Lời
Trần Tình:
Trong thời đại bây giờ có quá nhiều tiến bộ, trình độ của tôi không tiếp thu kịp
các bước tiến ấy, do vậy mà tôi chỉ cần nắm bắt cái thông thường của nó thôi.
Nhưng con người, ai cũng có những cái “duyên” và “số mệnh”, giống như tôi có chuyến
“vượt biên” của mình chẳng hạn. Thế rồi, vận thời đưa đẩy, tôi trở thành “người
viết chơi chơi”, “làm thơ tào lao” lại có bài được đăng trên các tờ báo khác.
Xong, anh bạn Từ Minh Tâm lại làm cho tôi cái blog nầy sau những loạt bài, thơ
tôi gởi về Trang Nhà CHS Trịnh Hoài Đức, để sau đó tôi viết “tùm lum” đủ thứ
chuyện làm kỷ niệm cho mình lẫn giải trí cho bạn bè. Rồi thêm, vào một lúc khi
xem trên “You Tube” thấy người ta làm những video, clips hay quá, gặt hái kết
quả nhiều hơn, nhất là các kênh về du lịch, làm cho tôi hết hứng thú kể lại các
chuyến đi; đồng thời, người xem cũng không mệt mỏi, khiến tôi “chùn bước” trước
mấy câu chuyện “tào lao” của mình! Nay vừa buồn, vừa muốn bạn bè cùng thời ôn lại
những nỗi buồn vui một thời xa xăm đã từng gặp, từng sống chung với nhau; nhưng
rồi, từ ngày xa nhau không mấy đứa lại gặp nhau. Mỗi người có nếp sống gia đình,
có hoàn cảnh, địa lý sống riêng mà đến chết chưa chắc sẽ có lần gặp lại. Hôm
nay tôi viết, viết những thời mà sự sinh hoạt của những người trong cuộc được gắn
liền địa lý, hoàn cảnh lịch sử trong từng thời kỳ để cùng nhau ôn lại quá khứ và
những kỷ niệm buồn vui. Chúng chỉ là những kỷ niệm, kỷ niệm của từng thời kỳ nào
đó, không có gì khác hơn! Tới nay nhiều người còn lại, nhưng cũng không ít người
đã mất đi, thì các chuyện nầy như để tưởng nhớ người quá cố của những người còn
lại trong tình bạn bè thân thiết ở một thời xa xưa! Tôi xin nghiêng mình kính cẩn,
và mến tặng bạn bè các nơi, cùng Thầy Cô Giáo mà bọn trẻ chúng tôi thuở ấy đã được
giáo huấn nên người. Thành Kính tri ân!
Nguyên
Thảo.
Tuổi
Ấu thơ và kể cả thời Thanh niên của tôi hầu hết đều nằm trong giai đoạn “Đất Nước
Chiến Tranh”. Tôi sinh ra sau năm 1946 tức là vào thời kỳ bắt đầu của Mùa Thu
kháng chiến. Khi tôi hiểu biết được chút ít thì thấy được cái nền nhà bị Tây đốt
cháy với đống gạch, ngói vụn đổ nát, mà tôi cũng chẳng biết là nhà của Ba má
hay nhà ông Nội ở một vùng quê hẻo lánh, phía trên là rừng, phía dưới là đồng
ruộng trải dài ra tới suối cái. Cái nếp sống nông thôn bình dị, ban ngày đi ra
đồng ruộng, ban chiều chong đèn dầu ăn cơm và nghe ếch nhái kêu vang vọng trên
đồng. Rồi qua những cuộc bố ráp của lính Tây cùng lính thuộc địa dữ quá, nhằm
chống lại cuộc kháng chiến của Việt Minh đang dồn dập cao trào để giành độc lập
cho đất nước, nên gia đình tôi phải từ giã vùng quê “Phước Lương” ấy vào một đêm
không trăng, để di cư về quê ngoại Vĩnh Trường tránh những trận “cà nông”
(canon) do Tây bắn tới, hoặc bị giết chết trong các cuộc càn quét. Gia đình ba
má nương vào quê ngoại với những mảnh đất mà ngoại đã chia phần cho má tôi. Ngoài
tỉa đậu, trồng chút ít vụ mùa, ba còn bươn chải mua gốc tre đẽo đòn gánh, hoặc
lấy tre làm giường, ghế kiếm thêm, nhưng hàng bán cũng chỉ là thỉnh thoảng, vì
vậy mà ông cũng làm đủ thứ nghề. Ở Vĩnh Trường tôi cũng biết “lặt đậu” để những
trái đậu phọng rớt vào cái rổ nhỏ mà ba đã “đươn” (đan) cho. Không biết ông kiếm
ở đâu được cái “bê rê” đen của lính “com măn đô” về cho tôi đội. Tôi thích cái
chuôi trên đầu mũ, mình có thể nắm cái chuôi ấy mà xoay, xoay nón quay tròn. Tôi
mến Chú Ba Nức, chú ở chăn trâu cho ba khá lâu, chú thường cõng tôi trên lưng, cùng
hái những trái cây rừng như trái cơm rượu, trái sim cho tôi ăn, và những trái
khác để làm đồ chơi, nhất là cái ghế “tu-nê”, cái tên nghe là lạ, hay hay mà khó
quên trong tôi, hoặc cái bẹ chuối cắt ngắn xẻ hai bên để khi cầm mình lắc mạnh
thì hai cánh ấy đập vào bẹ ở giữa kêu nghe lốp bốp. Những tình cảm ấy khiến tôi
nhớ chú mãi về sau nầy!
Vào
một ngày nào đó chú đi mất tiêu, tôi khóc quá chừng. Ba tôi nói chú đi theo Việt
Minh rồi. Không biết tôi nhớ chú đến bao lâu thì nguôi ngoai. Rồi ba nhờ chú
Chang về chăn mấy con trâu. Nhưng chẳng bao lâu thì chú Chang cũng đi mất. Thế
là ba đành bán mấy con trâu lẫn xe vì không ai “đón” (chăn). Ba chọn nghề khác.
Lúc ấy tôi có thêm đứa em gái kế. Ba chuyển sang nghề mua bán đậu. Chiến tranh
lúc đó có phần ác liệt, gia đình tôi ở quê ngoại có phần khó khăn vì ba nằm
trong thành phần thanh niên, cho nên ba má chuẩn bị cho việc chuyển về chợ Tân
Phước Khánh ở để được yên ổn hơn. Trong khoảng thời gian đó thì lính Cao Đài từ
đồn chợ Tân Khánh thường hay đi “bố” trên Vĩnh Trường. Ngày nọ, họ lên Vĩnh Trường
thấy tôi đội cái bê rê, họ nói mượn, rồi họ đội đi luôn. Mất một vật thân thương,
tôi khóc không biết là bao lâu, chắc cũng mấy ngày. Với cái mũ ấy cho đến bây
giờ nó còn lại một tấm hình chụp ở ngoài Thủ Dầu Một vào một ngày má dẫn tôi ra
chợ. Khi chụp tấm hình ấy, má nói tôi khóc thật nhiều; sau nầy em trai tôi cứ
tưởng tấm hình đó là của nó chụp chung với má.
Những
ngày còn ở trong Vĩnh Trường, tôi thường sợ tiếng ễnh ương kêu uềnh oang vào các
cơn mưa đêm. Tiếng nó to, vang lên thật lớn mà nghe cũng lạ đời. Rồi tiếng xe
ngựa, tiếng lục lạc mà ngựa đeo ở cổ vang theo nhịp điệu nó chạy. Lại có tiếng
chú bán cà-rem khiến tôi phải đòi má mua cho: “Cà-rem đây, năm cắc (50 xu) một
cây, đồng hai cây cà-rem đây” kèm theo tiếng chuông lắc kêu keng keng. Cái kỷ
niệm trong đời mà tôi nhớ nhiều có lẽ là khi ba dạy tôi đếm từ một tới mười vào
mỗi buổi tối. Không ngờ tại sao tôi ngu đến như vậy, chỉ có mười số thôi mà vẫn
đếm không tròn, có khi đếm tới chín, mà mười lại đếm không ra. Thế là từ đó ba
không dạy nữa, sau khi cho tôi một trận đòn. Có lẽ vì ngu quá nên ông bỏ luôn
việc dạy độc huyền cầm hay còn gọi là đờn gáo vì nó làm bằng cái gáo dừa, cho tôi.
Có đêm đang ngủ, ba vực tôi dậy để lên xe đạp chạy băng đồng, băng gò mã cùng với
nhiều người, người ta vừa chạy vừa la: “Cướp, cướp, có ăn cướp”, “Ăn cướp ở đâu?”,
“Ở xóm trên”.
Mặc
dù vào thời buổi chiến tranh, nhưng Vĩnh Trường cũng tương đối là yên tĩnh, vả
lại thời ấy vũ khí hãy còn thô sơ nên không tàn phá từ xa như bây giờ. Nhưng vì
cuộc sống của thanh niên khó an toàn nên ba má tôi quyết định về chợ. Hai người
bỏ công sức đi xin miểng hộp từ trong lò chén kéo về đổ lên một đường hẻm, rồi
lại đổ đất lên trên. Rồi sau đó cất cái nhà mà mái chồm lên hai mái chái của
hai nhà kế bên. Tôi xuống đó lúc vừa lên sáu hay đúng theo tuổi ta tính là 7 tuổi,
cùng ba má với hai đứa em: gái lên 4 và đứa trai lên 2.
Có lẽ do ba má bận rộn buôn bán với cái tiệm tạp hóa, cho nên ba dẫn tôi lên trường học Cây Gòn của Thầy Khai xin cho tôi học lớp Đồng Ấu với thầy giáo Sáu. Thầy chê tôi còn quá nhỏ, nhưng ba cố năn nỉ cho tôi học vì sợ ở nhà tôi đi chơi. Cuối cùng tôi cũng được học, nhưng thường bị “mắng vốn” vì hay ngủ trong lớp.
Nguyên Thảo,
21/5/2022.