Còn Đạo Phật
truyền đến Việt Nam thì: Tuy rằng trong lịch sử có đề cập vào
khoảng Thế kỷ thứ I trước Công nguyên có các nhà sư Ấn Độ theo đường thủy đến để
truyền bá, và sang đầu Thế kỷ sau Công nguyên thì Luy Lâu (Bắc Ninh), thủ phủ của
Giao Chỉ lúc bấy giờ, trở thành trung tâm quan trọng của Phật Giáo. Các dấu tích
và truyền thuyết Thạch Quang Phật, Man Nương Phật Mẫu, hay sự giảng đạo của nhà
sư Ksudra (Khâu Đà La) vào những năm 168-189, nhất là danh từ Buddha được dân
gian biến thành chữ “Bụt” chứng minh cho điều đó tức là trước khi Phật Giáo từ
Trung Hoa ảnh hưởng sang Việt Nam. Mặc dù Ngài Mâu Bác vốn là người Thương Ngô tức
Ngô Châu (Trung Hoa) sang truyền bá Đạo Phật ở nước ta chỉ từ khoảng năm 189. Và
những thời gian sau đó nối tiếp là các nhà sư xuất phát từ Ấn Độ như Khương Tăng
Hội người Sodiane (Khương Cư- Ấn Độ) ghé đất Giao Châu vào đầu Thế kỷ thứ III sau
Tây Lịch. Rồi đến giữa tới cuối Thế Kỷ thứ III có hai nhà sư Ấn Độ khác là Ma
Ha Kỳ Vực (vào thời Tam Quốc 229- 252) và Chi Cương Lương (vào cuối đời Tần 265-306)
cũng đến Giao Châu phổ biến Đạo Phật trước khi sang Trung Hoa.
Nhưng lịch sử Phật giáo ở
Việt Nam chỉ được xem chính thức như là truyền bá từ đầu Thế kỷ Công nguyên, tức
là sau Tây Lịch cho đến nay, vì các dữ kiện trong những giai đoạn đầu còn cần phải
minh chứng them bằng những sử, tài liệu xác thực từ các nhà nghiên cứu và khảo
cổ. Vì thế người ta chỉ phân chia sự truyền bá Đạo Phật ở Việt Nam thành 4 giai
đoạn sau:
-Từ đầu Công Nguyên đến hết
thời kỳ Bắc Thuộc: Giai đoạn hình thành và phát triển.
-Thời Đinh, Tiền Lê, Lý,
Trần: Giai đoạn cực thịnh.
-Từ đời Hậu Lê đến cuối Thế
kỷ 19: Giai đoạn suy thoái.
-Từ đầu Thế kỷ 20 đến
nay: Giai đoạn Chấn Hưng.
1) Giai đoạn hình thành và
phát triển: Nói như thế thì sự truyền bá Đạo Phật ở nước ta chỉ được
tính từ thời của Ngài Mâu Bác, và sau đó là ba nhà sư từ Ấn Độ sang như Khương
Tăng Hội, Ma Ha Kỳ Vực cùng Chi Cương Lương. Nền móng của Đạo Phật lúc bấy giờ
chưa ảnh hưởng sâu rộng vào đời sống dân chúng mà chỉ bằng những hình thức thờ
cúng, lễ bái. Tuy nhiên, trong các tông phái lưu hành ở Trung Hoa thời ấy thì
chỉ có các phái Thiền Tông du nhập mạnh mẽ mà thôi. Trước nhất là do Ngài Vinitaruci
(Tỳ Ni Đa Lưu Chi), đệ tử Ngài Tam Tổ Tăng Xán truyền sang vào năm 580 và trở
thành Sơ Tổ phái Thiền Tông Việt Nam. Rồi đến Đời Đường bên Tàu (820) có Ngài Vô
Ngôn Thông sang truyền bá, lập thành dòng Thiền thứ hai; và kế là các phái Thảo
Đường, Tào Động, Lâm Tế lần lượt được truyền sang.
Và cũng trong thời kỳ Bắc
Thuộc có nhiều cuộc khởi nghĩa của dân tộc nổi lên chống lại sự cai trị của chính
quyền Trung Hoa lúc bấy giờ và cũng có các thời gian giành được độc lập, và Phật
Giáo theo đó mà có những bước tiến theo giai đoạn dù không nhiều, như thời kỳ của
Hai Bà Trưng khởi nghĩa cũng có nữ tướng của Bà đi tu sau khi cuộc khởi nghĩa
thất bại. Đến thời Lý Nam Đế một ít chùa chiền được dựng lên, nhưng không gây được
sự phát triển, mà vẫn còn phôi thai. Tuy vậy sau thời Lý Nam Đế (571- 602) và
thời Bắc Thuộc lần thứ ba (603- 939) thì Phật Giáo được phát triển nhờ vào ba
giai đoạn:
-Giai đoạn 1: Là giai đoạn
mà Ngài Vinitaruci (Tỳ Ni Đa Lưu Chi) đem phái Thiền Tông truyền sang vào năm
580 và trở thành Sơ Tổ phái Thiền ở nước ta, sau có Ngài Pháp Hiển tiếp nối phổ
biến phái nầy sâu rộng trong dân chúng.
-Giai đoạn 2: Khi nước ta
lệ thuộc vào nhà Tùy bên Tàu, thì vua Cao Tổ cho các vị danh tăng sang xây tháp
ở chùa Pháp Vân, xây chùa Trùng Khánh. Đến đời Đường, Đường Cao Tổ sắc lệnh cho
xây nhiều chùa tháp. Và trong thời kỳ nầy có các đoàn truyền giáo cả Trung Hoa
và Ấn Độ thường ghé vào nước ta truyền bá Phật Pháp: Đoàn thứ nhất gồm các Ngài
từ Trung Hoa sang như Minh Viễn Pháp Sư, Huệ Mạnh và Vô Hành Thiền Sư. Đoàn thứ
hai gồm hai nhà sư Trung Hoa là Đàm Nhuận và Trí Hoàng Pháp Sư, cùng một nhà sư
từ Ấn Độ là Tăng Già Bạt Ma. Và đoàn thứ ba gồm những nhà sư Việt Nam đi sang Ấn
Độ hay Tích Lan mà cầu đạo như các Ngài: Vân Kỳ Thiền Sư, Mộc Xoa Đề Bà, Khuy Sung
Pháp Sư, Huệ Diệm Pháp Sư, và Trí Hành Thiền Sư.
-Giai đoạn 3: Đến năm 820
có vị cao tăng là Vô Ngôn Thông bên Tàu sang truyền thêm một phái thiền nữa gọi
là phái Thiền Vô Ngôn Thông.
Sau thời kỳ Bắc Thuộc, kể
từ khi Ngô Quyền Phá tan quân Nam Hán ở trận Bạch Đằng (939), nước ta bước vào
giai đoạn độc lập và tự chủ, nhưng mãi đến thời Nhà Đinh và Tiền Lê (968- 1009)
thì Phật Giáo mới được phát triển mạnh. Trong hai triều đại nầy có các nhà sư được
trọng dụng và tham gia việc triều chính như trong thời vua Đinh Tiên Hoàng thì
có Ngài Ngô Chân Lưu làm Khuông Việt Thái sư, Ngài Trương Ma Ni làm Tăng Lục Đạo
sĩ và Đặng Huyền Quang làm Sùng Chân Đạo sĩ. Sang đến thời vua Lê Đại Hành sau
khi chống lại Nhà Tống thành công thường hay hỏi ý kiến các nhà sư về việc nước
và khuyến khích phát triển Đạo Phật, lẫn cho thỉnh Đại Tạng Kinh lẫn Cữu Kinh từ
bên Trung Hoa về phổ biến. Qua hai triều đại nầy có hai nhà sư nổi tiếng là Khuông
Việt Thái sư Ngô Chân Lưu và Ngài Đỗ Thuận Thiền sư. Theo lịch sử thì tình hình
lúc bấy giờ không nhiều người theo học chữ Hán như các nhà sư, cho nên người học
cao hiểu rộng không nhiều, vì vậy các nhà sư lúc bấy giờ thường được trọng vọng
nên cũng không có gì gọi là ngạc nhiên.
2) Giai đoạn cực thịnh: Sang
đến thời nhà Lý (1010- 1225) thì Lý Thái Tổ hết sức chú trọng đến sự phát triển
của Phật giáo. Ngài cho xây nhiều chùa và có nhiều tăng chúng vì Ngài vốn xuất thân
từ trong nhà chùa (con nuôi của nhà sư Lý Khánh Vân nên có tên là Lý Công Uẩn).
Năm 1018 Ngài sai quan Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc sang Tàu thỉnh Kinh Tam Tạng
để vào kinh viện Đại Hưng. Thời nầy có nhiều bậc danh tăng như các Ngài Vạn Hạnh,
Đa Bảo, Sùng Phạm Thiền Sư được nhà vua tin dùng. Sau khi Thái Tổ mất, Thái Tử
Phật Mã lên nối ngôi tức là Lý Thái Tôn (năm 1028), nhà vua cũng là người sùng đạo
cho lập nhiều chùa chiền, và được nhà Tống bên Tàu ban cho Đại Tạng Kinh. Vào
thời nầy có các Ngài Định Lương Trưởng lão, Huệ Linh và Thiền Lão Thiền sư là các
vị cao tăng có công lớn trong việc truyền bá giáo pháp đạo Phật. Trong đời vua
kế tiếp là Thái tử Nhật Tôn lên ngôi tức là vua Lý Thái Tôn (1054- 1072) Ngài sắc
lệnh dựng chùa xây tháp và đúc quả chuông 12.000 cân đồng tại làng Bảo Thiên (Hà
Nội), chuông ấy đến nay vẫn còn. Nhà vua còn thọ giáo và trở thành đệ tử đầu tiên
của Ngài Thảo Đường của phái Thiền Thảo Đường tức phái Thiền thứ ba du nhập vào
Việt Nam. Sang đời vua Lý Nhân Tôn (1072- 1127) ngoài việc lo truyền bá Phật pháp,
Ngài còn đặt chức quan trông coi các chùa trong nước. Song song vào đó Hoàng Hậu
cũng xuất của ra để xây hàng trăm ngôi chùa khắp nơi. Vào thời kỳ nầy có các nhà
sư nổi tiếng như Viên Chiếu Thiền sư, Ngộ Ấn Thiền sư…Trong đời Lý Thần Tôn
(1128- 1138) phong cho Ngài Minh Không Thiền sư làm quốc sư và lập chùa Linh Cảm.
Ngoài ra trong thời nầy có nhiều vị danh tăng như: Thông Biện Thiền sư, Bảo Giám
Thiền sư, nhất là có vị ni đầu tiên là Diệu Nhân, con gái của một hoàng thân thọ
giới với Ngài Chân Không Thiền sư thuộc phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Đến các đời vua
sau của Nhà Lý như Lý Anh Tôn (1138- 1175), Lý Cao Tôn (1176- 1210), Lý Huệ Tôn
(1211- 1225) sự phát triển Phật giáo không được như trước, mặc dù vua quan vẫn
còn sùng đạo có thể theo sự suy yếu của triều đại. tuy nhiên vẫn có vài vị danh
tăng như: Trí Thuyền, Am Trí, Bảo Giám, Viên Thông Thiền sư. Đến năm 1224 vua
Huệ Tôn truyền cho công chúa Phật Kim mới 7 tuổi lên ngôi tức là Lý Chiêu Hoàng,
nhưng sau đó Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh để thành lập triều
đại Nhà Trần và chấm dứt triều Nhà Lý kéo dài hơn 200 năm.
Mặc dù Nhà Trần thừa hưởng
những thành quả sự phát triển Đạo Phật của thời Nhà Lý, nhưng sự tiếp nối phát
triển đạo chỉ được trong bốn đời vua đầu kéo dài khoảng 100 năm, còn các đời
vua sau thì Phật Giáo do nơi sự cạnh tranh của Nho Giáo; lẫn những điều mê tín
dị đoan của tà giáo, ngoại đạo xen vào khiến Đạo Phật bị mất vị thế của nó trước
kia và đi vào thời kỳ suy thoái.
Tuy vậy có những đời vua
làm cho Phật Giáo được truyền bá, phát triển như đời vua Trần Thái Tôn (1225-
1258), Ngài tức là Trần Cảnh chồng của Lý Chiêu Hoàng sau khi được nhường ngôi để
thành lập triều đại Nhà Trần, Ngài cho lập chùa, đúc chuông, và còn soạn ra hai
quyển: “Thiền Tôn Chỉ Nam” để nói về đạo lý tu thiền, và “Khóa Hư” giải thích rõ
về những cái khổ của sinh, bệnh, lão, tử. Còn Trần Nhân Tôn (1278- 1293) nối ngôi
vua Thánh Tôn và sau khi đánh thắng quân Mông Cổ thì Ngài truyền ngôi lại cho con
là vua Trần Anh Tôn (1293- 1314) rồi đi vào núi Yên Tử tu hành. Vua Nhân Tôn học
đạo với Ngàì Tuệ Trung Thượng Sĩ tức là vị quan Trần Quốc Toản trong thời chống
quân Nguyên Mông, khi đi tu hành đạo Ngài đã lập ra phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử
mà Ngài là Sơ Tổ của dòng thiền ấy; và Ngài Pháp Loa là vị Tổ thứ hai, và Ngài
Huyền Quang Tôn Sư là vị Tổ thứ ba của dòng Thiền nầy. Gần đây Thiền Sư Thích
Thanh Từ đang cố gắng phục hồi lại dòng Thiền nầy trong thời gian hiện tại.
Sang đời Trần Anh Tôn, đạo Phật vẫn được chú trọng, nhưng không được phát triển
như trước vì tà giáo đã xen lẫn vào trong đời sống của người dân, do vậy mà những
đời sau của Nhà Trần Phật Giáo đi vào thời kỳ suy vi.
Nguyên Thảo,
31/07/2025.