Rồi mùa hè cũng qua đi! Chúng tôi quay trở lại trường học.
Sau ba tháng Hè sân trường ít được người quét dọn, bây
giờ nó được chăm sóc gọn gàng như thay áo cho một năm học mới. Tiếng trống lại
vang lên mỗi khi vào học lẫn tan trường. Năm nay có Thầy mới. Thầy Lý Văn Trọng
từ Lái Thiêu lên. Tướng Thầy dong dỏng cao, thường đến trường bằng chiếc xe gắn
máy không phải là các chiếc mô-bi-lết mà chúng tôi thường thấy, mà là chiếc hiệu
Beta máy Sachs thì phải. Thầy đạo mạo, chững chạc nên chúng tôi có phần lo. Nhưng
rồi, cũng không lo lắm vì số học trò vào lớp khá đông, nó không phải sĩ số của
chúng tôi ở đây không, mà còn tập hợp từ Vĩnh Trường, Tân Hiệp, Tân Hóa đến nữa.
Ở Vĩnh Trường có Lê Văn Năm, Tôn, Na; Tân Hiệp có Lực, Bạn; Tân Hóa là đông nhứt:
Nguyễn Văn Năm, Phấn, Son, Huệ, Sợi, Thạch, Gõ, Ru, Đoàn văn Em, Miên, Tộ, Cờ,
Tướng, Ngộ, Rờn. Bên nữ có Khởi, Mới, Thay, Mướp, Kiều. Sở dĩ như vậy là vì các
nơi ấy không có nhiều học sinh để mở lớp Nhì. Như vậy mấy xã mới có một trường
Tiểu Học. Từ đây trường Tân Phước Khánh được gọi là Trường Tiểu Học Tân Phước
Khánh mà lớp Nhì chúng tôi là lớp đầu đàn, và Trưởng trường được gọi là Hiệu Trưởng.
Tôi không nhớ rõ là Thầy Nguyễn Văn Tâm từ ngoài Búng về làm Hiệu Trưởng vào lúc
nào, nhưng chắc là hơi trễ chứ không phải đầu năm. Do vì trong lớp có hai Nguyễn
Ngọc Thạch, và căn cứ vào ngày tháng năm sinh thì tôi lớn hơn, nên Thầy đặt à Thạch
A, Thạch kia là Thạch B.
(Ngồi) Thầy Thơ.
Thầy Trọng có năng
khiếu về đàn Măng-đô-lin và hát cho nên Thầy thường hay dạy nhiều bài hát, mà khoảng
thời gian nầy người ta gọi là nhạc cải cách, nhất là trong giờ Hoạt Động Thanh
Niên cùng với môn thể dục, tập đi quân hành một, hai, ba; hoặc chơi thể thao,
thể dục. Lúc nào học ra học, lúc nào chơi ra chơi, thật thoải mái vì thế mà chúng
tôi rất thích học với Thầy, cho nên ít khi có trò nào bi phạt. Trong khi đó thì
Cô Thọ dạy lớp Tư lại có khiếu về hát và tập cho học trò của cô các bài múa, nên
đôi khi Thầy Trọng giúp đàn cho học sinh bên đó hát và múa. Rồi, người ta thường
hay nói: “Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò”, mà học trò quỷ quái thiệt, mỗi lần
mà Thầy Trọng lên trễ thì Cô Thọ đứng nhìn về phía trên đường, mấy đứa kháo nhỏ
nhau: “Cô Thọ trông Thầy mình tới kìa”! Xong nhìn nhau cười chứ không dám nói gì
hết!
Có lần Trường tổ
chức đi “Du Ngoạn Vũng Tàu, Long Hải” mỗi đứa phải đóng một số tiền. Nhưng
trong đó có mấy phần đặc biệt được đặc ân đi “không” (không phải đóng tiền) qua
sự bình bầu thì Trung được ân huệ ấy còn Chi thì không được nên Chi đã khóc. Sự
hơn nhau chỉ có một lá phiếu mà thôi! Và cũng năm đó, Thầy Hòa hướng dẫn đội
banh của Trường Tân Phước Khánh ra đá với đội banh của Trường Phú Hòa trên xã
Phú Hòa, nhưng bị thất bại thảm hại, ôm về tới năm, sáu trái. Trong năm có hai
trường hợp mà học trò phải bỏ học vì chết: Một là Phấn anh của Son, nghe tụi nó
kể lại, thì khi đi chăn bò vào ngày cuối tuần, anh ấy trèo lên cây gì ở gần miễu
nhỏ nào đó lại khắc tên anh như là một vị thần của miễu nên về nóng sốt rồi mất.
Còn Na trên Vĩnh Trường vì đi cưa võ bom để lấy ngù đồng (bộ phận đầu đạn làm bằng
đồng) để bán, thì bị bom nổ mà chết. Nói đến phần nầy, có lẽ tôi phải nói về cái
sân bay đường lên An Mỹ hay lên chợ Thủ Dầu Một một chút.
Thực sự tôi chẳng
biết đích xác về cái lai lịch sân bay ấy, nhưng nghe người lớn kể lại sân bay là
do Tây nó làm, không biết là tư nhân hay của công, nhưng nó có liên hệ đến Sở
cao su “Con Rồng”. Sở nầy không nhỏ bao vòng Bình Chuẩn qua Hòa Thạnh chạy dọc
theo rìa Bình Thoại, Phú Hữu, chạy vào Phú Trung, Phú Chánh về Tân An, Vĩnh Trường;
cái khu vực ấy là cánh đồng Gò Bèo hay Bàu Bèo hoặc Bà Bèo gì đó mà người dân
không nói rõ ràng, chính xác. Ngày tôi lớn lên, lúc mới hiểu biết chút ít thì
khu cao su bên phía Hòa Thạnh và bên Bình Thoại hãy còn. Trên đường từ Vĩnh Trường
băng qua An Mỹ lác đác cây cao su, và trên cánh đồng dài vô Phú Chánh cũng vậy.
Sau dân chúng phá hết lấy cây chụm lửa và khai đất đai thành ruộng gò trồng lúa
vào mùa mưa, hoa màu vào mùa nắng (phải đào giếng, dùng cần vọt cất nước lên tưới).
Thì qua sự suy đoán của tôi sân bay ấy có thể do chủ Sở Con Rồng tạo nên, để máy
bay lên xuống cho công việc của họ hay đem tiền phát lương cho công nhân khi đến
kỳ tiền. Sau đến thời Nhật chiếm thì lại trưng dụng sân bay đó, không biết làm
gì nhưng ba tôi nói là tụi Nhật bắt người ta lên “làm xâu” (làm công tác mà không
trả tiền) trên đó. Cuối những năm chiến tranh và thời gian sau hòa bình được làm
nơi cho lính nhảy dù luyện tập. Lúc đó, lính nhảy dù cứ cuối tuần là họ nhảy,
khiến bọn con nít tụi tui hoặc là ra khoảng trống nhìn lên trên đó xem có bao
nhiêu cây dù; hoặc cỡi xe đạp chạy nhanh lên Bình Hòa gần sân bay nhìn cho rõ,
có lúc những cây dù không mở, trực thăng cứu thương phải chở đi gấp, mà chúng tôi
gọi loại trực thăng đó là “óc nóc xương” vì hình thù giống con cá nòng nọc mà
khoảng đuôi của nó chỉ là khung sắt. Sau thời gian đó thì cánh đồng Gò Bèo được
làm nơi máy bay cánh quạt loại thả bom “skyraider” tập oanh tạc. Người ta kéo các
xác xe hư đến để làm mục tiêu cho máy bay thực tập dội bom. Thuở đó dân hai bên
xã Vĩnh Trường, Phú Hữu hay đi gom sắt vụn để bán, nhất là những “ngù đồng” (bằng
đồng” bán rất có giá). Có lúc họ giành giựt và đánh nhau. Có người cưa hay đục
bom lép để tháo ngù đồng ra lấy, chẳng may nó nổ thì đành chịu “tan thây”! Na
chết trong trường hợp như vậy!
Từ ngày về Tân Khánh tôi dần có bạn bè vừa là bạn học, vừa là bạn hàng
xóm khá nhiều. Thỉnh thoảng lại kết nhóm đi chơi, dong ruổi từ đầu trên xóm dưới.
Tất nhiên tôi không phải là đầu nhóm vì tôi quá nhỏ, không có tài năng lãnh đạo
nên cũng chỉ là “tà lọt” thôi. Người bày cho chúng tôi chơi hay cầm đầu là anh Mười
lớn con của ông Ba Chặng và anh Vân, anh của Trung con của Dì Ba chị của Mười lớn
(Mười lớn tức là anh Nguyễn Văn Là nổi tiếng về đàn, chơi thể thao ở Bình Dương
sau nầy). Với sự hướng dẫn của anh Mười và Vân chúng tôi thường kết đàn đi bắt
cá lia thia ở dưới ruộng, đi tắm suối, chơi chọi nhau trên cánh đồng ở gần cầu đúc
hay đi hái trái trâm dọc theo các đường nước, đắp ụ tát nước bắt cá hoặc đi bắt
dế khắp các cánh đồng từ đồng Hóa Nhựt lên tận gò Vĩnh Trường, tắm lội ở hầm đất
trên Bình Hòa cùng đi vào rừng Cây Chàm hái trái giấy, trái táo gai, trái sim,
có khi ra tận xóm Phước Lộc, gò mã bịt bùng, gò mã Đông. Thời đó đi chơi rất
vui, nhất là trong ba tháng Hè, không phải lo sợ gì cả. Đi chơi đã, về mạch chợ
tắm cho bớt nóng, xong có thể đi vào lò chén xin hay ăn cắp đất sét về nắn những
đồ chơi hay các món mà phải làm thủ công. Thường thì tập trung ở nền nhà tô cao
của ông Ba tức ba của Mười lớn và Mười nhỏ.
Không những vậy, hai anh ấy còn bắt chước mấy
ông lớn lập ra gánh hát, làm bầu gánh cho mấy kép nhí chúng tôi tập hát theo các
vở tuồng được in, bán ra bằng những tập sách nhỏ. Hai anh bắt chước theo ông Kanh Hòa, người đàn hát hay
ở Tân Khánh, đã lập ra đoàn cải lương và họ đang tập tuồng để lưu diễn mà tôi có
biết mấy tài tử như chú Nhùm, vợ chồng Ông Cù cùng ông Síp Pha, và một số người
khác.
Nguyên Thảo,
15/08/2022.
No comments:
Post a Comment