Thursday, January 23, 2025

*Cuốn Theo Chiều Gió! (6)

 

Sở dĩ Đạo Phật thâm nhập vào nếp sống của người Trung Hoa, hay bất cứ dân tộc nào khác nơi mà nó đến, một cách dễ dàng là do cái tính triết lý của nó. Cái tính triết lý ấy lấy nếp sống, con người làm trung tâm trên cung cách đối xử lẫn nhau cùng với tính cách hài hòa, đạo đức; vạch trần cái khổ, chỉ cái vui của cuộc đời để người ta tiến đến; nhất là các hiện tượng tâm lý, gút mắc trong cuộc sống mà nhiều tôn giáo khác không thể giải thích. Và sau nầy người ta sắp xếp lại thành hệ thống tâm lý, gọi là Tâm lý học Phật Giáo hay là Duy Thức Học. Ngoài ra, Đạo Phật còn đề cập đến những vấn đề siêu hình mà qua đó chỉ rõ con người chết sẽ đi về đâu (do nghiệp dẫn đi), và làm thế nào để tự mình cứu rỗi lấy mình mà không cần đến một vị Thần Linh. Do đó, trong Đạo Phật không đề cập đến Vị Thần Linh tối cao, quyền năng nào cả. Có lẽ chính vì điều đó mà nhiều người xem Đạo Phật không phải là Tôn Giáo như quan niệm Tây Phương đã suy nghiệm. Đạo Phật hòa quyện cùng nếp sống tâm linh cũng như tinh thần của con người ở khắp mọi nơi, bất cứ nơi nào mà nó đến. Chính vì thế nó cũng đến Trung Quốc đã không tạo nên sự độc lập, riêng tư, mà lại hòa quyện với những chủ trương, triết thuyết của Khổng Giáo, Lão Giáo, cùng những đức tin từ dân gian trong nếp sống của dân chúng, nhưng đặc biệt về giáo lý vẫn không bị biến chất.

Phật giáo phát triển ở Trung Quốc có một nét đặc biệt hơn cả các Phật Giáo trên thế giới, đó là về nền võ thuật từ Thiếu Lâm Tự do Bồ Đề Đạt Ma truyền lại. Chuyện kể Ngài là người miền Nam Ấn, là con thứ 3 của nhà vua Pallawa Tamil, khi xuất gia Ngài rất thông đạt về giáo lý và tu hành nên được Tổ thứ 27 truyền lại, Ngài trở thành Tổ thứ 28 bên Ấn Độ. Nhưng khi Ngài sang Trung Quốc đi tới núi Tung Sơn rồi Thiền Định tại đây trong vòng 9 năm chỉ “diện bích” (quay mặt vô vách) mà không nói. Sau nhận đệ tử là Huệ Khả trao truyền lối tu thiền ở Trung Quốc, và Ngài trở thành Tổ thứ nhất của Thiền Tông Trung Hoa, Huệ Khả là Đệ Nhị Tổ. Ngài cũng truyền bá Võ Thuật cho những người phụ giúp trong việc dịch, quảng bá Kinh sách để nhằm luyện sức khỏe, sau nầy môn võ trở thành nền võ thuật của Thiếu Lâm Tự. Không biết môn võ thuật có truyền sang các ngôi chùa ở các ngọn núi khác như: Nga Mi, Cửu Hoa Sơn… không? Nhưng nó cũng là nguồn động lực cho các câu chuyện kiếm hiệp được các nhà văn trước tác ra sau nầy; và chúng cũng được dựng thành phim gọi là phim kiếm hiệp Trung Hoa. Tuy nhiên, có điều chắc chắn là Phật Giáo ở nước nầy bao gồm có cả Bắc Truyền theo “Con đường tơ lụa”: Lấy Đại Thừa làm cơ bản, với hệ thống Kinh điển từ Tiếng Sankrit dịch sang Hán Ngữ để sau đó lan truyền sang Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan và miền Bắc Việt Nam. Và cũng có Phật Giáo Nam Truyền: Từ Nam Ấn qua Sri Lanka, sang vùng Đông Nam Á rồi đến Trung Hoa qua ngõ thuộc Tỉnh Quảng Đông với Kinh điển chữ Pali và thuộc hệ thống Thượng Tọa Bộ. Ngoài ra lại có Phật Giáo Mật Truyền (Mật Tông) qua nhánh Tây Tạng, Nepal, Bhutan rồi đến Mông Cổ với Kinh điển bằng ngôn ngữ Tây Tạng theo hệ phái Kim Cang Thừa.

Ngoài ra, trong Phật giáo Trung Hoa người ta thường đề cập đến những giai thoại tu tập của các vị tu sĩ được giác ngộ, đạt đến phẩm hạnh của các vị Bồ Tát cần có như ở núi Nga Mi (Tỉnh Tứ Xuyên) là nơi tu luyện của Phổ Hiền Bồ Tát; Ngũ Đài Sơn (Tỉnh Sơn Tây) là nơi hóa thân của Văn Thù Bồ Tát; Cửu Hoa Sơn có Địa Tạng Vương Bồ Tát; và Phổ Đà Sơn là nơi Quan Thế Âm Bồ Tát thị hiện. Rồi còn có chuyện Tế Công hay là Tế Điên Hòa Thượng, hoặc chuyện Bố Đại Hòa Thượng được xem là hình ảnh của Phật Di Lặc là vị Phật của thời đại Tương Lai.

Về chuyện dịch thuật các Kinh điển nhà Phật sang Tiếng Trung Hoa, thì lúc đầu do các nhà sư từ Ấn Độ, Tây Vực sang như An Thế Cao, Cưu Ma La Thập thực hiện. Sau có các nhà sư Trung Quốc sang Ấn Độ học tập, và thỉnh Kinh về rồi dịch thuật như Ngài Chu Sĩ Hành đời Tam Quốc, Pháp Hiển đời Đông Tấn, và Huyền Trang đời Đường. Song song vào đó việc in ấn xuất bản Kinh điển Phật giáo cũng được tiến hành theo từng thời kỳ, nhất là trong thời kỳ Nhà Tống đã có 5 lần khắc bảng ván để ấn hành Đại Tạng Kinh: Từ Thục Bản là bộ Đại Tạng Kinh  đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo của Trung Quốc, với hơn 5000 quyển (bắt đầu từ năm 971 đến năm 983 thì hoàn thành); cho đến Đông Thiền Bản Tự có hơn 6000 quyển (1080-1112); Khai Nguyên Tự Bản (1112-1146) có hơn 6000 quyển; Tư Khê Bản (1132) có 6000 quyển, sau được khắc thêm bản nữa nên lại có tên khác là Tư Phúc Thiền Tự Bản. Và sau là Tích Sa Bản bắt đầu từ năm 1231 đến năm 1310 thì hoàn thành gồm 6326 quyển, nhưng bộ nầy đến cuối đời Nhà Nguyên thì bị thiêu hủy vì chiến tranh. Và cuối đời Nam Tống có hai bộ Đại Tạng Kinh khác là Phả Ninh Tự Bản và Hoằng Pháp Tự Bản ra đời.

Phật Giáo khi truyền đến Trung Quốc được biến chuyển và thay đổi nhiều để thích hợp với nền văn minh nầy; cùng đáp ứng với những suy nghĩ của các nhà tu hành, vì thế mà các chi phái khác được ra đời. Không như những thời trước, lúc đầu Tăng chúng chia thành hai phái bộ Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ đi về hai hướng. Và phái Tiểu Thừa phát triển ở phương Nam với hệ thống ngôn ngữ Pali. Như vậy, Phật Giáo ở đây có cả Đại Thừa về phương Bắc bằng ngôn ngữ Sankrit; Phái Kim Cang Thừa từ Tây Tạng lên ảnh hưởng đến Nepal, Bhutan, Mông Cổ với hệ chữ viết Tạng Ngữ; phương Nam thì có phái Tiểu thừa với ngôn ngữ Pali.

Tại Trung Quốc, tất cả giáo lý Đạo Phật còn được chuyển dịch rộng rãi sang Hoa Ngữ. Và các nhà tu hành lại phát triển thành nhiều chi nhánh khác, gọi là các Tông phái như:

-Tịnh Độ Tông: Ra đời từ thời Nam Bắc Triều, nhưng đến đời Nhà Đường thì hoàn thành về giáo nghĩa và phát triển thịnh hành do hai vị Danh Tăng là Đạo Xước và Thiện Đạo. Tông nầy lại có 3 phân nhánh khác: Đạo Xước, Thiện Đạo kế thừa giáo nghĩa của Ngài Đàm Loan; nhánh của ngài Từ Mẫn và nhánh Tuệ Viễn xuất phát từ Lư Sơn của Ngài Tuệ Viễn.

-Luật Tông: Do nghiên cứu từ Tam Lậu Học (Giới, Định, Tuệ) mà các nhà sư Trung Quốc phát triển riêng thành Tam Luận Tông, Thiên Thai Tông, Hoa Nghiêm Tông theo Tuệ học; và do tu tập theo Định học mà có Thiền Tông; theo Giới học nên có Luật Tông, Luật Tông có 3 phái: Nam Sơn Tông, Tướng Bộ Tông và Đông Tháp Tông.

-Thiền Tông: Do Ngài Bồ Đề Đạt Ma, người từ Ấn Độ sang thành lập vào thời Nhà Lương, nhưng đến đời các vị Tổ Thần Tú và Lục Tổ Huệ Năng, giáo nghĩa mới hoàn tất và phát triển.

-Pháp Tướng Tông: Tông nầy dựa vào Tính và Tướng của các pháp nên gọi là Pháp Tướng, nhưng các pháp cũng đều do Thức phát sinh nên còn gọi là Duy Thức Tông, căn cứ vào các Kinh sách Giải Thâm Mật Kinh và Du Già Sư Địa Luận do Ngài Huyền Trang làm căn bản, nên Ngài Huyền Trang được xem như là Sơ Tổ.

-Câu Xá Tông: Dựa vào Câu Xá Luận làm Kinh căn bản cho Tông, xem mọi Pháp trong vũ trụ đều qui vào Hữu Vi Pháp và Vô Vi Pháp.

-Hoa Nghiêm Tông: Tông nầy khởi đầu từ sự nghiên cứu về Kinh Hoa Nghiêm sau khi Ngài Giác Hiền thời Đông Tấn dịch ra, cho đến đời Đường Ngài Pháp Tạng Hiền Thủ mới hoàn thành, như vậy Tông nầy căn cứ vào Kinh Hoa Nghiêm để tu tập.

-Mật Tông: Còn gọi là Mật Giáo hay Chân Ngôn Tông thành lập từ thời Đường do các Ngài Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí và Bất Không từ Ấn Độ truyền đến, căn cứ vào giáo lý của Kinh Đại Nhật và Kim Cang Đính.

-Thiên Thai Tông: Tông nầy được thành lập từ đời Tùy và rất thịnh hành, nhưng sang đời Đường thì phát triển yếu kém, đến khi Diệu Lạc Đại Sư thì mới phát triển lại nhưng vẫn không bằng như trước.

Như vậy, khi Đạo Phật đến đất nước Trung Hoa thì được các nhà tu hành phân tích các Kinh điển, giới luật, hay nhận định giáo lý và chọn cách tu nào thích hợp với quan niệm của họ nhất. Nhưng con đường tu nơi yên tĩnh, vắng lặng vẫn được ưa thích, chọn lọc; vì thế mà các chùa thường được xây dựng ở những nơi rừng cây hoặc các núi mà cần phải “san bằng đất đá” cho việc xây cất; để về sau nầy người ta hay gọi những vị sư đầu tiên tạo lập ngôi chùa bằng các chữ “người đã khai sơn phá thạch”. Không biết điều ấy có đúng như vậy hay chăng?

 

Nguyên Thảo,

23/01/2025.