Khi còn ở Vĩnh Trường ít khi tôi nghe tiếng súng
và lại phải chun hầm để tránh đạn, nhưng về chợ tôi thường xuyên phải chun xuống
hầm, nghe tiếng súng, tiếng ầm của moọc-chê và tiếng đạn phóng lựu, hay đầu đạn
“đum đum” nổ. Thỉnh thoảng lại có tiếng cà-nông từ trên Thủ Dầu Một hay Phú Lợi
bắn xuống. Sáng ra, trên vách tường của nhà phía trước, phía đằng kia có vẽ cờ đỏ
sao vàng, đôi lúc lại có cờ búa liềm. Lúc ấy tôi chẳng biết cờ ấy là cờ gì, về sau
lớn lên tôi mới biết. Rồi ít lâu sau, khi hai đứa em kế tôi chết cách nhau không
xa, má tôi chuyển sang bán ở chợ. Họp chợ thường sáng sớm. Sáng bà gánh hàng ra
sạp và bắt tôi phải thức dậy đem theo cái mền, rồi trùm mền ngồi giữ hàng hóa cho
đến khi xong xuôi tôi mới được về nhà ngủ tiếp. Tới sáng thì đi học. Học trò đi
học ở Tân Khánh thuở ấy chỉ có trường Cây Gòn của Thầy Khai thôi là dạy Tiếng
Việt, còn phía bên kia là trường Tàu cho con cháu những người Tàu ở đây học tiếng
Tàu. Trường Thầy Khai có Thầy Giáo Sáu dạy lớp Đồng Ấu, Cô Giáo Khai dạy lớp Tư,
Thầy Thăng dạy lớp Ba, Thầy Giỏi mà người ta gọi là Thầy Giáo Khòm vì ông khòm
lưng dạy lớp Nhì và Thầy Khai dạy lớp Nhứt. Trường đối diện với Thánh Thất Cao Đài
mà người dân thường gọi là Chùa Một Mắt, vì phía trước có treo cây cờ có hình Một
Mắt. Vòng rào phía trước có trồng một hàng cây gòn nên thường được gọi là Trường
Cây Gòn. Ngày tôi bắt đầu đi học thì không biết tôi học như thế nào, ngủ ra sao,
chứ tôi chưa bị đuổi học. Sau ba tôi có kể lại là Thầy Giáo Sáu “mắng vốn” hoài,
nhưng ba tôi năn nỉ Thầy cứ cho tôi học vì để ở nhà sợ tôi đi chơi. Học được
hay không lúc ấy tôi cũng chẳng biết, nhưng cuối khóa thì tôi cũng được lên lớp.
Trong thời gian nầy có một lần tôi phải khóc thật nhiều: Số là kế bên nhà ba má
tôi có hai ông thợ may nhờ chỗ phía trước nhà của Cậu Ba Hưng cạo heo mở chỗ để
may quần áo đàn ông. Hai ông ấy cũng là bà con với ba tôi: Một là Bác Hai Long,
hai là Chú Ba Bơn; còn Út Xang, cô tôi thì may đồ đàn bà phía bên hàng ba nhà
ba má tôi. Không biết câu chuyện như thế nào mà ông Thầy Khai sai anh Tư Sơn,
con cậu Ba Hưng xuống thưa với Thầy Giáo Sáu kêu tôi lên trình diện. Thầy Khai hỏi
tôi: “Tại sao lấy kéo mấy ông thợ may bỏ vào cặp của Thằng Bự?”. Tôi nói: “Không
có”, nhưng Thầy không tin. Thầy gặn hỏi tôi lần nữa, tôi sợ quá bật khóc. Trong
mếu máo tôi nói lại lần nữa là không có. “Vậy, tại sao thằng Bự lại nói mầy. Mầy
khai thiệt đi chứ không tao đâm cái kéo vào cổ mầy”. Nói xong, Thầy giơ kéo ra
như lấy trớn để đâm kéo vào cổ tôi. Tôi nhắm mắt mà khóc ràn rụa. “Thưa Thầy,
con không có lấy, con không có làm”, rồi tôi khóc thật nhiều. Sau lúc đó, Thầy
Khai kêu anh Tư Sơn đưa tôi về lớp và chuyện ấy về sau tôi chẳng biết ra sao?
Trường
Thầy Khai thuở ấy dạy ngày hai buổi giống như các trường khác trong thời Pháp
thuộc, học buổi sáng và buổi chiều, cứ khi trống trường “ba hồi ba dùi” bãi học
thì tất cả học trò ra sắp hàng thứ tự ở sân trường theo từng lớp. Thế rồi, lớp
Thầy Khai đi trước với hai hàng dọc, Thầy đi phía ngoài bên hông. Tiếp theo là
các lớp từ lớn đến nhỏ, và thầy cô cũng đi bên ngoài theo lớp mình. Đến ngả ba
chợ và đồn bót, Thầy đứng đó, học sinh đi qua cúi đầu chào và dần tan hàng đi về
nhà, và Thầy đi vào trong đồn, vì Cô và Thầy ở trong đó. Những học sinh nào đi
về hướng trên ngược lại hay đi xe đạp thì ra cổng sau cùng. Số đó thì rất ít. Cái
nề nếp đó làm nên uy tín của trường Thầy Khai hay là trường Cây Gòn.
Trở
lại, chuyện đi học của tôi, là tôi không biết mình chịu học từ khi nào, nhưng cái
học cũng tạm được không còn mê say để ngủ nữa, hay là từ khi ông Thầy Giáo Sáu
dạy đến bài C-am Q-uýt N-gọt, Y-ên C-ỡi Qu-ất và Thầy làm những hình ảnh khiến
cả lớp cười ồ hoặc làm cái cách đau bụng rồi nhăn nhăn, nhó nhó khiến trong lớp
đứa nào cũng thích, rồi tôi lại mê học. Chắc nhờ đó mà tôi thoát được cái “ngu”
không đếm được đến 10. Tới cuối khóa tôi cũng được lên lớp Tư của cô giáo Khai.
Từ giã lớp Đồng Ấu hay là lớp Năm! Tôi muốn nói “cuối khóa” ở đây có nghĩa là lớp
học không phải một năm, mà tôi nhớ là mỗi khóa chỉ là nửa năm thôi, bởi vì học
một ngày hai buổi chứ không phải là một buổi.
Chuyện
nhà Thầy Khai ở trong đồn không ai giải thích được, mà chỉ biết Thầy Cô ngày
hai buổi ra trường dạy học rồi vào trong ấy. Thầy thường mặc bộ đồ bà ba trắng
thì người ta chỉ nói Thầy là người đạo Cao Đài nên ở trong bót do lính Cao Đài đóng;
và trong bót có thằng lính Tây làm cố vấn, nên Thầy Cô ở trong ấy để làm Thông
dịch. Chắc Thầy Khai giỏi Tiếng Pháp nên ai học đến lớp của Thầy đều được dạy
Tiếng Pháp. Đến giờ ấy nghe cả lớp đọc Tiếng Pháp “nghe mà mê”! Mấy đứa nhỏ như
tụi tui cứ mơ ước mình mau học cho đến lớp của Thầy!
Trường
Cây Gòn cách đồn không xa, cỡ chừng chưa tới 200m, đối diện với Thánh Thất Cao Đài.
Phía trong Thánh Thất là xóm những người theo đạo trú ngụ, là giang sơn riêng của
họ, bên hông nối với vòng rào của bót, có mấy lớp hàng rào kẽm gai, khoảng giữa
là hào sâu cùng với chông tre tua tủa. Đối mặt bên nây hơi thụt vô trong là Trường
Tàu để dạy Tiếng Tàu cho con những người Hoa buôn bán và làm lò chén dọc theo
suối từ Bình Hòa cho đến xóm Chùa. Kế bên hông trường Tàu là dãy nhà kế đến là
khu chợ xen với vài căn nhà người ta ở. Chợ có nhiều sạp do người bán dựng lên,
có cái thì có mái che, có cái không. Ở đầu dưới có một bàn bán bánh mì mà má cũng
thường hay mua cho tôi ăn vào nhiều buổi sáng. Nhưng đặc biệt là sáng nào thằng
Tây cũng mua ở đó. Lúc nầy, tiền “một đồng” người ta có thể xé đôi để trả nửa
giá là 5 cắc (hay 50 xu) nếu mình không có tiền lẽ.
Trước
đồn là khoảng đất trống khá lớn mà lính Tây từ trên Tỉnh hay Phú Lợi đi bố ráp,
lùng sục thường tới đó nghỉ ngơi trước khi đi hay trở về. Những cuộc hành quân
thưòng xuyên, khởi đầu là những xe tăng hay thiết giáp đi đầu hai bên có mấy thằng
lính cầm máy dò mìn đi trước, nối đuôi là mấy thằng lính ôm súng đi theo, kế tiếp
là các xe nhà binh khác. Họ hành quân ở đâu không biết, nhưng thường đi về phía
trong Hóa Nhựt, Tân An, Tân Hội hay Tân Long gì đó. Khoảng xế chiều hay chiều
chúng mới về đậu ở đất trống phía trước đồn, khi nào nhiều đậu dài dọc đường đến
khu đất trống trước trường Tàu. Lúc đó có nhiều đứa dạn dĩ tới gần đám lính Tây
xin kẹo bánh, lính Tây có đứa cho tận tay, có thằng vãi trên mặt đất cho mấy đứa
nhỏ giành với nhau. Tôi nhút nhát nên chỉ tới xin một hai lần, sau đó thấy giành
không lại, đành thôi.
Có
một hôm, tụi lính Tây còn ở lại trước đồn với dàn xe cơ giới. Không biết đêm đó
mưa lớn như thế nào mà chiếc xe thiết giáp ở trước đồn bị lún sâu xuống mặt đất,
sáng ra nó chạy lên không được, mấy xe khác kéo cũng không xong, mà xe lại càng
lún sâu hơn. Cuối cùng xe bá-lan đến kéo lên. Rồi một ngày nọ, có một xe chở đoàn
đi đá banh, vừa đội banh, vừa ngưòi đi theo, chiều về bị giựt mìn trên đầu dốc
dài bên Hóa Nhựt. Số người bị thương và chết người ta đem về chợ Tân Khánh để nằm
dài trên mấy sạp, chờ cứu thương đến đem đi, thật là khủng khiếp và thương tâm.
Sáng ra làm mấy người chủ sạp phải rửa ráy, lau chùi, dọn dẹp và nghỉ bán hết một
ngày.