Ở trên chúng tôi đã tìm hiểu và ghi lại con đường truyền bá Đạo Phật về phương Nam do những người Thượng Tọa Bộ hay Đại Chúng Bộ truyền qua Sri Lanka (Tích lan) rồi đến các vùng Đông Nam Á mà ngày nay người ta thường gọi là Phật Giáo Nguyên Thủy, giữ nguyên hình thức bình bát và khất thực như thời của Đức Phật, nhưng không phải là Du Tăng nữa mà họ vẫn có chùa hoặc là Tịnh Thất, Tịnh Xá…Kinh điển là Kinh Nikaya viết bằng chữ Pali. Còn đường truyền bá về Phương Bắc dùng đến Kinh A Hàm ghi lại bằng chữ Sankrit (chữ Phạn) tương đương với Kinh Nikaya của Nam Truyền; cùng với các Bộ Kinh khác gọi là Phương Quảng. Thực ra, chia thành hai nhánh Bắc và Nam hay gọi nhánh Nam là Tiểu Thừa (như Cổ xe nhỏ, chỉ nhằm giải thoát cá nhân, ít người); và Đại Thừa (Cổ xe lớn nhằm giáo hóa, giải thoát cho nhiều người) chỉ là cách tương đối thôi. Vì Đạo Phật ở Trung Ấn Độ dưới thời vua Ashoka (A Dục) và vua Kaniska rất được phát triển, không những trong nước mà các Tu Sĩ còn đi ra nước ngoài để truyền bá giáo lý, cho nên từ Trung Ấn đạo Phật được truyền về Phương Nam qua các địa phương Avanti, Maharastra, Andhra, Chola, Nam Ấn vào Sri Lanka được xem như là sự truyền bá chính yếu của Tiểu Thừa Nam Tông, tuy nhiên về sau ở Sri Lanka có Tăng Đoàn Dhammaruciya được triều đình coi trọng nên ít nhiều tư tưởng Đại Thừa từ các nhà sư nầy cũng làm cho Nam Tông không còn thuần khiết nữa. Các trường phái thuộc Tiểu Thừa cũng lan truyền sang Pakistan, Afghanistan, và tận miền Đông duyên hải Iran với những chứng tích còn lại được phát hiện từ năm 1819 ở Ajanta (thuộc làng Ajintha, quận Aurangabad của bang Maharashtra), và sau đó là ở các hang động khác như Ellora, Nasik, Karle, Bhaja và Junnar.
Và những nhà sư cũng từ
Trung Ấn di chuyển về Phương Bắc qua Trung Á không phải chỉ các nhà sư thuộc nhóm
Đại Chúng Bộ hay là Phật Giáo Phát Triển mà còn một số người thuộc phái Trưởng
Lão Bộ nữa bằng chứng là họ đã đến vùng Vân Nam (Trung Quốc), cho nên danh từ Đại
Thừa chỉ là một cách gọi tương đối cho nhánh phát triển về phía Bắc. Phật Giáo
Bắc Truyền là để chỉ nhánh truyền bá Đạo Phật từ Ấn Độ qua các vùng Trung Á sang
Trung Quốc, Mãn Châu, Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan và miền Bắc Việt Nam. Nhánh
nầy sử dụng Kinh Văn Phạn Ngữ mà ảnh hưởng nhiều nhất là Kinh điển Hán văn được
dịch từ Phạn Ngữ sang. Riêng Kinh văn ở Tây Tạng là Tạng văn. Nhánh Phật giáo
qua Tây Tạng là Mật Tông có ảnh hưởng đến Mông Cổ, Nepal và Bhutan, Trung Á và
môt số vùng của Nga. Theo như trong lịch sử thì con đường tơ lụa đóng vai trò quan
trọng trong việc truyền bá Đạo Phật, vì từ Thế Kỷ thứ II trước Công Nguyên đến
Thế Kỷ thứ II sau Công Nguyên Phật Giáo rất phát triển ở miền Tây Bắc Ấn Độ, nhất
là vùng Gandhara (nay thuộc Pakistan). Từ vùng ấy Phật Giáo được mở rộng sang
Khotan, Hadda, Bamiyan và Sogdiana của miền Trung Á trong những Thế kỷ sau mà Cộng
Đồng Phật Giáo lớn nhất là Bamiyan (nay thuộc Afghanistan, nơi có hai tượng Phật
lớn trong núi mà lực lượng Hồi Giáo Taliban phá hủy vào năm 2001). Trong các Thế
kỷ thứ III- IV Phật Giáo lan truyền đến Khotan, Kashgar, Turpan và toàn vùng lòng
chảo Tarim thuộc về Phật Giáo.
Từ Trung Á nầy theo Con đường
Tơ lụa các thương buôn và tu sĩ đã đến các tiểu quốc rải rác quanh sa mạc
Taklamakan và tiến sang Trung Quốc vào đầu Thế Kỷ thứ I. Từ Trung Quốc, Phật Giáo
theo ảnh hưởng của nền văn hóa mà ảnh hưởng đến các nước Mãn Châu, Triều Tiên,
Nhật Bản, Đài Loan và miền Bắc Việt Nam với tinh thần Phật Giáo Đại Thừa.
Đại khái những tài liệu về
Đạo Phật mà chúng tôi tìm hiểu là như vậy, còn những suy nghĩ thì như thế nào?
Có lẽ căn cứ vào sự phân chia làm hai trường phái bảo thủ ít người là Trưởng Lão
Bộ cùng phái phát triển Đại Chúng Bộ gồm nhiều người trong lần kiết tập thứ II
chúng tôi nghĩ rằng điều ấy cũng một phần trong việc chọn hướng phát triển riêng.
Tuy nhiên, nếu căn cứ vào điều kiện địa lý và thời tiết thì Đại Chúng Bộ phát
triển về phía Bắc tất khí hậu lạnh hơn nhiều ở Phương Nam thì các tu sĩ không
thể đi khất thực trong những ngày hay mùa quá lạnh hoặc tuyết rơi, vì thế họ cần
những nơi trú ngụ để có thể giữ gìn sức khỏe, thân mạng trong việc tu tập cũng
như hành đạo, cho nên đền chùa được xây dựng khá nhiều. Vả lại, trong thời Đức
Phật giáo Pháp chỉ một mình Đức Phật biết rõ ràng con đường tu hành như thế nào
và giáo pháp phải hiểu ra sao cho đúng. Chính vì sự tường tận như vậy mà Đức Phật
và Tăng Đoàn phải làm những Du Tăng vừa khất thực đến đâu thì truyền đạo đến đó.
Sau nhiều đệ tử hiểu rõ, thuần thục chính pháp thì phân chia đi nhiều nơi để
truyền đạt lại cho những người khác hiểu mà tu. Rồi vào mùa mưa thì “An cư kiết
hạ” để tránh mùa, đồng thời không phải đi nhiều tránh sự sát sanh (dẫm đạp côn
trùng) trên con đường đi. Còn về phía Nam thời tiết thuận lợi, không khắc nghiệt
nên chuyện du tăng hành đạo không hề bị trở ngại, chỉ cần khất thực để độ sinh
và giảng pháp. Rồi với thời gian do nhu cầu cần thiết để giáo hóa lâu dài cho dân
chúng địa phương thì cần nơi ở thế nên các chỗ ở nhỏ, yên tịnh được hình thành
cho các vị tu sĩ như là những tịnh xá hiện nay. Và sự phát triển ra từng địa phương
cho nên ở các địa hương dần cũng có các chùa dù nhỏ hay to. Chung quy dù Nam Tông
hay Bắc Tông nơi tu hành vẫn là những nơi yên tịnh cho tu sĩ tịnh tâm hoặc Thiền
Định, hơn nữa giáo pháp của Đức Phật qua các kỳ kiết tập về sau đã viết bằng chữ
viết để lưu truyền, học tập, nghiên cứu không còn là vấn đề trở ngại nào nữa cả.
Khi các Tăng Đoàn đã kết hợp từng nhóm tạo thành các nơi tu tập bằng tự viện,
chùa, tịnh xá thì sự hoằng pháp cũng tương đối dễ dàng hơn vì dân chúng, phật tử
có thể đến để học hỏi trong từng thời kỳ mà các tu sĩ giúp cho họ. Chùa, tịnh xá,
tu viện thường được xây cất ở núi đồi, khu rừng, trong đồng vắng nhưng không xa
dân chúng lắm để có sự yên tịnh vừa thuận tiện cho sự tu tập của tu sĩ, vừa thuận
lợi cho phật tử, dân chúng đến học tập về giáo lý. Có thể do nhu cầu người tu học
đến chùa, tự viện, tịnh xá càng ngày càng đông, nhất là ở nơi đông dân, thành
phố, các yêu cầu về cơ sở vật chất để đáp ứng được nhu cầu nên dân chúng, phật
tử cùng nhau chung sức tài lẫn vật lực mà xây dựng nên. Điều ấy cũng không có gì
đáng nói!
Cũng giống như vậy, Phật
Giáo Đại Thừa sau khi thâm nhập vào Trung Á thì theo con đường tơ lụa vào Trung
Quốc rất sớm, vào khoảng năm 65 và trong bốn thế kỷ đầu đã tạo được nền tảng cơ
bản trong xã hội Trung Quốc. Phật Giáo được phát triển mạnh vào các Triều đại của
Nhà Tùy và Nhà Đường (581-907) rồi lan truyền sang Triều Tiên, Nhật Bản vào cuối
Thế kỷ thứ V. Trong khoảng thời gian nầy, các công trình Phật Giáo được xây dựng
ở Trung Quốc hàng loạt như Thiên Phật Động Kiril ở Khâu Từ, Mạc Cao ở Đôn Hoàng
(Tỉnh Cam Túc), chùa hang đá Vân Cương ở Đại Đồng (Tỉnh Sơn Tây), Long Môn ở Lạc
Dương (Tỉnh Hồ Nam). Phật Giáo Đại Thừa ở Trung Quốc ảnh hưởng rất lớn với Phật
Giáo Việt Nam, vì các Tạng Kinh Điển mà Phật Giáo Việt Nam sử dụng, lưu truyền
hành đạo phần lớn bằng Hán Ngữ hoặc dịch ra trước khi có những nhà sư uyên bác
dịch những Kinh Sách từ Tiếng Sankrit hay Pali sang Việt Ngữ.
Nguyên Thảo,
25/11/2024.