Trong lúc chờ đợi, tôi vẫn với bạn
bè đi học trên trường An Mỹ tư đều đặn như thường lệ. Đường đi lên trường đi
qua sân bay. Hồi trước khi đi lên chợ Thủ, tôi chỉ nhìn thấy cái sân bay cạnh bìa
đường lúc chạy ngang qua chứ không có vào trong; còn những ngày chạy đi coi lính
nhảy dù thì không được phép lên tới vườn Bà Đôn chứ đâu đi vào sân bay. Vườn Bà
Đôn là một khu rừng chồi nhỏ nằm phía bên ngoài sân bay có nhiều cây sim, táo
gai, cò ke, mù cua kể cả đuôi chồn… Mặc dù rừng nhỏ nhưng cũng đủ cho chúng tôi,
nếu đi một mình, thì vừa sợ ma vừa sợ người ta cướp giặc. Và từ ngày đi học trên
An Mỹ nầy chúng tôi cưỡi xe đạp đi trên sân bay từng ngày. Sân rộng thiệt, có lẽ
cỡ trên 50 mét chiều ngang và chiều dài cây số hay hơn. Không biết làm bằng gì,
nhưng lớp mặt trên hình như bằng đá đỏ khá nhuyễn được cán bằng phẳng và rất cứng,
chứ không phải là bê-tông hay loại nhựa đường. Mỗi sáng từng đoàn học trò cưỡi
xe đạp đi và chiều hay trưa từng nhóm cưỡi xe về, tiếng trò chuyện vang rân trên
đường đi qua. Những tiếng chuyện trò hay trêu ghẹo thật là vui. Có một hôm bạn
bè trêu ghẹo anh Sách như thế nào mà Sách phải khóc. Thì ra Sách thân với anh Chi
nên hai người đi chung, nhưng anh Chi là chú của chị Mây, do đó anh Chi chở chị
Mây đi chung với mấy chị nữ mà anh Sách lại đi theo. Trong một đám con gái chỉ
có anh Chi và Sách là con trai, nhưng anh Chi thì không đáng nói, chỉ còn riêng
Sách là khác biệt, nên mới có chuyện để bạn bè chọc ghẹo. Số là ở rạp hát lúc đó
có chiếu phim về “Lữ Bố, Điêu Thuyền”. Trong phim có một đoạn Đổng Trác là ông
quan ham mê về nữ sắc, Ông thường tắm chung với các cung nữ, lấy từ đoạn phim đó
có bạn so sánh Sách với Đổng Trác và trêu ghẹo Sách là “Đổng Trác”. Lúc đầu Sách
không biết, về sau khi biết Sách khóc quá chừng, và không dám thường đi chung với
anh Chi nữa mà chỉ thỉnh thoảng thôi. Đi lên An Mỹ không phải chỉ có con đường đi
qua sân bay mà còn đường đi qua Vĩnh Trường, rồi băng từ Vĩnh Trường trên đi thẳng
qua An Mỹ thì gần hơn, tuy nhiên đường nầy nếu về mùa mưa thì dơ lắm và nhiều vũng
nước vì nó là đường đất, lầy lội và có nhiều gai tre, đôi khi gai đâm lủng ruột
xe đạp mà phải dẫn bộ cùng tốn tiền để vá xe nữa, thế nên đường ấy không tiện lắm.
2-Đường Lên Tân Uyên:
Không ngờ, chúng
tôi học trò lớp Nhứt cũ của Trường Tiểu học Tân Phước Khánh cũng nộp đơn thi trên
Tân Uyên khá nhiều. Đến ngày thi, tôi theo chị Thay và chị Mướp vào chiều hôm
trước, đi xe đạp khá xa để đến Tân Uyên. Đó là lần đầu tiên tôi đi xa bằng xe đạp,
với những dốc cao mà chúng tôi phải đẩy xe lên dốc vì đạp lên không thấu như dốc
dài bên Hóa Nhựt sau khi qua cầu đúc Hố Khởi, rồi dốc ở Tân Hội và dốc dài Hố
Cao sau khi qua khỏi ấp 2 Tân Long. Qua dốc Hố Cao thì tới bên trong phía tay
phải là sở cao su số 10 mà trong đó có Trại Cùi Bến Sắn. Tới nữa bên tay trái là
sở 49, cây cao su trồng cách đường không xa và tới khu nhà có mùi hôi khó chịu
mà chị Thay nói đó là khu nhà mũ của sở. Con đường nầy có trải đá xanh nên ít ổ
gà, mà hơi dằn vì không có cán nhựa. Hai bên đường còn có những cây dầu, hoặc cây
sao cao mú, thân khá to. Không biết người Pháp làm con đường nầy tự bao giờ mà
họ trồng hai hàng cây bên đường toàn là những cây gỗ tốt không như dầu, sao, gõ
như chúng tôi thấy bây giờ. Còn từ trên vườn Bà Đôn sân bay qua Tân Khánh vào Hóa
Nhựt, Tân Hội, Tân Long người ta cắt những cây không biết hồi nào mà chỉ còn lại
các gốc rất là to, có người ra sức họ đào gốc đem về để làm thành cái cối giã gạo
hay giã chuối cho heo ăn hoặc dùng vào các công việc khác. Gốc còn nhiều lắm!
Sau khi đổ dốc Bình
Hóa, dốc từ trên đỉnh đồi đổ xuống lưng chừng một độ khá cao rồi qua một cầu bằng
ván tới một đoạn đường bằng phẳng, xong lại đổ thêm một đoạn dốc nữa để ra đến ngã
ba Bình Hóa. Nhà bà con của chị Mướp ở tại ngã ba về phía tay trái, phía sau là
đồng ruộng. Sau khi nghỉ ngơi trong chốc lát, trời chưa chiều lắm, ba chị em cưỡi
xe đạp lên Tân Uyên cách đó chừng hai cây số để xem địa điểm thi chỗ nào để ngày
mai biết mà tới cho đúng giờ. Tân Uyên không lớn, chỉ có xóm chợ là nhiều nhà cửa
thôi, chứ từ Cầu Rạch Tre lên tới chợ không bao nhiêu nhà. Nhà dọc theo bờ sông
lai rai, còn phía đối diện là đồng lúa, bây giờ lúa bắt đầu chín trở vàng, còn
nhiều đám vẫn là màu xanh, hoặc hơi ngã màu. Xong chúng tôi trở về, chị Thay và
chị Mướp phụ nấu cơm, rồi ăn cơm chiều. Tối đến, chúng tôi ra ngoài đi tiểu, bước
chân xuống đất thì nước tràn vào nền nhà đến mắt cá chân, phải lội nước ra ngoài.
Thì ra nước sông đang lớn!
Khi chúng tôi lên
tới địa điểm thi ở Trường Tìểu học Uyên Hưng thì thấy đã có rất nhiều thí sinh
tề tựu đông đảo kể cả các bạn, có cả Long, Phụng nhà Ông Út Tợ, Thạch, Son, Huệ,
Năm, Lực, Gõ, Ru…Tất cả có thể lên đến khoảng 200 thí sinh. Đây chắc chắn là những
đứa học trò đã từng thi rớt kỳ thi tuyển vào các Trường Trung Học Công Lập của
Tỉnh: Nếu như thuộc Bình Dương thì là Trường Trịnh Hoài Đức và Biên Hòa là Trường
Ngô Quyền, còn chuyện đang có đi học trường tư hay không thì không biết! Trong giờ
nghĩ để chuyển môn khác, có nhiều người bu vào xem một phòng nọ. Tôi cũng hiếu
kỳ nhìn xem. “Cái gì vậy?” có người hỏi. “Có anh chàng sao xếp ngồi chung với mấy
đứa con gái?”, rồi có người nói: “Tôi coi rồi! Trên bảng danh sách anh chàng nầy
tên là Ngô Hạnh Thi, chắc giống tên con gái nên người ta xếp lộn đó”. Thế là mọi
ngưòi được biết rõ ngọn ngành nên không còn thắc mắc nữa. Buổi thi đó được tổ
chức ở 3 phòng của dãy ngang của Trường Tiểu Học Uyên Hưng. Xong cuộc thi tôi
theo chị Thay và Chị Mướp cưỡi xe đạp về nhà và tiếp tục việc học trên trường
Trung học Tư Thục An Mỹ và trong hi vọng Trường tư nầy sẽ trở thành chi nhánh
Trường Công Trịnh Hoài Đức. Cách chừng tuần sau tôi chưa được bạn bè rủ đi xem
kết quả ra sao, thì ba đã theo bạn bè lên Tân Uyên xem kết quả rồi. Khi tan học
ở An Mỹ về đến nhà, ba cho tôi biết là kết quả thi ở trên Tân Uyên đã đậu và kể
cả ngày lên đó để khai giảng năm học.
Một ngày trước khai giảng ba tôi dẫn tôi,
chú hai Thiểu dẫn Thạch B, ông Út Tợ đưa Long, Phụng cùng Son con Bác Năm Lộ bên
Hóa Nhựt đón xe đò Bửu Ánh của ba thằng Bạn trong Tân Long lên Tân Uyên để kiếm
nơi cho chúng tôi trọ đi học. Hành trang lỉnh kỉnh gồm quần áo, sách vở, mùng mền
chiếu gối, nồi niêu, có xe đạp và mỗi đứa một chiếc ghế bố nữa. Đến Tân Uyên mấy
ông bàn tính chuyện đến chùa xin cho chúng tôi ở trọ. Nhưng chùa cho biết là không
có chỗ chỉ ở hậu liêu nhưng nơi đó mưa dột phải sửa sang lại, và nếu ở đây chúng
tôi phải học kinh kệ. Mấy ông còn đang do dự bàn tính với nhau thì mưa to lại đến,
trong thời gian mưa chùa cho chúng tôi mượn mấy quyển kinh tụng để xem. Riêng tôi
thì cứ cười hoài vì ngôn ngữ trong kinh tiếng gì nghe lạ lạ mà âm thanh lại
nghe kỳ kỳ mà tật của tôi lại hay cười, tôi nghĩ là chuyện đọc Kinh với tôi chắc
không hợp lắm đâu. Còn Son thì cứ giỡn “tát bà ha” “đá bà già” khiến tôi lại càng
nhịn cười không được. Khi mưa dứt, mấy ông kêu chúng tôi soạn đồ đi, Long hỏi ông
Út Tợ: “Đi đâu vậy ba?”, Ông Út nói “Đi tới nhà của Bà Út nầy”. Thì ra trong lúc
mưa, có Bà Út đi chợ về vì mưa lớn quá nên vào đây đụt mưa gặp mấy ông nói chuyện
với Bà. Thương tình Bà cho chúng tôi về nhà bà ở trọ.
Nhà bà ở cách xa trường khoảng chừng gần cây
số. Cái vuông bà ở có mấy căn nhà gồm nhà bà, nhà con trai lớn của bà và nhà người
con nữa ở phía sau. Bà chỉ cho chúng tôi nơi để xe đạp và các chiếc ghế bố và
khu vực trong nhà mà Bà dành riêng cho chúng tôi.
Nguyên Thảo,
23/10/2022.