Monday, August 27, 2018

*Viết Về Xứ Búng.


Xứ Búng không xa làng Tân Khánh của tôi là bao nhiêu, chỉ khoảng 8 cây số. So đường cũ ra Bình Dương thì cũng vậy nếu băng thẳng qua đường sân bay. Nhưng từ khi quân đội Mỹ chặn sân bay để làm căn cứ Sư Đoàn 1 Không Kỵ (khoảng giữa những năm 60) thì đường qua vườn Bà Đôn, Sân Bay được thay thế bằng đường tẽ sang miễu Hoa San (vì chị Hoa San bị tai nạn chết tại ngã ba đó), rồi chạy về Bình Quới nên đường ra Bình Dương kéo dài thêm 2 cây số. Nói như vậy, Tân Khánh có khoảng cách ra Bình Dương hay Búng tương đương với nhau. Nhưng ra Tỉnh thì chúng tôi hay đi, còn ra Búng thì thỉnh thoảng thôi. Tuy nhiên, về sau tôi vẫn có vài thời gian gắn liền với Búng một cách thân thiết: Vì tôi đã học và đã đi dạy ở đó được vài năm.
Cái điều mà xứ Búng được đưa ra thành vấn đề “thắc mắc” nhất là: “Tại sao mà Trường Trịnh Hoài Đức, lúc ấy là Trường Trung Học Công lập duy nhất của Tỉnh Bình Dương, không được đặt tại Tỉnh lỵ mà lại đặt ở một xã như xứ Búng”? Tôi thì không hiểu nhiều, vì có lần tôi đã thổ lộ ý mình là từ ngày thi vào bậc Trung học, tôi không có may mắn đậu vào Trường mặc dù tôi rất muốn. Thế mà sau những năm đi học “vòng vo” đến năm lớp Đệ Nhất (lớp 12 sau nầy) tôi được về Trịnh Hoài Đức để học năm cuối, chỉ vỏn vẹn 1 năm. Nhưng trong bài nầy tôi sẽ viết về Xứ Búng theo cái ký ức mà tôi đã biết.
Lúc còn nhỏ lắm tôi không nhớ là từ lúc nào, có lần má tôi dẫn tôi ra chợ nào đó mà tôi không biết, khi ấy gia đình ba má tôi chắc còn ở trong Vĩnh Trường chứ chưa dời về chợ Tân Phước Khánh. Tôi chỉ mang máng là lúc còn ở chợ thì có tiếng súng nổ nhiều như là hai bên Tây và Việt Minh đụng trận nhau ở đâu gần gần. Má tôi có hỏi ông xe ngựa nên về hay không, ông cũng ngần ngừ: Không biết nên về hay không? Cuối cùng thì bao nhiêu người đi xe ngựa đều nói: Thôi đi về đại. Thế là mọi người cùng đi về. Khi xe đi lên dốc kế bên gò mả người ta thấy nhiều xác nằm chết trên một cái mả cao nhất. Hình ảnh ấy in vào đầu óc non nớt của tôi, đến đỗi về sau tôi không biết là hình ảnh ấy ở đâu, có lúc tôi lại tưởng là tôi nằm mơ, tôi cố tìm hình bóng đó trên đường ra Thủ Dầu Một hay Bình Dương về sau, vẫn không thấy hình thực của nó.
Rồi thời gian qua đi, đến khi tôi thi rớt vào lớp Đệ Thất ở Trường Trịnh Hoài Đức theo lẽ thì học lại ở Trường Tiểu học Tân Phước Khánh để năm sau thi lại. Nhưng vì bao nhiêu người nghĩ rằng Hiệu Trưởng Trịnh Hoài Đức là ông Trương Văn Di vừa là Hiệu Trưởng Trường Tiểu Học Cộng Đồng Dẫn Đạo Búng lại là Hiệu Trưởng Trường Trung Học Công Lập Trịnh Hoài Đức thì học trò Trường Cộng Đồng sẽ dễ đậu vào trường Trịnh Hoài Đức hơn. Do vậy ba tôi từ khi ra Phú Lợi làm thuốc (trồng thuốc lá) ở đất của Dượng Năm tôi là Ông Năm Khứa, có quen với Bác Chín Vô (Ba nhà giáo Kim Long), hình như Bác làm Giám học ở trường Cộng Đồng thì phải, để nhờ Bác xin cho tôi được học ở trường Cộng Đồng. Thế là từ đầu năm học, tôi được ra Búng để học ở Lớp Nhất Tiếp Liên với Thầy Nguyên có tiếng là nghiêm túc và dạy giỏi. Ở Trường Cộng Đồng có những giờ Chăn Nuôi, hay học nghề Thủ Công như dệt vải mà khu học đó ở phía bên kia đường. Nhưng năm nầy chúng tôi không học được nhiều như những khóa trước. Theo lời những người bạn cùng quê như Thái Văn Tâm, Lưu Văn Hòa, Trương Văn Lập … học trước thì họ học được rất nhiều thứ. Mỗi lần gặp nhau họ kể nghe mà mê. Sở dĩ, họ ra ngoài Búng học từ lâu là vì khi Trường Tư Thục Cây Gòn của Thầy Khai bàn giao lại cho Chính phủ để mở Trường Sơ Cấp Công Lập Tân Phước Khánh (tức là chỉ đến Lớp Ba) thì họ không học ở Tân Khánh mà xin ra Búng học, còn một số ít thì đi ra Trường Nam Châu Thành ở ngoài Tỉnh lỵ. Tôi lúc đó dù nhỏ con nhưng cũng cỡi xe đạp đi hàng ngày ra Búng với các anh Năm, Sợi, Huệ, Son … Với những ngày có buổi chiều học môn Cộng Đồng thì chúng tôi phải “dỡ cơm” theo ăn trưa. Buổi thì ăn ở khu bên kia đường của Trường; có ngày đi tắm rạch với dòng nước trong, nhưng đầy rong; có buổi thì ăn tại trường hay lớp. Sau nầy tôi mới biết sự thành lập Trường Cộng Đồng Dẫn Đạo Búng, là trường học dạy theo lối mới của mô hình bên Mỹ, lúc ấy toàn Miền Nam chỉ có hai trường làm thí điểm: Một là ở Búng, hai là một trường nữa hình như ở Qui Nhơn thì phải. Và Trường Sư Phạm đào tạo Giáo viên cho mô hình đó là Trường Sư Phạm Cộng Đồng ở Long An. Vì vậy từ Trường Sư Phạm cho đến Trường Thí Điểm đều nằm ở khu có thể cho Nông Nghiệp lẫn Chăn Nuôi và Ngư Nghiệp. Nhưng địa điểm thích hợp cho mô hình đó ở tại Bình Dương có thể được nghiên cứu là ở Búng.
Khi ra học ở Búng, chúng tôi phải đi qua nhiều đoạn đường khá vắng, nên lúc nào đi một mình đến những khoảng vắng đó tôi phải đạp xe chạy thật nhanh vì sợ ma, hay sợ cọp. Ở Tân Khánh ra khỏi cống ông Huyện thì đến khu rừng cây Chàm cho đến gần Bình Chuẩn, rồi ra khỏi Bình Chuẩn là khoảng đồng vắng đến tận Thuận Giao. Từ Thuận Giao tới khu rừng chồi ra đến Hòa Lân và đổ dốc dài mà một bên là gò mả lớn. Xa trong kia có một cái mả cao lên, lúc đó trong đầu óc tôi mới loé lên hình ảnh của quá khứ hiện về: Thì ra ở cái mả đó mới chính là nơi xảy ra chiến trận thuở tôi còn thật là bé. Như vậy là tôi đã có lần được má dẫn ra xứ Búng nầy rồi mà tôi không chắc, đôi lúc tôi lại tưởng nó chỉ trong cơn ác mộng vào lúc bị bệnh mà thôi!
Lúc đầu tôi nghĩ sẽ học ở Búng trọn năm, nhưng chưa đầy một tháng thì vào một buổi trưa nhóm Tân Khánh chúng tôi tụ tập ăn cơm, nghỉ trưa để chiều học giờ Cộng Đồng thì Anh Năm, Sợi, Huệ không biết nghe tin từ đâu cho hay: Nghe người ta nói Ông Luật Sư Dân Biểu Quốc Hội Trần Văn Trai của xã An Mỹ đang vận động biến Trường An Mỹ thành chi nhánh của Trường Trung Học Trịnh Hoài Đức, tin đó được chắc chắn lắm. Thế là mấy ngày sau, mấy anh ấy tính đến chuyện bỏ học ở Trường Cộng Đồng để về học Trường Tư An Mỹ cầu may, mong nếu đúng như vậy thì mình học khỏi phải tốn tiền. Quả thật mấy ngày sau mấy ảnh bỏ học lần lần, tôi lại về xin ba tôi đi theo.
Khi về An Mỹ học Trường Tư Thục chưa đầy tháng, có tin từ bên Tân Uyên đang tuyển thí sinh vào trường Trung Học mới cho Tỉnh Phước Thành, không biết ba tôi hay tin như thế nào đó cũng đã đi theo Năm, Huệ, Sợi, Son nộp đơn thi cho tôi rồi. Thế là đến ngày thi, tôi cũng đi và giai đoạn bốn năm sau tôi gắn liền với ngôi trường mới của Tỉnh Phước Thành ấy. Và ngay trong thời điểm đó, trường chi nhánh Trịnh Hoài Đức được thành hình tại xã An Mỹ với số học sinh là nhóm đậu dự khuyết từ danh sách kết quả vừa qua, nếu tôi nhớ không lầm thì có cô Oanh làm Giám Thị kiêm Giáo Sư môn Nữ Công Gia Chánh; còn Trường Tư Thục vẫn là Trường Tư Thục. Như vậy lúc ấy tại Bình Dương đã thành hình đến hai trường Trung Học Công Lập, lúc đầu chỉ mang danh nghĩa là Chi Nhánh (Ấy là công sức của Ông Dân Biểu Luật Sư Trần Văn Trai). Và đến bốn năm sau tôi lại xin chuyển về Trường An Mỹ thì tại đây đều có Trường Tiểu học, một trường Trung Học Công Lập và một Trường Tư Thục song hành.
Viết vòng vo như để kể về một vài sự kiện đi theo trong cuộc đời khiến tôi không thể quên, nhưng chuyện Trường Trịnh Hoài Đức quả thực là ước mơ của tôi như tôi đã từng thổ lộ trong bài “Ước Mơ Về Trường Trịnh Hoài Đức”. Cuối cùng tôi cũng thực hiện được ước mơ ấy dù chẳng là bao năm trong việc “Học và Dạy”!
Búng là nơi mà người ta nói là “Trái ngọt, cây lành” cũng chẳng sai, nhưng Búng chỉ là tiêu biểu của một Thị trấn sầm uất, sinh động của xã An Thạnh, đại diện luôn cho các xã lân cận như Bình Nhâm, Hưng Định, An Sơn, Phú Văn. Nó là trung tâm của một khu vực miệt vườn: Nơi mà nhộn nhịp vào mùa cây trái của chôm chôm, măng cụt, sầu riêng, bòn bon, mít tố nữ, xoài, dâu ổi, mận … Búng bây giờ khác xưa nhiều, nó không còn cái phong phú đa dạng của ngày cũ vì có nhiều cái thay đổi của thời đại. Tôi sắp kể cho các bạn về điều ấy!
Sau cái “đi học lang thang” thì một ngày nọ cô Út Xang [con Út của Bà Hai (Thứ 2), Ông Nội tôi (Thứ Tư)] vào ngày hè dẫn tôi ra An Sơn thăm Bà Thứ Tám (má ông Bự, Xự, Út Nhuần) đi bằng xe ngựa. Ra đến Búng, Cô dẫn tôi băng chợ, đường cái, qua cầu sắt để đón xe ngựa đi vào An Sơn. Bến xe ngựa bên bìa rạch, ngay đầu cầu thì một khung cảnh đầy âm vang, tôi nhớ hình như có tiếng của khung dệt vải, có tiếng đục đẽo, có tiếng của máy tiện gỗ của những người thợ tiện đang hành nghề trong các chòi che dọc bên đường, kế rạch. Họ ngồi trên cao, đạp cái cần để thanh gỗ xoay tròn, rồi cầm các dao tiện để tiện khúc gỗ thành chân đèn, hay các thứ mà khách hàng đã đặt. Những gian hàng đó qua thời đại cơ khí đã bị biến mất vào vài năm sau. Chuyến đi ấy tôi ở nhà Bà Tám với Cô Út Xang được vài ngày. Cô Út Xang, Út Nhuần cùng Bà Tám làm gì tôi không biết, mà tôi chỉ biết tối ngày “triệt” cuốn truyện về “Đức Phật Thích Ca” mà Bà Tám tôi mướn về coi. Tôi chẳng ngờ, truyện đọc ngày ấy lại đến chừng 50 năm sau nó trở thành đề tài để tôi đi nghiên cứu về học thuyết, giáo lý của Đức Phật, lẫn tò mò đi vào một vài nghiên cứu các tôn giáo khác.
Búng đã mất, mất nhiều thứ lắm. Nếu ngày xưa nó không có những “Ưu Điểm” chưa chắc nó đã được làm Thí điểm của Trường Cộng Đồng “Dẫn Đạo”, và nếu không có Ông Trương Văn Di làm Hiệu Trưởng thì cũng chưa chắc Trường Trung Học Trịnh Hoài Đức được đóng đô ở Búng như nó đã từng. Rồi Trường Bá Nghệ cũng không hiện diện ở Thạnh Bình để làm cơ sở cho Trường Trịnh Hoài Đức nữ về sau.
Điều mà tôi không xác đáng lắm là về ngành dệt, nhưng chắc chắn là những khung dệt có hiện hữu ở Búng hay là các vùng lân cận, vì Trường Cộng Đồng có dạy sử dụng khung cửi vào thời Thái Văn Tâm, Phan Văn Mười học, nhưng đến khi tôi học thì không thấy dù tôi chỉ học trong vòng một tháng. Rồi đến những khu tiện khi người ta bắt đầu dùng điện để chạy máy móc thì nghề tiện thủ công bên đầu cầu sắt, bên bìa rạch cũng dẹp đi. Những âm vang, tiếng thoi chạy qua chạy lại của các khung cửi dệt chẳng còn khi những hàng nilông, darcron, hay tơ nhân tạo tràn vào thị trường Việt Nam. Kế đến kỹ nghệ làm guốc thịnh hành vào những năm trước vì nơi miệt nầy có nhiều gỗ do các cây trồng đã “cỗi” (quá già) được đốn đi để thay thế những cây trồng mới (tơ) khác có năng suất thu hoạch hơn. Gỗ nầy thích hợp cho guốc nên được cưa thành những đôi guốc để bán ra thị trường. Rồi đường xe lửa từ Sài Gòn lên Lộc Ninh và trở về do chiến tranh bị tàn phá, mất an ninh phải chấm dứt có lẽ từ năm 68. Thế là những tiếng còi hụ, tàu chạy, những âm thanh rầm rập không còn nữa. Những khu vườn cây ăn trái như sầu riêng chôm chôm được phát triển ở các vùng khác như Long Khánh, Long Thành được ưa chuộng hơn, nên sinh hoạt ở Búng vào mùa cây trái cũng bị bớt khách đi. Thêm vào đó, sau Mậu Thân đường xa lộ vòng đai bên ngoài từ Phú Long chạy qua Bình Hòa, Hưng Định, Hòa Lân, Phú Văn về Ngã Tư Cây Sao Quỳ lên Chợ Cây Dừa đi Bưng Cầu, Bến Cát, An Lộc thay thế đoạn Quốc Lộ 13 vòng vo trong các khu vườn Phú Long, Lái Thiêu, Bình Nhâm khiến lưu lượng xe cộ qua Búng cũng giảm đi khá nhiều. Xe Lam (Lambretta) ba bánh chở khách thay thế xe ngựa, khiến những chiếc xe lóc cóc, lạch cạch đành nghỉ dưỡng hưu. Kéo theo nghề đóng móng ngựa, móng bò ở dốc sỏi đường xuống nhà thờ Hưng Định phải ế ẩm, dẹp tiệm. Ngày tôi trở về Trịnh Hoài Đức học năm Đệ Nhất (niên học 65-66) xóm Lò rèn không còn hoạt động như xưa, nó trở nên tương đối hiền lành, không mấy tiếng tăm như thuở trước. Có còn chăng là tiếng ồn ào của lò chén với máy móc, cơ giới trong một khoảng thời gian nào đó, tiếng chuông nhà thờ Hưng Định vào sáng tối; tiếng trống chùa công phu sáng, chiều, tối âm vang như những hồi Bát Nhã lẫn vào hư không để cầu hồn cho những linh hồn vất vưởng được siêu thoát. Rồi ở bên bìa rạch gần cầu Bà Hai có những ghe tro, bụi từ miền Tây đi lên được bốc lên xe bò để đưa đi và chén từ càc lò ở Chòm Sao, An Thạnh, Thuận Giao, Tân Khánh được chất lên chở về miền Tân buôn bán.
Còn về trường học, cái thời giữa những năm 60, lúc đó chỉ có hai trường Công lập, một là Trịnh Hoài Đức, hai là An Mỹ nên học sinh tập trung về nhiều. Điều mà Anh Nguyễn Công Tế viết trong bài “Xứ búng Ngọt Ngào” quả là như thế. Học sinh Trịnh Hoài Đức xa quê nợ dân xứ Búng nhiều lắm. Rất ít nhà cho học sinh trọ mà lấy tiền. Có lúc họ lấy tượng trưng, nhưng sau vì thấy học trò không có tiền họ chỉ cho ở không; mà tình thương như thương con cháu trong nhà thì sao không “nợ” cho được. Rồi những năm sau nữa các trường Trung học Công lập Tỉnh hạt được mở ra khắp các Quận, nên số học sinh không còn đổ về Trịnh Hoài Đức như xưa, và Búng cũng lại mất phần.
Nói như vậy là Búng không phải mất ưu thế của nó, nó chỉ bị thu hẹp lại thôi bằng chứng là Trường Nông Lâm Súc được mở ra khoảng giữa Trường Trịnh Hoài Đức và Tiểu Học Cộng Đồng với bề thế không nhỏ, đến Bậc Trung Học Đệ Nhị Cấp chứ vừa sao, để từ đó học trò trường đó có thể đi vào Trường Đại Học Nông Lâm. Học trò trường Trịnh Hoài Đức dễ thành thi sĩ, viết văn lắm vì những sóng lúa dạt dào theo gió, vì những cánh đồng lúa vàng vào mùa lúa chín, hay cái cảnh người lom khom gặt, đập lúa. Rồi mùa khô trồng hoa màu, nhất là mùa củ sắn (củ đậu) khiến cho ai cũng có nhiều kỷ niệm.
Sau 30 tháng Tư 75, đất nước vào một vận hội mới, cách tổ chức không biết được nghiên cứu kỹ thế nào, chứ hậu quả của Thủy lợi khiến nước mặn tràn vào lên đến cả khúc sông trên Bình Dương khiến các khu vườn bị thiệt hại nặng nề, có vài nơi cây cối, lúa bị ngập mặn chết. Đã đói lại càng đói hơn. Người nghèo đi, ít ai nghĩ đến chuyện đi vườn trái cây như ngày xưa, xe cộ thiếu nhiên liệu, sự đi lại càng nhiều giới hạn. Những quán bì bèo, bún bì như Mỹ Liên, Ngọc Hương không biết còn bán được hay không vì chờ vào Hợp Tác Xã. Thôi thì người ta cứ tranh thủ cuộc sống. “Sự Đấu Tranh Sinh Tồn” trở nên cấp thiết. Để bảo tồn sự sống người ta phải mưu sinh bằng mọi cách dù là Thiện hay Ác, dù là Nhân Đức hay Không? Sự luồn lách khiến con người trở nên liều lĩnh, vô tâm, biết hối lộ và biết cách làm tiền trên công sức của người khác. Ôi, rồi sau nầy thế nào để sửa chữa xã hội được đây?
Bây giờ trong “Cuộc Đổi Mới” Búng có lẽ cũng khá hơn nhiều, nhưng theo tôi nghĩ thì “Thời Huy Hoàng Vàng Son” đã qua đi. Không biết ngày nay có những vị nào vang danh cho xứ Búng không, chứ ngày xưa một Phan Văn Hùm, có tên trong lịch sử (có lẽ là sử trước 75). Rồi một ký giả Văn Bia (chủ nhà Thuốc Tây Lê Hồng) và một Thiền Sư Nhẫn Tế (Thubten Osall Lama) người đã qua Ấn Độ, Tây Tạng về thành lập hai ngôi chùa Thiên Chơn (Búng) và Tây Tạng (Bình Dương). Nhưng chắc chắn một điều là Xứ Búng cũng đã, đang góp phần đào tạo nhân tài cho Tinh Bình Dương qua Trường Trung Học Trịnh Hoài Đức của bao năm, nhiều thế hệ. Và người dân ở đó đã đem tấm lòng mình trải ra cho những đứa học trò mà ông bạn Nguyễn Công Tế của tôi kể lại trong “Xứ Búng Ngọt Ngào”.

Nguyên Thảo,
27/08/2018.



Sunday, August 19, 2018

*Đường Đến Băng Hà! (12)


Trên du thuyền nếu chúng ta có nhiều sở thích thì du thuyền cũng làm cho mình trở nên sinh động. Mình có thể tham dự vào nhiều hoạt động khác như Tai Chi, Tập Thể dục, làm đẹp, Thử rượu, Casino, Xem Triển lãm, Mua sắm, Ăn uống, Dự đấu giá… kể cả lớp Nghiên cứu về Kinh Thánh hay làm Thủ công hoặc Xem phim, Ca hát, Tắm hồ, Trò chơi. Gần như những hình thức giải trí đều có, dù là có tiền hay không. Còn ăn uống thì tha hồ. Nhưng đối với chúng tôi thì không có những mục đích khác ngoài việc đi du lịch đến thăm băng hà, ngắm cảnh, “đi cho biết đó biết đây” chút ít mà thôi; cho nên du thuyền đối với chúng tôi không có nhiều hứng thú, nếu không nói là khá nhàm chán vì chỉ có ăn, ngủ, ngắm cảnh mà cảnh trên biển đâu có gì để ngắm. Du thuyền như là một phương tiện để đến nơi, thực hiện mục đích của mình.
Nói thế, chứ ít ra chúng tôi cũng đã trải nghiệm được ít nhiều cái lạnh, cái khung cảnh Canada vào cuối Đông đầu Xuân, được biết được cái sinh hoạt và cảnh trí ở một phần đất phía Bắc của Trái đất. Được chiêm nghiệm cái thích hay không của cái thú đi Du thuyền; và nhất là “Để thấy lại” cái không an toàn của chuyến vượt biển trên một tàu cây, nhỏ bé ngày xưa, để rồi ngẫm nghĩ “Tại sao xứ mình trong chiến tranh ác liệt như thế đó mà chẳng mấy người bỏ xứ ra đi, mà sao khi đất nước Thanh bình lại cùng nhau bỏ xứ ra đi, mình có phải “phản quốc” hay không? Mình có phải là không yêu nước, hay là “chế độ” khiến mình phải đi vì Thành phần lý lịch, vì Đấu tranh giai cấp, vì Quan điểm, vì cách Tổ chức của Hệ Thống kinh tế Tàn lụi, và nhất là “O ép” tất cả người dân vào thực hiện một đường hướng “Thảm não” mà chẳng thấy được sự tươi sáng của tương lai”! Rồi từ đó tôi lại nhớ về cái nhận xét nào đó mà người bạn tôi đã kể lại sau 75: “Thành phần trí thức là thành phần thiết tha với Chủ nghĩa trước nhất vì thấy cái lý tưởng tốt đẹp của nó, nhưng cũng chính họ là những thành phần bất mãn trước cả khi Chủ nghĩa bắt đầu thực hiện”, cái nhận xét đó khiến cho tôi đi tìm hiểu “Nguyên nhân” đến tận bây giờ, nhất là sau những biến động của Liên Xô và toàn khối Đông Âu. Chàng võ sĩ tính sai nước cờ, đường đi hay là đã “Thất một thế võ” trong một cuộc đấu? Một Chủ Nghĩa mang lý tưởng tốt đẹp cho toàn nhân loại, sau gần 70 năm thực hiện đã một sớm một chiều bị sụp đổ, mà trong quá trình thực hiện người dân ở đâu cũng đều có chống đối trong mọi thời kỳ, vậy thì chính nhà cách mạng nhân loại đã nói “nơi nào có áp bức, là nơi đó có đấu tranh” quả là không sai! Nhưng thói thường người làm sai chẳng thấy mình làm sai mà luôn nghĩ mình đúng, thế mới là chết Thiên hạ! Có người lại nói rằng: “Chính những người Cộng Sản đã giết chết Chủ Nghĩa Cộng Sản”, không biết điều ấy có đúng hay không?
Trong cuộc đời chúng ta luôn có nhiều điều khiến mình nghĩ miên man. Tôi cũng từng đã nghĩ miên man, nhưng chỉ nghĩ để mà chơi thôi vì thân phận “Mình lo mình chưa xong, có đâu mà lo chuyện thiên hạ”! Thế nên nay đành theo chiếc du thuyền nầy để lên đến “Băng Hà”, ở đây mới thật là những sông băng vì phần cuối của nó đổ xuống những dòng sông.
Theo từ trong tài liệu của Du thuyền thì ý tưởng về Công viên Quốc gia được thành hình từ thế kỷ 19 để bảo tồn những thiên nhiên đặc biệt, các nơi thuộc về văn hóa dưới sự chủ quyền công cộng. Đến năm 1864 khi Chính quyền Liên bang Hoa Kỳ cho Tiểu bang California quản lý khu Yosemite Valley với mục đích công cộng, tổ chức cũng như vui chơi thì 8 năm sau Quốc Hội tạo ra “Công viên Quốc gia” đầu tiên của Hoa Kỳ là Yellowstone, rồi sau đó bắt đầu cho các “Vườn Quốc gia” khác. Đến năm 1916 thì “Những Phục Vụ ở Parks” được hình thành.
Glacier Bay National Park là một Vườn Quốc Gia của Hoa Kỳ nằm ở Đông Nam Tiểu bang Alaska với diện tích khoảng trên 13 ngàn cây số vuông được thành lập vào cuối năm 1980. Nó đã được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới vào năm 1979, sau đó là Khu Dự Trữ Sinh Quyển vào năm 1986. Nơi đây được xem là quê hương chính của người dân Tlingit địa phương; và những băng hà hiện nay thuộc Thời Kỳ Tiểu Băng Hà, còn vào Thời Đại Băng Hà cho đến 10 ngàn năm trước thì băng hà còn tiến xa hơn về phía nam. Khách du lịch đến đây chỉ bằng phi cơ hay là tàu. Vịnh Băng Hà nầy được Captain George Vancouver tìm thấy đầu tiên vào năm 1794, nhưng đến năm 1879 thì nhà nghiên cứu tự nhiên là John Muir đến viếng với nhóm người Tlingit địa phương. Qua sự diễn tả nơi nầy bằng những vần thơ thơ mộng, truyền cảm đã khiến Vịnh càng nổi tiếng hơn.
Canh o Glacier Bay

Trong những điều mà trong tài liệu của du thuyền phát cho từng phòng có giải thích vì sao “Băng có màu xanh dương (blue)?”: Vì các màu khác có độ sóng dài cho nên bị băng hấp thụ và nó chỉ phản chiếu lại màu xanh có độ sóng ngắn thôi. Tại sao ở Vịnh ta không thấy lạnh: Vì gió, thủy triều và khí hậu đại dương khiến ta thấy ấm hơn. Rồi nào là Vịnh sâu khoảng 3,000 m; bề mặt của Băng hà Margerie cao chừng 80 m cao và chìm dưới nước khoảng hơn 30 m; Băng hà Grand Pacific quá dơ vì do băng đi qua vùng đá, đất của thung lũng nên tập hợp đá và chất dơ. Quả thật như vậy, ngày xưa lúc còn học ở Trung học tôi đã có học về băng hà, băng hà kết tụ nhiều năm trên núi hay vùng cao, rồi do trọng lực, độ nghiêng, băng di chuyển lần về phía dưới qua các hẽm, hay thung lũng; trên đường đi nó bào mòn đất đá dù cứng hay mềm, sạch hay dơ và lôi cuốn chúng theo. Đến nơi nào đó nhiệt độ tăng lên khiến băng ta dần, còn lại sỏi, sạn, đá hoặc cát, đất bùn bị nước cuốn trôi đi. Điều đó trong ngày nay tôi sẽ được chứng kiến và kiểm nghiệm lại điều đã học xa xưa.
Bang ha tren dat (Terrestrial Glacier)

Tài liệu hướng dẫn còn lưu ý du khách đừng cho thú vật hoang dã ăn, hay giữ kỹ không để những vật dụng dễ rơi, gió thổi bay hoặc xả rác để nơi đây luôn sạch, đẹp, cùng giữ gìn cho những thế hệ sau đến đây tham quan. Đó là những điều đại khái mà chúng tôi được cung cấp về kiến thức cũng như những dặn dò cần tuân thủ để góp phần bảo vệ, bảo tồn khu vực nầy.
Còn phần tôi và anh Thới thì 6 giờ thức dậy làm phần vệ sinh cá nhân, rồi 7 giờ lên boong tàu ăn sáng ở nhà hàng “all you can eat” Horizon Court, cũng là nơi để ngắm cảnh Trời, Non, Nước. Điều ấy đúng như vậy, vì lúc nầy trời đã sáng và Du thuyền đang đi vào cửa ngõ của Glacier Bay tức là qua Sitakaday Narrows. Mặt nước yên, phẳng lặng, phản chiếu rõ rệt những vùng núi ở bên trên nó. Hai bên là vùng núi với tuyết đọng trắng từ trên đỉnh xuống hơn phân nửa, tạo nên hình ảnh trắng trên nền trời xanh lơ và nước phản ánh lại các màu sắc, hình ảnh, bức tranh thật là đẹp. Những hòn đảo với cây cỏ xanh xanh thêm phần duyên dáng. Không biết những con vật biển như cá voi, rái cá… mà tài liệu nhắc đến chẳng thấy ở đâu hay là chúng đi ngủ cả rồi. Tôi bắt đầu chụp hình lia lịa, vì mục đích đi Du Thuyền là chính ở nơi nầy, thế mà tại sao mình lại bỏ qua. Cầm “mobile phone” chụp tiện hơn, nên lần đi nầy tôi không sử dụng máy chụp hình, hơn nữa máy quay phim của tôi cũng chụp được nên tôi không từ bỏ những cái gì, nơi nào mình thích. Cứ chụp đi đã, rồi sẽ xem lại và bỏ sau.
Du thuyền đi đúng theo thời biểu ấn định như trong tài liệu cung cấp cho khách. Từ 6 giờ sáng, tàu đi vào Bartlett Cove, và đến giờ nầy gần 8 giờ sáng thì tàu đang đi ngang qua băng hà Queen Inlet. Lưỡi băng hà nầy chưa chìm vào nước, nó hãy còn ở trên đất liền, nhưng làm sao mình đến gần “băng điểm” (điểm băng tan) để quan sát điều đã học xưa kia, xem nơi đó có nhiều sạn đá hay không và những thứ đó với cỡ to là bao lớn. Thôi đành quay phim với ảnh gần hơn thôi! Bao nhiêu người đều đổ ra để xem các băng hà, rồi nhìn trên mặt nước trong vịnh để xem có cá voi, rái cá hay các sinh vật khác không. Nhưng chẳng thấy động tịnh gì. Du thuyền cứ từ từ đi và du khách cứ quay phim, chụp hình, đứng ngắm cảnh. Thỉnh thoảng nhiều người đi trốn lạnh, nhất là những người không ở xứ lạnh như tôi. Trốn lạnh hồi lâu lại nuối tiếc rồi chạy ra ngắm nhìn hình như không muốn để mất cơ hội, nhất là mình đã bỏ tiền, công sức để đi đến nơi đây!
Theo số liệu thì mỗi ngày chỉ có 2 chiếc du thuyền cỡ lớn, 3 chiếc tàu nhỏ chỡ người, 6 chiếc gọi là “Charter vessel” và 25 “private vessel” được vào thăm viếng trong vịnh. Còn về các băng hà thì: Khoảng 250 năm trước với băng phủ đầy nên chỉ có một băng hà rộng lớn duy nhất. Nhưng từ năm 1750 băng hà tan và lui dần về thượng nguồn khoảng 100 km, nên ngày nay có chừng 1,045 băng hà. Trong đó có 50 băng hà được đặt tên và 7 băng hà có phần băng chìm vào nước của vùng vịnh.
Canh o Glacier Bay.

Băng phần lớn từ các vùng có độ cao từ hơn 2,000 m đến 5,000 m, nhưng xung quanh vịnh chỉ có ngọn Mount Cooper là cao 2,066 m và Mount Barnard cao 2,504 m.
Du thuyền càng lúc đi vào càng gần với những băng hà, nên dù lạnh người ta vẫn đứng trên boong để quan sát. Tôi đứng lo mãi mê nói chuyện với anh Thới, anh Hiệp thì đột nhiên thấy trời sáng rỡ ra. Có thể ánh nắng chói chang, nhưng không hẳn là do ánh nắng. Trời trong xanh không chút mây gợn, mặt nước phản chiếu màu xanh ấy, rồi trong bóng của băng cũng lại là màu xanh khiến màu trắng băng tuyết lại càng trắng hơn. Một cảnh ngoạn mục như tranh, tôi lại nhìn trên boong tàu cũng có màu xanh, màu trắng tương tự khiến tôi có cảm tưởng như mình đang đi vào cơn mơ thần tiên nào đó.

Nguyên Thảo,
19/08/2018.



Wednesday, August 8, 2018

*Quê Người. (19)


Xe bắt đầu ra khỏi trại tiếp cư vào lúc khoảng gần 2 giờ rưỡi, chạy sang hướng đông khoảng chừng vài cây số thì rẽ sang tay trái chạy về hướng Bắc. Tôi chỉ biết thế, chứ tên đường hay gì gì đi nữa tôi vẫn chưa biết rành. Ngày Trọng chở đi tôi chỉ biết nơi đến, rồi lẩn quẩn lòng vòng nơi đó cho đến khi về; thì nay tôi chỉ cố định hướng mà thôi!
Xe lần ra ngoại ô nhà cửa thưa thớt, có những xóm nhà nhưng cũng không nhiều. Có vài nơi gần bên đường có những dãy nhà hình như lợp kiếng, có gì xanh xanh giống như người ta trồng gì trong đó. Mọi người cũng ngạc nhiên như tôi, vì tất cả chỉ đều là những người mới đến Úc hơn tuần lễ mà thôi. Trên đường đi xe cộ không nhiều, thỉnh thoảng có những xe cam-nhông lớn lướt qua hay chạy ngược về Thành phố. Hôm nay trời nắng tốt, ánh nắng không chói chang như ở bên mình, hay là tại trời ở đây đang vào mùa Thu. Có nhiều cây bên đường thay màu lá để cho tôi chiêm nghiệm lại những điều đã học được từ trên ghế nhà trường, mà lúc đó tôi chỉ tưởng tượng chứ chưa bao giờ được thực tế. Thế là từ ngày đi vượt biển cho đến nay tôi đã học được rất nhiều,.. rất nhiều thứ như trong tục ngữ ca dao mà ông bà ta đã nói: “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn” vậy!
Ngồi bên cửa sổ xe, tôi mãi mê ngắm nhìn qua cửa kính. Ừ, mà cửa nầy không mở được. Bên mình khí hậu nóng, cửa sổ xe được mở ra để cho mát, thoáng; còn bên nây cửa sổ xe buýt không mở được. Cho nên tôi chỉ nhìn ra bên ngoài qua khung kính. Những cánh đồng cỏ mênh mông hoặc gốc rạ còn đó, có người hỏi cô Tây cô cho biết đó là những cánh đồng lúa mì mà người ta đã thu hoạch rồi, cũng mới vừa dứt đây thôi. Xe đi qua những luống cây được trồng theo hàng dài nhưng lá đã trở màu vàng, hay vàng đỏ cô Tây cho biết đó là những hàng nho của vườn nho. Tôi nhìn ra thấy cánh đồng chạy dài thật xa mà thửa đất nào cũng rộng, tôi lại nhớ đến ngày học ở Tân Uyên, Thầy Tuyền nói ở xứ Tây người ta làm nông có đến mấy chục mẫu chứ không phải nhỏ như xứ mình, bây giờ tôi mới tin đến điều ấy, chứ lúc đó tôi vẫn còn “bán tín bán nghi”. Xe chạy khá lâu mà chưa đến nơi. Đến một chỗ cây xăng, cô Tây ngừng xe cho mọi người nghỉ ngơi và cô chỉ chỗ cho những ai cần đi vệ sinh, có vài người đi với cô vào tiệm mua đồ, đa số chúng tôi thì quay quần bên xe và nói với nhau về những điều thấy dọc đường cùng những ý kiến khác nhau.
Sau chừng 15 phút đồng hồ thì mọi người được kêu lên xe và tiếp tục cuộc hành trình. Xe cứ đi về phía Bắc. Xa hơn các cánh đồng được canh tác là những khoảng đất còn để trống tự nhiên, nhưng cây cối không nhiều và thấp. Xe chạy đến vùng đồi không cao lắm và vượt qua đó. Không lâu sau thì xe đi vào thị trấn. Cô Tây nói với mấy người ngồi gần kế là tới Kadina rồi. Thị trấn tương đối đông người, nhà cửa. Xe đến nhà thờ, chúng tôi xuống xe và được đưa vào trong Hội Trường. Từ đó, đoàn chúng tôi được đại diện là anh Trần Văn Khá cùng người bạn đi chung làm Thông dịch cho đoàn, vì tiếng Anh của anh giỏi nhất trong đám. Anh vốn là phi công trực thăng của chế độ Việt Nam Cộng Hòa có đi du học lái máy bay bên Mỹ. Anh qua trước chúng tôi không biết mấy list, nhưng anh và bạn cùng muốn đến đây với đoàn chúng tôi để tham quan Kadina nầy. Anh Khá làm việc với những người tổ chức trong Hội Nhà Thờ một hồi lâu, rồi sau đó đọc tên theo danh sách những người nào đến tối sẽ ngủ ở gia đình của người Tây nào; và gia đình đó có trách nhiệm lo cho những người ngủ về phương tiện.
Sự phân chia làm như cũng đã tính sẵn từ trước, cho nên cái danh sách được đọc nhanh chóng. Tôi, Thành và anh em của Liêm, Kiệt được phân về ngủ ở nhà ông có tên là LaWood. Hai ông bà đến nhận bốn chúng tôi cũng như các gia đình khác nhận người. Lúc ấy vào khoảng gần 5 giờ. Ông LaWood đưa chúng tôi ra xe chở về nhà ở ngoài ven thị trấn. Xong ông dẫn chúng tôi giới thiệu con cái của ông, hiện con gái lớn ông có chồng ở riêng là cô Cindy, ở nhà còn lại cô Sue và người con trai tên là Scott; ông lại dẫn xem các phòng ốc trong nhà, cùng chỉ phòng chúng tôi ngủ và đưa mỗi người một túi ngủ. Phần tiếng Anh thì Liêm đảm nhận. Sau đó, ông bảo chúng tôi lên xe để đưa ra đất nông trại của ông xem cho biết. Những máy móc lớn ông để ngoài đồng vì còn đang làm ở đó. Đất khu nầy có nhiều đá ông cần có máy để xúc, gom đá lại một góc khu đất nầy, bên kia là máy cày thật lớn. Ông cho biết chỉ có ông và Scott làm những việc đó. Rồi ông lại lái xe đưa chúng tôi chạy theo rìa khu đất của ông, khu đất ấy thật dài theo ước đoán có thể là khoảng hai, ba cây số. Từ đó lại rẽ sang trái, đi cũng cỡ đó thì lại vòng qua đường lớn. Ông chỉ nhà má ông ở trong kia, ở vuông đất ấy có nhiều con trừu đang ăn. Ông chỉ trồng lúa mì và chăn nuôi trừu. Ông lại rẽ trái đưa chúng tôi về lại nhà. Ông kêu chúng tôi tắm rửa để 7 giờ tụ tập nhau ở tại Hội Trường nhà thờ. Nói vậy, chứ vì vốn tiếng Anh không nhiều nên mọi chuyện tôi chỉ nghe loáng thoáng, hiểu mơ hồ, còn dịch lại là phần của Liêm vì Liêm ở Sài gòn có  học nhiều tiếng Anh và nhất là lúc học ở trường Quốc gia Thương Mại về ngành Hàng Hải.
Còn 20 phút nữa đến 7 giờ thì Ông, Bà LaWood kêu chúng tôi ra xe và ông lái đưa chúng tôi đến nhà Thờ. Đây là Nhà Thờ của Anh Quốc Giáo, có lẽ giáo dân của Nhà Thờ đều là gốc Anh, mà Ông Bà LaWood là người gốc Tô-Cách-lan (Scotland). Mọi người tập họp khá đông. Đúng 7 giờ, tất cả đều trong Hội Trường, bắt đầu cho buổi họp. Đầu tiên những người Đại Diện nói chuyện, chào mừng đoàn chúng tôi đã đến Úc và thăm viếng ở đây qua lời thông dịch của Anh Khá, rồi Anh Khá cũng Đại Diện đoàn để cám ơn Hội Nhà Thờ. Sau thủ tục ấy mọi người tự lấy thức ăn đã để sẵn trên bàn dài ở gần bức tường. Không biết những người khác có bỡ ngỡ không, chứ riêng tôi thì chẳng biết lấy món nào, cứ hỏi hay làm theo người sắp hàng trước mình. Cũng lấy dĩa giấy, cũng muỗng nĩa cùng các thức ăn. Tôi nghĩ lại mình mà tức cười, đây là lần thứ nhì lúng túng trong vấn đề ăn uống sau lần thứ nhất trên máy bay lúc sang Úc. Dù vụng về, bỡ ngỡ nhưng “thức ăn nào cũng vào đấy cả”, nói theo kiểu anh “chi viện” sau ngày 30 tháng 4. Tuy nhiên, mình vẫn cần học hỏi để làm cho đúng mới là quan trọng! Ăn xong, đem các dĩa, muỗng, nĩa bỏ vào thùng rác đã để sẵn. Như vậy người dọn dẹp chỉ túm bịt ni-lông cột lại là xong, không phải tốn công nhiều. Tiện thật!
Sau bữa ăn là hoạt động vui chơi. Có những người ca hát, nhưng chúng tôi chỉ nghe thôi, chẳng hiểu gì cả. Rồi đến phần trò chơi, những hình thức chơi tập thể được hướng dẫn. Cuộc gặp gỡ nầy kéo dài đến khoảng 9 giờ rưỡi thì chấm dứt để mọi người về nhà nghỉ ngơi, nhất là người trong đoàn chúng tôi đã phải đi xa trong ngày có nhiều mệt mỏi.
Về đến nhà, ông LaWood một lần nữa chỉ về cái “toilet” để ban đêm khi chúng tôi cần thiết, rồi chúc “ngủ ngon” và bọn tôi cũng chúc Ông Bà cũng vậy!
Quả thật giấc ngủ trong đêm nầy là khó, nhưng vẫn ngủ được vì quá mệt mỏi; chứ thứ nhất là lạ nơi, thứ hai chui vào trong túi ngủ đã là chưa quen, mà hơi người Úc thì lại có mùi “trừu” nên cũng làm cho mình khó ngủ. Từ hơi nầy tôi lại nhớ đến lần đầu tiên khi vào ăn ở căng-tin của Trung Tâm Tiếp Cư Pennington thì cũng đã ngửi thấy mùi nầy rồi!
Qua một đêm ngủ ở vùng quê, tương đối là hơi lạnh. Sáng dậy sớm, nhưng vẫn còn nằm ở trong phòng và không biết chừng nào người trong nhà mới dậy. Đợi khá lâu, nghe có tiếng động nhiều hơn thì chúng tôi mới dám héo lánh bước ra để làm vệ sinh cá nhân. Những câu chào hỏi đầu tiên buổi sáng cho một ngày mới. Trong lúc đó thì Ông, Bà LaWood và Sue lo chuẩn bị buổi ăn sáng. Khi ngồi đầy đủ vào bàn, mọi người nghiêm chỉnh để Ông LaWood cầu nguyện, rồi bắt đầu vào bữa ăn. Thỉnh thoảng thì những câu ngắn xã giao được trao đổi.
Khoảng 8 giờ rưỡi, Ông Bà LaWood lại đưa bọn tôi đến Nhà Thờ. Tất cả đều tập hợp đầy đủ ở đây. Qua cửa, mỗi người lấy một quyển Kinh Thánh bằng Tiếng Anh. Tất nhiên tôi cũng lấy, nhưng chỉ cầm trên tay, rồi đi theo Ông Bà LaWood đến chỗ ngồi. Đúng 9 giờ cuộc Lễ bắt đầu. Ông Giáo Sĩ tiến hành thủ tục buổi lễ, thỉnh thoảng mọi người lại lật Kinh Thánh rồi đọc theo. Có lẽ đa số chúng tôi chỉ ngồi có lệ chứ không hiểu và lật Kinh Thánh ở trang nào. Thế rồi buổi lễ cũng qua cùng với cái giỏ nhỏ mà mình tùy ý bỏ vào chút tiền lẽ nào đó, xem như là đóng góp vào Quỹ của Nhà Thờ!
Sau đó, từng đoàn xe lần lượt rời Nhà Thờ đi đến một sân vận động. Ở đây rất nhiều người, giống như là một cuộc Lễ Hội gì đó của địa phương. Có những người cưỡi ngựa chạy đua, có những trò chơi mà nhiều người tham dự như kéo co, nhảy bao bố, hai người cột chân vào nhau để chạy đua với nhiều cặp khác, xem thú vị. Ông Bà LaWood săn sóc, chăm hỏi chúng tôi nhiều điều từ chuyện ở Việt Nam đến cuộc sống hiện tại, hoặc giải thích trò chơi hay điều gì mà chúng tôi không hiểu. Hồi lâu thì được ăn uống, lần nầy tôi cũng quen được chút ít; và nhất là ban ngày sáng tỏ nên sự quan sát lẫn học hỏi dễ dàng hơn. Tôi lại làm quen được những con ruồi. Thật vậy, từ ngày tôi đến Úc đến nay khoảng gần hai tuần lễ nhưng chưa thấy hay bị ruồi bu. Hôm nay nắng ấm nên có nhiều ruồi; Lạ cho những con ruồi cứ theo con mắt của mình mà bu, mà chui vào. Đuổi nó đi một chút thì nó cũng lại đến, làm hai tay phải quạt lia quạt lịa.
Ông Bà LaWood ra dấu và kêu chúng tôi đi. Ông Bà đưa đến sân banh rộng lớn ở đó họ đang chơi môn thể thao gì đó, nhưng người xem chung quanh thật đông. Ông LaWood cho biết trong đội của Kadina có Scott (con ông) trong đó. Đội Kadina đấu với đội của khu vực khác, môn thể thao nầy có tên là Criket. Nhìn vào trong sân chỉ thấy những hình bóng mặc đồ trắng hay màu xanh sẫm chứ chúng tôi đâu biết cách chơi như thế nào. Có lẽ ông thấy chúng tôi không biết gì cho nên ông kêu ra xe.
Xe đi vào khu vực mỏ đồng ngày trước, bây giờ chỉ còn lại những hố sâu loang lỗ, để cho chúng tôi biết vị trí mỏ đồng lịch sử (tiền thân) của thị trấn Kadina. Những cây cối mọc lên không nhiều, không cao chắc do đá nhiều hơn đất hay là do ít mưa. Rồi kế bên là một sở thú nho nhỏ, có hai con vật biểu tượng cho xứ Úc là con Kangaroo và Emu. Ngày được phái đoàn Úc nhận cho định cư ở Úc thì người phỏng vấn lúc đó là Viktor có tặng cho cây kim gài trên áo với hình con Kangaroo màu vàng kim, nay tôi mới thấy con Kangaroo thật ngoài đời, còn con Emu mới dòm tưởng là con đà điểu. Nó hơi giống, nhưng bộ lông của nó màu xám lem luốt không đẹp hay hùng dũng như đà điểu. Hồi lâu Ông, Bà LaWood lại kêu ra xe và ông lại chở chúng tôi đi về hướng Tây.
Thì ra bờ biển cách Kadina không xa, nơi nầy gọi là Walleroo. Chúng tôi đi dạo trên biển. Mặc dù hôm nay trời nắng tốt, tuy nhiên gió biển hơi lâu làm tôi nghe lành lạnh. Cả Liêm, Kiệt, Thành cũng vậy. Có thể ông LaWood thấy được, sau khi ông nói với bà điều gì đó thì ông chỉ cho chúng tôi cái cầu được che kín chạy ra biển kia và giải thích đó là cái cầu chuyển lúa mì xuất cảng từ trong bờ ra tàu đậu ở ngoài kia để tàu vận chuyển sang xứ khác; rồi thì chúng tôi lại lên xe trở về. Đến một ngã tư nọ, ông rẽ ghé vào một cái nhà mà ông nói là nhà của vợ chồng Cindy, nhưng Cindy không có nhà, chỉ có chồng Cindy thôi!
Ông lại đưa về trung tâm Thành phố Kadina, nơi có khu thương mại. Ông cho biết Cindy làm cho một siêu thị và khi đi ngang một gian hàng sửa giày ở hành lang ông góp ý chúng tôi về sau nếu có thể làm nghề đó cũng được. Nhưng bà nhắc cho ông là tiếng Anh của chúng tôi hãy còn học hỏi rất nhiều. Ông gật đầu rồi thôi!
Đi một vòng qua nhiều nơi, rồi thì cũng đã đến giờ ông đưa bọn chúng tôi trở về Nhà Thờ để Philippa lái xe đưa chúng tôi trở về Trại Tiếp Cư. Tập hợp cũng vào lúc 2 giờ, và xe khởi hành vào lúc 2 giờ rưỡi. Chia tay quyến luyến, Liêm đại diện bọn chúng tôi cám ơn Ông, Bà LaWood và hẹn ngày gặp lại. Các người khác cũng chia tay với gia đình mà họ trú ngụ, làm quen trong hai ngày cùng vẫy tay chào tạm biệt.
Vượt đoạn đường dài xe về đến Trại Tiếp Cư khoảng 4 giờ rưỡi. Vừa xuống xe thì có một Bà Việt Nam có tên là Hoa từ Hội Phụ Nữ Đông Dương cũng vừa đến, gặp chúng tôi ngõ ý là Hội Phụ Nữ mời nhóm vào ngày Thứ Hai đến Hội Phụ Nữ ăn phở, có xe đến rước và đưa về. Không biết một người nào đó biết được thông tin thế nào mà khi nghe đến Hội Phụ Nữ bèn nói nhỏ với chúng tôi: “Người ta nói Hội Phụ Nữ nầy là Hội Phá Gia Cang”, chúng tôi ngạc nhiên hỏi: “Vì sao”? Thì ông ta nói: “Bà Sơ Nghĩa không có chồng, Bà Phó nầy bị chồng bỏ cho nên những gia đình nào có chuyện lục đục khi đến Hội Phụ Nữ thì được hướng dẫn là thôi nhau, cho nên từ đó người ta gọi Hội nầy là Hội Phá Gia Cang”. Nghe đến đây những người có gia đình đi theo đều có ý ái ngại, còn tôi thì chỉ có một mình, chưa hề hấn gì, nên cũng yên tâm!
Nói gì, chứ cũng lo về phòng cất đồ, rồi lại lên căng-tin cho một buổi ăn chiều. Trời chiều nay trở lạnh, tôi lại nhớ đến tình cảnh của vợ con đang ở nhà!

Nguyên Thảo,
05/08/2018.



*Đối Diện.


Tôi đứng lên
Nhìn tôi trên vách
Bao nhiêu năm ruột đói rã rời
Tôi vẫn lớn tiếng
Tung hô ngàn năm, vạn thuở
Cho một lần tuyệt thế khôn nguôi!
Tôi vẫn nhìn
Lạc quan trên đường đi tới
Đường thênh thang, không gì so sánh nổi
Nào tự do, công bằng, hạnh phúc
Cả bao nhiêu người, ai cũng sẽ như ai!
Đất nước tôi, đất nước anh
Không có gì là to với nhỏ
Trong tương giao ta chỉ lại là người
Cùng góp tay cho cuộc sống thêm tươi.
Nhưng than ôi,
Đó chỉ là lý tưởng
Đời gian nan cũng lắm cảnh trái ngang
Giàu sang, lớn nhỏ, chủ tôi
Cũng chỉ là tranh giành, áp bức, lọc lừa
Ai cũng muốn sướng, sang giàu, bốc lột
Ai cũng là thụ hưởng chẳng bỏ công.
Để chứng thực
Cho ước mơ là mộng ảo!
Tôi đối diện với mình tôi trên vách
Và khóc thầm cho một thuở tương lai!

Đồ Ngông,
22/07/2018.