Sunday, May 5, 2024

*Những Khung Trời Kỷ Niệm! (30)


Vào một ngày cuối tuần, sau khi bãi học tôi về ghé chùa trước khi cưỡi xe đạp về trong Tân Khánh để lấy sách vở cho cho mấy tiết học trong tuần sau. Xong mới đạp xe về ngõ Thuận giao, nhưng vừa qua cây chai, đến khoảng đất trống thì gặp anh On, con của ông Năm Bột cưỡi xe chạy tới kêu tôi “Đừng vô trổng”, tôi không biết như thế nào nhưng anh đã chạy mất rồi, tôi dí theo không kịp nên vẫn tiếp tục đi tới mà lòng phân vân. May lúc đó, Hoa, con bà chủ quán cà phê tại ngã tư Bình Chuẩn chạy tới cùng vài người bạn, Hoa kêu tôi: “Anh đừng vô trổng nữa, lính bắn người ta chết đó, anh quay lại đi”. Tôi nghe mà hoảng hồn, đành quay lại trở về Búng và đi đường về Phú Văn, Phú Lợi mà về trong nhà. Tuy nhiên đến bình Quới thuộc xã Bình chuẩn thì gặp người quen kêu đừng chạy xuống ngã tư mà đi đường tắt về trong Tân Khánh. Lúc nầy đường sân bay đã đóng lại vì trại lính đã chiếm cứ rồi, nên qua khỏi Bình Quới một đoạn thì có đường mòn băng đồng để về đầu dưới vườn Bà Đôn mà về Bình Hòa rồi Chợ Tân Khánh. Qua ngày Thứ Hai tôi đi học không dám đi đường Bình Chuẩn nữa vì không biết tình hình thế nào, nên đi về Phú Lợi xong xuống trường bằng ngõ Phú Văn. Học xong về chùa lo cơm nước, chiều đi chợ Búng mua ít đồ ăn, về dọc đường thì lại thấy cái xe Lam trên đó có Chú Ba Oanh ba của Nghĩa, cả ba tôi nữa. Ba tôi không nói nhiều, kêu tôi chạy lên nhà thương Thủ (Dầu Một). Tôi không biết thế nào, về chùa cất đồ xong chạy lên nhà thương. Đến nơi mới biết rằng Chú Sáu Tò, con ông Chín tôi đã bị bắn chết ở Bình Chuẩn vào ngày Thứ Bảy vừa qua, sau khi chú từ Sài Gòn về chơi cuối tuần; cùng với một người nữa từ trên lò chén Bình Hòa có công việc đi ngang qua xã nầy. May là xác không được chôn cất mà chỉ đem bỏ gần đất Thánh Tây đường từ Búng qua An Phú Xã, nên gia đình mới tìm được xác. Đến chiều tối tôi mới trở về chùa để học bài cho các giờ học ngày mai, vừa ngẫm nghĩ mình cũng may nếu không mình cũng đã bỏ mạng theo cùng chú Sáu của mỉnh. Bốn chúng tôi cùng quay quần quanh cây đèn dầu để học, thỉnh thoảng kể vài chuyện cho nhau nghe như là giờ giải lao. Hồng, Lịnh cho hay vài bữa nữa có Niềm sang ở chung. Niềm là bà con của Hồng, Lịnh cũng từ bên Bến Cỏ sang nhưng đang ở trọ bên xóm Gò Đình, nay Niềm muốn sang ở chung bên nây, như vậy là nhóm chúng tôi sẽ là năm người. Thầy Trụ Trì đã đồng ý rồi!

Thế rồi, không biết tình hình vài vùng ở Mỹ Tho như thế nào mà một số bà con của Thầy Trụ Trì khoảng chừng bốn người đến tá túc ở chùa nên bây giờ rất đông vui. Họ cùng phụ giúp công việc trong chùa, cùng phòng thuốc Từ Thiện của Thầy Ba. Có người muốn học nghề hốt thuốc nam, nên đôi lúc tôi có thì giờ giúp họ sao chép các vị thuốc và công dụng của chúng. Lúc trước có Cô Ba, đệ tử của Thầy từ lúc ở Sài Gòn, thỉnh thoảng lên thăm Thầy, nay chùa đông người cần có người phụ giúp nấu nướng, lo việc bếp, nên Cô Ba nay cũng ở lại hẵn tại chùa cho tiện việc. Chùa có thêm người nhưng vẫn đủ chỗ nghỉ ngơi vì có rất nhiều bộ ván để phụng sự cho việc cúng tế từ hậu liêu cho đến nhà dưới. Như vậy, việc ở trọ học của tôi trong năm nầy đã được ổn định. Chúng tôi chỉ còn lo học hành cho tốt nữa thôi.

Nhưng một ngày nọ khiến tôi trở nên buồn và rất là ân hận cho chính mình, có thể là trong suốt cuộc đời nầy. Số là, má của Hồng sang thăm con và cháu, tức là Lịnh kể cả Niềm nữa. Sau khi ăn uống vui vẻ xong xuôi thì chúng tôi cùng ra ngoài giếng lo rửa chén bát, trò chuyện. Không may tôi không để ý vừa kéo tay quay của bộ phận quay nước để đưa thùng xuống giếng thì tay quay ấy trúng lên đầu của Hồng khiến Hồng chạy la thất thanh. Thế là một chuyện buồn xảy ra: Hồng đau đớn về thể xác, má Hồng đau về tình thương, còn tôi cảm thấy có nhiều ân hận chẳng biết đến bao giờ. Dù vậy, những ngày sau cũng không khiến Hồng phải đau đớn nhiều và không có chuyện gì hệ trọng xảy ra. Nhưng trong lòng tôi chỉ sợ về sau, trong tương lai thôi.

Ở trường, với môn Vạn Vật, Cô Kim Hưng dạy về những Bộ Thần Kinh của con người phát sinh từ xương sống có nhiều khó nhớ, nhưng Cô đã có mẹo khiến cho chúng tôi dễ nhớ hơn. Với Pháp Văn, Thầy Thanh Trừng dạy qua quyển sách do hai Ông Bà soạn trong đó tôi thích nhất là đoạn văn của Anatole France mà tôi chỉ nhớ thoang thoáng như sau: “Je vais vous dire ce que me rappelle tous les ans les premiers dinners à la lamp et les feuilles qui jauner dans les arbres” (lâu quá chắc viết lại không đúng rồi), giống như tôi đã thích câu của nhà văn Thanh Tịnh: “Hàng năm, cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều, và trên không có những đám mây bàng bạc lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường”… Thầy Trần Văn Hải dạy Anh Văn và dạy luôn ba bài hát “Tạm Biệt” bằng ba ngôn ngữ Anh, Pháp, Việt. Với Triết thì thầy Nguyễn Văn Phúc có lẽ vì mới ra trường nên trong giờ giảng bài Thầy thường đi từ bàn ra cửa, xong lại quay trở vào giống như một con thoi, nhưng các bài của Thầy rất hay và dễ hiểu nhất là bọn chúng tôi mới làm quen các môn Triết nầy. Còn Thầy Em thì rất nhiệt tình, giảng dạy dễ hiểu nhưng tội cho Thầy, sau giờ dạy quần Thầy đầy phấn trắng. Lạ hơn là Thầy Phó Đức Long, Thầy thì hiền nhưng có một cái điều là trong giờ giảng mà Thầy nghe ồn là Thầy hay chắc lưỡi, không nói gì mà lại hay nhìn lên trần nhà cuối lớp. Thế cho nên một hôm trong lúc Thầy chắc lưỡi và nhìn lên trần, khiến cả lớp quay lại nhìn theo, khiến Thầy không biết gì, và tức cười. Cái cười của Thầy rất đẹp và có duyên, có bạn bảo: “Có lẽ vì cái cười duyên dáng ấy mà Thầy có vợ đẹp đó chăng?”. Riêng các Thầy khác cũng vẫn bình thường, nhưng đối với Thầy Nguyễn Vũ Hải, công nhận Thầy dạy rất hay, tuy nhiên Thầy có vẽ “hơi gàn” thì phải, hay là Thầy đóng vai để khiến học trò lo sợ mà học. Có lần Thầy đuổi Nguyễn Thành Tri từ bảng đen về chỗ, nhưng khi Tri vừa đặt đít lên chỗ ngồi, Thầy quát: “Tao bảo mầy về, ôm cặp đi về!”, khiến cả lớp ngơ ngác chẳng biết vì sao? Rồi Thành Tri cũng phải ôm cặp ra ngoài, đợi tời giờ học sau mới vào lớp. Từ chuyện nầy tôi đã hiểu được tính của Thầy Vũ Hải nên không còn ấm ức của chuyện ở đầu năm học. Rồi một hôm không biết đường từ Sài Gòn lên có chuyện gì đó mà Thầy phải lên trễ hơn nửa tiếng đồng hồ, thế rồi Thầy tâm sự: “Muốn đi làm tài xế xích lô, coi ngon hơn là đi dạy trong cái thời buổi nhiễu nhương, loạn lạc mà người ta nói Nhất đĩ, Nhì Sư, Tam Cha, Tứ Tướng nầy”, rồi tiếp theo Thầy tràn đầy tâm sự. Từ buổi tâm sự ấy lớp chúng tôi cảm thông và rất mến Thầy, tình cảm của tôi cũng thay đổi hẵn từ đó. Trong giai đoạn nầy sự học hành của tôi trở nên thuận lợi và nhớ rất nhiều, chắc do ảnh hưởng từ lúc tôi học thi cho kỳ thi Tú Tài I vừa qua. Tôi vẫn tưởng năm nầy thật là ổn định!

Nhưng không, mỗi con người có một cái số, cái số của tôi có phải chăng theo như người ta nói: “Là sanh ra dưới vì sao xấu”. Mà có thể là như thế thật! Một buổi chiều Chủ Nhật, sau khi hớt tóc thì tôi ra lại ra chùa sớm để học bài vì tôi quên đem vở về. Khi đứng ở cửa hậu lieu cùng với Thầy Ba và Lịnh, thì đột nhiên Thầy Ba thốt lên: “Ủa, sao chú mầy kỳ vậy?”, tôi nhìn Thầy: “Mặt con dính lọ hả Thầy?”. “Không, mà sao kỳ vậy?”. Thầy tỏ vẽ ngạc nhiên và tôi trở nên bối rối: “Chứ gì vậy Thầy?”. Thầy không trả lời mà cứ: “Sao kỳ vậy nè, kỳ thiệt!”, rồi Thầy vạch mí lỗ tai của tôi, nhìn kỹ. Thầy nói mụt ruồi nầy không tốt đó nhe”. Nói xong, Thầy kêu tôi vào trong bàn của Thầy đưa bàn tay ra cho Thầy xem, Thầy xem hồi lâu từ bàn tay trái sang tay phải, Thầy vẫn lắc đầu. Tôi không hiểu gì hết vì Thầy chưa đưa ra lời đoán. Rồi Thầy lại lấy ra một bộ bài, Bây giờ Thầy lại chuyển sang bói bài. Thầy nói: “Bây giờ Thầy xem cho chú mầy ba quẻ, để xem coi như thế nào, rồi Thầy sẽ nói điều Thầy thấy trong các kiểu bói cho chú mầy biết. Đây là bộ bài chú mầy xào bài cho nhiều lần, trước khi bắt con bài chú mầy muốn van vái thầm trong lòng cái gì cũng được, rồi bắt con bài, lật ra cho Thầy coi. Lần đầu tôi bắt ra con Mụ Bích, lần sau lại là 10 Bích và lần nữa lại là con Già Bích, Thầy Ba thấy Thầy thở dài, rồi Thầy bảo: “Đúng là cái số của chú mầy!”, “Lúc đầu Thầy thấy mụt ruồi ấy Thầy không nghĩ nó như vậy, nhưng sau khi xem hai bàn tay của chú mầy thì Thầy lại ngỡ ngàng hơn. Nhưng lần nầy sau ba lần xào, bắt con bài thì nó đều không tốt. Đó là tại cái số chú mầy thôi!”. Tôi thắc mắc, không rõ như thế nào nên hỏi Thầy: “Cái gì vậy Thầy?”. Thầy nói: “Không biết về sau như thế nào đó mà chú mầy có nhiều suy nghĩ lắm, gần như quẩn trí lận. Sau trận đó thì chú mầy mới khá hơn. Khoảng ấy chừng 40 tuổi trở đi. Qua mấy cách xem, Thầy chỉ thấy và nói như vậy thôi. Về sau chú mầy cẩn thận và đừng quá lo lắng, có thể mấy quẻ bói đó sai”.

 

Nguyên Thảo,

05/05/2024.