3) Giai đoạn suy thoái (từ đời Hâu Lê cho đến Thế Kỷ 19): Sau khi chấm dứt Nhà Trần, Hồ Quý Ly xây dựng Nhà Hồ (1400- 1407), nhưng chỉ được khoảng 7 năm thì Nhà Minh bên Tàu mượn cớ giúp họ Trần xây dựng lại cơ đồ, đem quân sang xâm chiếm nước ta. Không những trong 7 năm đó họ Hồ chưa làm gì cho Phật Giáo, mà sau đó Nhà Minh còn phá nhiều chùa, cùng lấy các Kinh sách về Tàu tiêu hủy rất nhiều khiến Phật Giáo đi vào thời kỳ đen tối; đồng thời lại cho du nhập những hình thức mê tín dị đoan của Đạo Lão và Lạt Ma Giáo làm cho Phật Giáo bị biến chất không còn như trước kia.
Khi Lê Lợi làm cuộc kháng
chiến chống quân Minh thành công, Ngài thành lập Nhà Hậu Lê (1428- 1527), tổ chức
hành chính theo Nho học, chú trọng vào khoa cử để tuyển chọn người tài, do vậy
Nho học trở nên độc tôn và Phật Giáo không được để ý đến nữa mà trở thành nơi
chỉ lo thờ cúng, và những người buồn chán tìm nơi an trú cho tinh thần thanh thản
mà thôi. Cuối đời Lê Cung Hoàng (1516- 1527) thì Nhà Lê bì Mạc Đăng Dung soán
ngôi, lập nên Nhà Mạc. Tôi thần Nhà Lê chống lại Nhà Mạc, sau 6 năm giành lại được
giang san, nhưng từ đó lại lâm vào tình trạng lạm quyền của chúa Trịnh và thành
triều đại “Vua Lê, Chúa Trịnh”. Họ Nguyễn không phục tùng, Nguyễn Hoàng vào Nam
lánh nạn, hùng cứ một phương khiến nước ta bước vào thời kỳ Nam, Bắc phân tranh
kéo dài khoảng 274 năm. Trong khoảng thời gian nầy hai bên đều chú trọng đến sự
phát triển Phật Giáo, cùng lúc nhờ vào tình hình bên Tàu loạn lạc khiến nhiều vị
sư sang nước ta lánh nạn và hành đạo nên có nhiều tông phái được truyền sang. Ở
miền Bắc Chúa Trịnh cho trùng tu các tự viện, thỉnh Đại Tạng Kinh đem về, cùng
sự du nhập của các môn phái Tào Động, Lâm Tế và có thêm môn phái mới là Liên Tôn
do Ngài Thiền sư Lân Giác (vương công của họ Trịnh) lập nên; và nổi danh nhất là
Ngài Hương Hải Thiền Sư. Còn ở miền Nam, các Chúa Nguyễn cũng cho lập nhiều tự
viện, tạc tượng, đúc chuông, chú trọng vào sự phát triển Đạo Phật. Có nhiều vị
sư từ Trung Hoa sang truyền giáo nổi tiếng như các Ngài Giác Phong, Tế Viên,
Nguyên Thiều, Thạch Liêm, Tử Dung Hòa Thượng…; và vị tăng trong nước nỗi tiếng
là Ngài Liễu Quán.
Sang đến thời Nhà Nguyễn
Tây Sơn mặc dù chấm dứt được thời kỳ Nam Bắc phân tranh, thống nhất đất nước,
nhưng vì quá ngắn nên chưa làm được gì thì Chúa Nguyễn Phúc Ánh giành lại được cơ
đồ và lập nên Nhà Nguyễn với niên hiệu là Gia Long. Trong triều đại nầy vua Gia
Long lo ổn định lại tình hình trong nước; nên mãi đến thời vua Minh Mạng, Thiệu
Trị mới có các công cuộc trùng tu tự viện, nhưng do tình hình loạn lạc trong thời
kỳ bị Pháp đô hộ nên Đạo Phật dần đi vào quên lãng. Hơn nữa, vì người Pháp chú
trọng phát triển cho Thiên Chúa Giáo mà Đạo Phật không thể phát triển hơn được và
trở thành nơi thờ cúng, cầu đảo; tăng đồ không còn nghiên cứu, học tập như trước
mà chỉ thụ động tu tập, an phận ở chùa, khiến Đạo Phật càng ngày càng suy thoái,
lu mờ.
4) Giai đoạn Chấn Hưng (Từ
đầu Thế Kỷ 20 đến nay): Vào những Thế Kỷ 18, 19 Đạo Phật gần
như bị đi vào quên lãng sau sự tàn phá tan hoang trên đất Ấn Độ, nơi Thánh địa
và nhiều nơi, các nước khác do sự xâm chiếm của đạơ quân đế quốc Hồi Giáo; cùng
với căn bản nền tảng của Ấn Độ giáo trong xã hội Ấn Độ, nên từ đó Đạo Phật suy
vi và bị xem như là chỉ để thờ cúng, lễ bái. Tuy nhiên, sau thời gian ấy thì nhân
nơi phong trào khám phá của nhiều nhà khảo cổ, khoa học, các triết gia nghiên cứu
từ Tây Phương, Đạo Phật dần được chú ý về cái tính chất triết lý, khoa học, nhân
bản, nhân đạo và tôn giáo trong toàn bộ cái lý thuyết, giáo lý thực tiển về con
người, chúng sinh trong vạn vật khi đi tìm một sự an lành, giải thoát trong cuộc
sống đầy đau khổ của nhân sinh; mà những phong trào chấn hưng Đạo Phật được lan
truyền rộng rãi trên nhiều nước. Một khám phá độc đáo nhất trong lý thuyết của Đạo
Phật là nó cung ứng, giải thích cho con người được hiểu rõ hơn về những hành vi
trong cuộc sống mà mình đã làm; phải chịu trách nhiệm về nó, lẫn cái nghiệp ấy
sẽ đưa chúng sinh đi về đâu, giải thích được rõ những gì mà mình sẽ nhận cái hậu
quả trong những thời gian về sau. Từ đó, mọi người có thể hiểu vì sao mỗi con người,
chúng sinh đều có những số phận, hình thể, tâm tính đều khác nhau dù có thể
sinh ra cùng lúc, cùng nơi, cùng cha mẹ, mà không một tôn giáo nào có thể giải
thích được nếu không nhờ vào cho một Đấng Tối Cao nào đó với sự giải thích mù mờ,
không thích đáng. Đó là cái thời gian được nhiều học giả, nhà nghiên cứu từ Tây
Phương khởi đầu đào sâu vào tinh thần Đạo Phật, rồi kéo theo sự đi tìm lại những
gì mà tôn giáo mình hiện có của các nhà sư, cư sĩ, học giả đang nghiên cứu, hành
đạo về đạo của mình: Ấy là phong trào chấn hưng Phật giáo ở các nước mà Phật Giáo
được xem như là phát triển, thịnh hành trước kia.
Do khởi đầu từ những nghiên
cứu, tìm hiểu của người Anh về nền văn minh Ấn Độ mà họ đã khám phá được sự thâm
thúy của Đạo Phật, từ đó họ cổ xúy cho sự phục hưng trong sự phát triển Đạo Phật.
Nên từ Ấn Độ, học giả Rayendachilala với quyển “Văn chương Phật Giáo” và “Tiểu
Phẩm Bát Nhã” đã khơi nguồn cho phong trào ấy. Đến năm 1893, ông
Sarat Chandoras tiếp nối thành lập “Hội Nghiên Cứu Thánh Điển Phật Giáo Ấn Độ và
Nhân Loại Học Thuật” thu hút được nhiều hội viên. Và Đại Đức Anagarica Dhamapala
lập hội “Mahabodhi” (Đại Bồ Đề) vào năm 1891 có nhiều chi nhánh ở Âu Mỹ rất ảnh
hưởng đến sự chấn hưng của Phật Giáo ở các nơi, nhất là ở các nước mà Phật Giáo
được phát triển mạnh mẽ như Miến Điện, Tích lan, Thái lan, Cam Bốt, Trung Hoa,
Nhật Bản và Việt Nam. Đồng thời Đạo Phật cũng dần thâm nhập vào xã hội Tây Phương
khiến nhiều học giả kế tiếp có nhiều nghiên cứu, tìm hiểu về Đạo Phật. Do vậy, Đạo
Phật cũng dần được thế giới chú ý đến trong hoàn cảnh toàn cầu hóa, cùng sự
giao lưu dễ dàng trên thế giới hiện nay như vào năm 1950 có cuộc Đại Hội Phật
Giáo Thế Giới được triệu tập lần đầu tiên tại Colombo là thủ đô của Sri Lanka. Sau
đó có nhiều Đại hội khác được tổ chức ở Trung Hoa, Tokyo (Nhật Bản), Rangoon (Miến
Điện), Kathmandu (Nepal), Bangkok (Thái Lan), Nam Vang (Cam Bốt)..vân.. vân.
Cuốn theo phong trào chấn
hưng trên thế giới, Phật Giáo Việt Nam cũng có nhiều cuộc thay đổi từ tìm hiểu,
học hỏi, nghiên cứu rồi đến tổ chức, hoàn thiện hệ thống của mình theo từng thời
kỳ. Trong giai đoạn đầu có những cố gắng lẻ tẻ từ năm 1920 với những nhà sư Vĩnh
Nghiêm (Thanh Hạnh), Tế Các (Phan Trung Thứ), Bằng Sở (Dương Văn Hiển) ở Miền Bắc.
Ở Miền Trung có Ngài Tâm Tịnh, Huệ Pháp, Phước Huệ; và ở Miền Nam có Ngài Khánh
Hòa, Huệ Quảng, Khánh Anh. Đồng thời có nhiều học giả tham gia nghiên cứu, sáng
tác nhiều tác phẩm về Đạo Phật có giá trị như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim... Đến
năm 1931 các tổ chức nghiên cứu, đào tạo người học Phật như Hội Phật Học được
thành lập tại Sài Gòn như Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học, kế tiếp là Hội Lưỡng Xuyên
Phật Học do từ sáng kiến của các Ngài Khánh Hòa, Huệ Quang, Khánh Anh…Sang năm 1932,
ở Trung Kỳ có Phật Học Hội tại chùa Từ Đàm do các Ngài Giác Tiên, Phước Huệ và Đạo
hữu Tâm Minh Lê Đình Thám cùng nhóm cư sĩ Tân Hồng thành lập; ở
Bình Định có hội Phật Học Bình Định; Đà Nẵng có Hội Phật học Đà Thanh. Đến năm
1934, ở Bắc Kỳ có Thượng tọa Tố Liên, Trí Hải cùng cụ Nguyễn Năng Quốc, Trần Trọng
Kim và một số cư sĩ thành lập Phật Giáo Tổng Hội. Ngoài các hội nghiên cứu, tìm
hiểu, học Phật ở ba miền còn mở các trường để đào tạo, dạy dỗ các tăng sĩ trẻ như
trường Tăng Học ở Miền Bắc đặt tại chùa Quán Sứ. Miền Trung có Phật Học Viện ở
chùa Tây Thiên và Bảo Quốc. Miền Nam có Phật Học Viện Lưỡng Xuyên ở Trà Vinh và
trường Ni ở Vĩnh Bữu. Không những thế, các Hội còn xuất bản nhiều tạp chí để phổ
biến, hoằng dương Phật pháp như tờ Đuốc Tuệ (ở Bắc), Viên Âm (miền Trung), Từ
Bi Âm, Duy Tâm ở miền Nam. Rồi sau đó đất nước bước vào giai đoạn kháng chiến,
giành độc lập với thực dân Pháp; dù chiến tranh nhưng các nhà lãnh đạo Phật giáo
vẫn tích cực thúc đẩy các hoạt động chấn hưng và phát triển về các phương diện
từ thiện, xã hội như thành lập các tổ chức cứu trợ, cô nhi viện, và mở trường học
tư thục, gây phong trào Gia Đình Phật Tử tùy theo từng miền.
Tuy nhiên, đến ngày 6-5-1951
có Đại Hội toàn quốc được triệu tập tại chùa Từ Đàm (Huế) với 51 đại biểu Tăng
Già và Cư sĩ ở 3 miền để thành lập “Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam” và bầu Ban Chấp
Hành Trung Ương cho Tổng Hội gọi là “Ban Quản Trị Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam”.
Phật Giáo Việt Nam cũng đã là thành viên sáng lập Tổng Hội Phật Giáo Thế Giới được
thành lập vào năm 1950 tại Colombo (Tích lan). Hội hoạt động trong các ngành:
Hoằng Pháp, Giáo Dục, Văn Mỹ Nghệ, Thanh Niên, Nghi Lễ, Từ Thiện, Xã Hội…
Cũng trong thời kỳ nầy với
sự phát triển phổ biến rộng rãi chữ Quốc Ngữ đã khiến cho Đạo Phật được truyền
bá khá thuận lợi hơn, vì chữ Quốc Ngữ làm cho mọi người trong dân chúng có thể đi
học dễ dàng để nâng cao trình độ dân trí, hiểu biết, rất khác biệt với ngôn ngữ
Hán Việt mà Đạo Phật đã sử dụng trước kia, cho nên người nghiên cứu, dịch thuật
càng ngày càng nhiều khiến Phật tử càng được hiểu đạo hơn; và trình độ giáo lý tăng
sĩ cũng được nâng cao để có đủ khả năng học hỏi thêm lên, nâng tầm kiến thức
ngoài đời cũng như Phật pháp; đào sâu vào giáo lý để truyền đạt lại cho những
người theo đạo hiểu một cách cặn kẽ hơn qua các sách vở, nghiên cứu kinh điển mà
họ trước tác, dịch thuật hoặc những bài thuyết giảng cho quần chúng; hay những
bài giảng dạy cho các tăng sĩ, kể cả đủ khả năng để học những ngôn ngữ Ấn Độ như
Sancrit và Pali để có thể nghiên cứu sâu hơn về Kinh điển Phật Giáo trong hai hệ
phái Nam Tông lẫn Bắc Tông.
Đạo Phật từ lâu đã phải
chững lại vì không được chú trọng đến nữa, do các triều đại quan tâm việc học là
để chọn những người ra làm quan, làm chức sắc cho chính phủ, nhà nước nên các bậc
Nho học chỉ hướng đến quan trường, mong ngày “bái tổ vinh quy”, do vậy mà không
mấy ai lưu tâm đến giáo lý Đạo Phật. Đến thời Pháp thuộc, người Pháp chú trọng đến
việc phát triển Đạo Thiên Chúa, ưu đãi cho đạo nầy và Đạo Phật gần như không được
để ý đến. Những người tu sĩ và bậc thức giả có lòng với Đạo Phật ở ba miền Bắc,
Trung, Nam chỉ hoạt động riêng lẽ ở vùng miền. Nhưng trong phong trào giai đoạn
chấn hưng nầy họ thấy cần phải có sự thống nhất lại các tổ chức của Phật giáo,
nên vào năm 1951 các Tổ chức ở ba miền họp tại Huế để thành lập Tổng Hội Phật
giáo Việt Nam mà trụ sở đặt tại chùa Từ Đàm (Huế) và Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết
là Hội Chủ; đồng thời vạch ra con đường, phương hướng hoạt động…. Tuy nhiên, sự
hoạt động chưa được đồng loạt, vẫn còn riêng lẽ, thành ra tổng hội chỉ còn là một
tổ chức có hình thức.
Rồi đến giai đoạn đất nước
chia đôi thành hai miền Nam Bắc (1954-1975) thì Phật giáo ở miền Bắc thống nhất
lại thành Hội Phật Giáo Thống Nhất Việt Nam với Hòa thượng Thích Trí Độ làm Hội
Trưỏng và Hòa thượng Thích Đức Nhuận làm Phó Hội Trưởng. Còn trong miền Nam đến
những năm 1963, 1964 do nhu cầu tranh đấu vì Tôn giáo của Phật giáo với chính
quyền Miền Nam, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được ra đời mà nồng cốt
chính là thành phần của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam trước kia. Giáo Hội nầy kết
hợp mọi thành phần Phật giáo của hai hệ phái Nam Tông và Bắc Tông trong cuộc đấu
tranh nầy. Hội hoạt động cho đến năm 1981 thì ngưng hoạt động nhường chỗ cho Tổ
chức khác là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam được thành lập trên cơ sở hợp nhất các
tổ chức Phật giáo trong cả nước với một hội nghị gồm 165 đại biểu của các hệ phái
trong nước tại chùa Quán Sứ Hà Nội: Hòa Thượng Thích Đức Nhuận làm Pháp Chủ Hội
Đồng Chứng Minh Trung Ương và Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Chủ Tịch Hội Đồng Trị
Sự Trung Ương; Văn Phòng I đặt tại chùa Quán Sứ (Hà Nội) và Văn Phòng II tại chùa
Xá Lợi (TP Hồ Chí Minh). Với phong trào Chấn hưng Phật Gíáo ngày nay càng ngày
càng được củng cố, các tu sĩ được nâng cao trình độ giáo lý qua các lớp, trình độ
đào tạo và được sang Ấn Độ để học tập, nghiên cứu tìm hiểu sâu hơn về Đạo Phật
nhằm giúp cho sự phát triển đạo được tốt hơn về phẩm cũng như về số lượng. Các
tổ chức càng ngày càng được hoàn thiện để giúp người theo đạo có điều kiện học
hỏi, tìm hiểu về giáo lý sâu sắc hơn để thực hiện bước hành trì “thấp đuốc lên để
mà đi” hầu đạt được “cứu cánh” của một người theo Đạo Phật!
Nguyên Thảo,
19/08/2025.