe về chắc gần Thành phố nên lượng xe càng đông hơn; hệ thống đèn đường cũng nhiều. Các dãy chung cư san sát, cách kiến trúc khá hài hòa, chứng tỏ trong thời Liên Xô sự xây dựng được theo kế hoạch và mỹ thuật nào đó và cũng không mất khung cảnh cây xanh như môi trường sống. Có những chung cư cũ đang được sơn phết lại. Nhiều chung cư, building mới được xây lên nhưng không biết đó là của tư nhân hay Nhà nước hiện nay cùng với những cơ sở của các công ty ngoại quốc khác đầu tư vào. Bên đường những chuyến xe lửa cũng thường xuyên tới lui, cùng với các xe lửa điện (tram) và xe buýt chạy bằng điện với hai cần dài nối lên dây điện để đưa khách trong phương tiện công cộng. Ít thấy những xe tải hạng nặng trên đường, chẳng lẽ những khu kỹ nghệ sản xuất nằm xa trên tuyến đường nầy!
Đã có triệu chứng đường bị kẹt xe, chắc là có tai nạn phía trước, hay là xe đi vào khu vực Thành phố. Xe cũng nhích lần về phía trước từ từ, chậm chạp. Nhưng không, đó chỉ là một ngã tư với rất nhiều xe. Qua nơi đó là xe đi vào khu vực xe cộ, building đông đúc hơn. Quả thực xe càng đi sâu vào khu vực Thành phố Moscow sau khi đã quẹo phải. Bà Hướng Dẫn Viên chỉ cho chúng tôi một công trình chung cư xây dựng dang dỡ rất là cũ bên đường mà bà nói đó là từ thời Liên Xô còn sót lại, nhưng không được đập quá dọn dẹp đi. Mọi người cười ồ! Riêng tôi tôi thấy điều ấy không lạ vì trong chế độ mà Nhà Nước quản lý thì “Cha chung không ai khóc” là một chuyện thường! Ngày tôi còn đi dạy sau 30/04/75 do nơi mọi hoạt động xã hội đều phải đình trệ vì Nhà Nước tái phối trí, cũng như tổ chức trở lại cái hệ thống xã hội theo Chủ Nghĩa Xã Hội đã làm cho người ta lâm vào cảnh thiếu thốn mọi bề kể cả lương thực, nhu cầu thiết yếu cho đời sống; lúc đó người làm cho Nhà Nước chỉ lo chạy kiếm ăn, lo đời sống gia đình chứ không coi nhiệm vụ của mình là chính yếu nữa, nhất là với lương bổng chẳng bao nhiêu. Còn trong dân chúng vì quá đói người ta sinh ra trộm vặt khá nhiều, càng làm cho đời sống của người dân càng khó khăn hơn nữa! Ở trường hợp nầy khi nào Nhà Nước cung ứng đầy đủ thì được xây tiếp để hoàn tất, không thì bao nhiêu đó rồi cứ đợi chờ. Đó là chưa nói đến trường hợp cắt xén ngân sách để bỏ vào túi riêng, hoặc chia chác nhau một cách vô tội vạ vì tiền ấy là của Nhà Nước chứ không phải của nhân dân.
Xe đi qua các con đường tương đối rộng rãi với nhiều xe cộ, cũng đông đúc không khác gì với các nước khác mà tôi đã biết, có thể từ lúc Liên Xô tan rã cho đến ngày nay cũng đã là gần 30 năm rồi còn gì. Các building mới mọc lên khá nhiều, nhất là những cơ sở thương mại khang trang của các nước khác đầu tư vào. Cơ sở thức ăn nhanh của Mac Donald hiện diện rải rác ở hai bên đường.

Nguyên Thảo,
04/08/2019.




Saturday, October 12, 2019

*Cứ Đi!



Đi mãi, cứ đi, trọn cuộc đời
Đời buồn, nhiều khổ, chẳng bao vui
Có chăng, những lẽ đời vô vị
Như thế, mà suy cái sự đời
Năm tháng, bao mùa luôn tiếp nối
Ngày qua, chuỗi tuổi lại không rời
Trách không? Con tạo vô duyên quá!
Nhân thế vào đời đóng kịch chơi!

Đồ Ngông,
13/10/2013.




*Đi Nga. (1)



Tôi dự trù sẽ viết thêm một hoặc hai bài nữa về “Đường Đến Băng Hà” để hoàn tất loạt bài nầy khi chuyện kể kết thúc ở chặng đường “Giã từ Vancouver và Canada”, mà sẽ không tiếp theo ở chặng đường Hawaii trước khi trở về Úc. Nhưng mọi dữ liệu ghi lại trong máy vi tính đã mất theo sự hỏng của nó nên đành “bỏ qua”. Nhưng dù gì: Bao nhiêu đó cũng gọi là “Tạm đủ”, dù là chưa được trọn vẹn.
Thế rồi, hôm nay tôi lại “hứng thú” muốn ghi lại vài “chia sẻ” khác đến cùng Quý độc giả xem chơi. Đây không là một ký sự, mà là những chặng đường của một chuyến đi. Tôi sẽ ghi lại những thực tế, và kinh nghiệm mà chúng ta cần rút ra vài bài học.
Nhân hai vợ chồng tôi và đôi cặp vợ chồng: Anh Thới - Chị Hai; Anh Bích và Chị Tường Vi cùng rủ nhau đăng ký vào tour du lịch ở công ty Friendly Travel của anh Vương Chánh tự trên Melbourne qua Tina thuộc công ty du lịch Goodway trên đường Hanson. Mọi thủ tục đều êm xuôi, giấy tờ đầy đủ, và rồi chúng tôi chuẩn bị cho một cuộc hành trình xa xôi đến “Nước Nga và vài vùng ở Trung Âu”.
Vì chuyến bay của Singapore Airlines đến Adelaide không nhiều, nên chúng tôi phải đi sang Singapore mới nhập đoàn chung với các nơi khác, tính theo thời khắc là phải đến Singapore và đợi đoàn đến gần nửa ngày trời. Nhưng dù vậy vẫn còn hơn là đến Melbourne nhập đoàn thì phải tốn thêm khá nhiều tiền cho máy bay và khách sạn để ngủ qua đêm.
Sáu người qua thủ tục “Check in” gởi hành lý, vào cổng, và qua hải quan để đến phòng đợi lên máy bay. Tất nhiên là phải đợi khá lâu cho chuyến bay vì mãi đến hơn 9 giờ máy bay mới bắt đầu cất cánh.
Chuyến bay vượt đường dài và mất gần tám tiếng đồng hồ thì cũng đến được phi trường Changi của Singapore. Xuống máy bay với hành lý xách tay, còn hành lý ký gởi khi đến Moscow mới nhận lại.
Phi trường Singapore rộng nên chúng tôi phải lần mò đi tìm nơi để lấy cái voucher mà hãng máy bay cho với khoảng 20 đô Singapore mỗi người, nhờ chị Tường Vi (chị Bích) khá Tiếng Anh nên công việc trôi chảy không gặp trở ngại nào.
Do nơi mấy lúc gần đây tôi thường thấy trên “you tube” rất nhiều người làm những ký sự du lịch bằng hình ảnh, video rất là hấp dẫn, mà cũng không thiếu tài liệu mà họ gọi là Vlog. Xem các chương trình ấy mà tôi lại thấy tự thẹn với lòng. Mình sao tệ quá! Nhưng an ủi được cái là mình viết kỷ niệm cho mình, đồng thời chỉ để mua vui cho mọi người, với những ai đã bỏ thời gian để vào blog mình mà đọc, nhất là cùng với các Cựu Học Sinh của trường Trịnh Hoài Đức.
Nhiều lần tôi đã khẳng định là tôi chẳng có khả năng về viết lách hoặc làm thơ từ lúc xa xưa. Nhưng do một “nguyên nhân kỳ lạ” tôi lại “nhảy ra” làm thơ và viết văn, thì những cái chuyện thơ văn “vớ vẩn” tôi vẫn xem là chỉ “chia sẻ” cùng với mọi người cái mà mình có được! Do suy nghĩ như vậy mà tôi lại không tự thấy “thẹn” với  lòng nữa!
Trong chuyến đi nầy, những suy nghĩ “viết về chuyến du lịch” làm tôi cứ mãi băn khoăn, đôi lúc không muốn viết giống như lúc trước mình không viết thì cũng chẳng có sao. Rồi lại nghĩ “viết để kỷ niệm, để mua vui với bạn bè” thì cũng tốt. Nhưng viết như thế nào bây giờ. Về hình ảnh, tài liệu người ta đã có đầy đủ trên Vlog của họ rồi. Còn muốn tìm tài liệu đầy đủ hơn thì cứ đánh lên Google để hiện ra mà đọc. Vậy thì mình viết như thế nào bây giờ? Đôi lúc tôi lại không muốn viết nữa!
Từ kinh nghiệm trong vài chuyến đi thì chuyến đi nào cũng vậy, khâu chuẩn bị đều vất vả cả, kể cả những chuyến đi ngắn ngày ở gần; còn đi xa thì phải suy nghĩ, chuẩn bị nhiều hơn. Người lo nhiều là vợ tôi, vì tôi bận vào công việc khác. Tôi chỉ dành ra vài ngày để lo hành lý, tư trang của mình trước chuyến đi.
Đi du lịch thì cũng tùy theo quan niệm của mỗi người, người thì thích đi, làm có bao nhiêu tiền cứ dành dụm để đi, họ đi theo cái thích thú và muốn tìm hiểu, ngắm nhìn. Còn người thì không thích, họ thích vào các phương diện khác. Thường thì người thích tìm hiểu, tò mò hay thích đi hơn chứ không hẳn là đi du lịch. Ông bà ta ngày xưa đã có nói: “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn” thì tôi nghĩ cũng có thể là vậy, nếu người đi biết học hỏi thì có thể học hỏi rất nhiều điều trên chuyến đi.
Lang thang hàng giờ trên phi trường Changi, từ những tiệm bán hàng cho đến các công viên trang điểm cho phi trường, chúng tôi cứ mãi lo lắng vì không có số điện thoại của người Hướng Dẫn Viên vì cô ấy khi gọi đến chúng tôi là số điện thoại “Private” nên số không hiện ra, mà cổng của phi cơ đi Moscow bây giờ thì chưa hiện lên trên bảng vì thời gian còn quá sớm. Vừa phập phồng, vừa lo âu vì sợ bị lạc với đoàn, cho nên chúng tôi chỉ lẩn quẩn ở Terminal 3 mà thôi. Rồi để giết thì giờ, lại đi xin số Wi-fi để vào internet cho đỡ buồn.
Ngồi hoài thì cũng chán, lại kéo nhau đi ra đi vào. Đến giờ ăn thì lên các quầy bán thức ăn để mua. Mình muốn ăn cái gì thì xếp hàng mua món ấy, lấy giấy và trả tiền. Người ta sẽ kêu mình đến gian hàng nào đó để đưa giấy và sẽ được phục vụ. Chúng tôi đa số là ăn thử cơm gà “Hải Nàm” ở đây xem sao?
Mệt mỏi quá rồi chúng tôi lại đi kiếm chỗ để nghỉ ngơi, mà cứ luôn nhìn vào đồng hồ để xem tới giờ chưa để đi đến cổng chờ nhập với đoàn, đến lúc đó thì chúng tôi mới an tâm. Thế rồi sau một thời gian dài, chúng tôi cũng nhìn thấy giờ giấc, cổng của chuyến bay đi Moscow được hiện lên trên bảng của những chuyến phi cơ sẽ khởi hành. Lòng đỡ lo hơn, và chúng tôi đi mua vài thứ để chuẩn bị cho cuộc đi, rồi kéo nhau đi về cổng của chuyến bay đợi chờ đoàn đến.
Vì nóng ruột và không biết như thế nào, lòng chúng tôi vẫn luôn bồn chồn trông ngóng, không biết rồi sẽ có gặp đoàn hay không. Lòng vòng ở khu đợi cũng khá lâu, thì thấy có bốn người Việt đến: Một người đàn ông và ba người đàn bà. Thấy họ ngồi trên băng, nói tiếng Việt, mà lại ở đây tôi hồ nghi là những người cùng chuyến nên tôi đến bên người đàn ông hỏi chuyện. Đúng là những người từ Sydney đến, anh Thạnh (tên người đàn ông) kêu vào ngồi ghế kế bên anh. Chúng tôi bắt đầu hỏi han nhau và làm quen. Tâm tình hồi lâu thì anh bận công việc đi một chút, tôi cũng đứng dậy ra ngoài. Ngay lúc đó một đoàn người đến, có một cô trẻ mà gương mặt hao hao với cô Liên làm Hướng dẫn viên cho đoàn lúc vợ chồng tôi cùng vợ chồng anh Thới đi trong chuyến sang Canada, nên tôi nghĩ chắc là Jennifer, em cô Liên. Quả đúng là đoàn từ Melbourne đến. Tôi nghe an tâm trong lòng. Jennifer cho biết đoàn gồm có 27 người từ Melbourne kể cả cô, 4 người từ Sydney và 6 người ở Adelaide, vị chi tất cả là 37 người.
Nhưng vì Jennifer bận rộn, dẫn vài người đến vị trí để nhận “voucher” mà hãng máy bay đã cho. Còn “băng” chúng tôi bây giờ hoàn toàn an tâm, ngồi thoải mái để chờ đợi giờ đi qua nơi kiểm soát hành lý và vào khu vực đợi chờ chuyến bay. Thật là một chuyến đi hồi hộp chỉ vì thiếu đi cái số điện thoại để liên lạc mặc dù trong mấy người chúng tôi vẫn có số điện thoại được kết nối khi chuyển qua vùng khác!
Không bao lâu thì chuyến bay cũng được khởi hành. Tất nhiên là chúng tôi cũng chỉ được ngồi hạng “economic” mà thôi! Ngồi phía sau đuôi nhưng cũng là ở trên máy bay; máy bay cũng đưa mình đến nơi, chứ đâu có bỏ lại ở phi trường đâu, mặc dù tiêu chuẩn không cao hay thoải mái lắm. Tôi ngồi kế bên một anh chàng mà tôi cứ ngỡ anh ta là một người Tàu đi du lịch hay làm ăn gì đó trên đất Nga. Khi đến buổi ăn thì tôi để ý là anh ta ăn bánh mì trước, sau đó là ăn toàn là salad rồi mới đến các thức ăn khác. Tôi lấy làm lạ, thầm nghĩ: Không biết cái cách mình ăn sai, hay là cách ăn của anh ta là như thế; vì thực ra về cách ăn thức ăn Tây Phương thì mình cũng chẳng là thông thạo cho lắm! Thôi thì cứ nghĩ là “cái nào cũng vào đấy” như một anh “chi viện” ngày xưa đã nói. Món nào rồi cũng vào trong bao tử cả ấy mà!
Trên chuyến bay đường dài thì người ta chuộng cái ngủ là hơn cả. Ngủ để quên đi đoạn đường “xa lắc, xa lơ”, không cảm thấy khó chịu trong cái chật chội của hạng vé “cá kèo, bình dân”. Nhưng những hãng máy bay khi thiết kế người ta cũng đã tính toán đến các nhu cầu cho hành khách đủ cả từ cái “toilet” đến phương diện giải trí cho những người khó ngủ, từ xem đường bay, vận tốc, độ cao, vị trí của máy bay đến các loại phim, nhạc, TV, hay “game” trên màn hình cho cả con nít lẫn người lớn. Nhưng trong thời đại ngày nay, con nít thường được cha mẹ đem theo cái iPad, hay Tablet để chúng tha hồ chơi “game” quen thuộc của chúng, khiến chúng say mê mà không phải khóc, bực bội như ngày trước nữa. Tôi thuộc loại khó ngủ nên cứ loay hoay trên cái tư thế ngồi, và cái màn hình, cuối cùng thì  cứ chọn cái “Phim movie” nào đó có cái tựa hơi là lạ là cho nó chạy dù tiếng Anh của mình không đủ để hiểu: Cứ coi hình mà đoán vậy! Hết phim thì chẳng biết làm gì, cứ mở thêm phần thông tin về chuyến bay để coi máy bay đang trên độ cao nào, vận tốc là bao nhiêu, còn bao lâu thì đến nơi, hoặc nó đã đi được bao xa rồi! Những chi tiết ấy cũng thú vị, thu hút được rất nhiều người, khiến họ quên đi cái đoạn đường dài!

Nguyên Thảo,
11/07/2019.