Lộ trình đi mới
nầy có xa thêm đôi chút nhưng tình hình chiến tranh chưa ảnh hưởng đến mấy, bởi
do nó là con đường thô sơ, không được sửa chữa sau thời chiến tranh chống Pháp.
Thực ra, theo dấu vết cũ ngày xưa con đường cũng được Thực dân Pháp làm tương đối
hoàn chỉnh, con đường cũng được đổ cát đá làm nền, đổ đá đỏ lên trên khá rộng.
Nhưng có lẽ trong thời gian chống Pháp đường bị phá hư để cản bước tiến các cuộc
hành quân của quân lính thực dân, rồi trong mùa mưa lại bị xói mòn nhiều hơn.
Sau hòa bình chỉ sửa chữa ở mấy khu có khu dân cư, còn phần băng ruộng qua Khánh
Vân không có sửa mà người ta phải đi trên những bờ ruộng lẫn những khoảng đường
loang lỗ còn lại. Có hai cầu bị phá hư là cầu Vũng, và cầu Suối Cái, cầu bên Suối
Cái nằm dưới suối, sau người dân tìm cách lấy sắt để làm vật dụng hay bán đi. Còn
khung sắt bên Cầu Vũng hãy còn chút ít nằm trên khoảng đường đá đỏ còn sót lại.
Để tiện việc đi tới lui, người dân làm hai cầu khỉ, bằng hai nửa thân cây dầu cưa
đôi nối với nhau. Trên có dàn cây tầm vông để làm tay vịn khi qua cầu. Tất nhiên
chúng tôi phải canh thời gian để đi đến trường cho đúng giờ, vì vậy phải đi sớm
hơn khá nhiều. Vì đi đám đông nên cũng có nhiều thích thú đôi khi quên hết mệt
nhọc, mà lắm lúc lại trở nên vui hơn vì có những chuyện đáng tức cười! Đôi khi
nó cũng trở thành cái khó chịu!
Quý vị đã biết đám
con nít thường năng động, nhất là tuổi đang lớn thì cũng có nhiều cái “dị kỳ”, người
ta nói cái tuổi háo thắng, bồng bột cũng chẳng sai. Đoàn đi đến đâu thì thường
nói chuyện ồn ào, lớn tiếng, nói rất nhiều vấn đề giống như một đàn ong đang bay
vang tiếng khắp đường. Có lẽ vì vậy mà những nhà ở gần đường không thích mấy.
Không biết họ có nói gì không, mà những đứa chăn bò thường hay làm những chuyện
mà đám học trò chúng tôi phải phản ứng! Lần đầu tiên khi đám chúng tôi đang cưỡi
xe lên dốc sõi bìa xóm Khánh Vân thì bị tụi nó “giựt mìn” bằng cách cột dây vào
một trái dưa khô hư để ngang đưòng, chúng tôi không để ý, khi đạp xe ngang qua
thì nó giựt dây nghe một cái rột, trái dừa ngang qua xe thằng Huệ, may là nó đi
dưới bàn đạp nên không hề hấn gì. Vì bận đi học nên đoàn không có phản ứng. Lần
sau nó lấy gai tre đặt dọc theo đường xe đạp lấp đất lại theo kiểu “hầm chông”
may mắn chẳng có xe nào bị lủng. Từ đó trong bọn chúng tôi đã để ý đến những đứa
đó. Theo như Quý vị biết học trò trong quê thì nó cũng vốn xuất thân từ nhà nông
là đa số, tất nhiên chúng có thể cũng đã là “chăn bò, cắt cỏ” thì không lạ gì với
những đứa đó. Thế có hôm chúng lại xách dàn thung bắn tới, nhưng còn ngán như
thế nào đó mà không dám bắn trúng. Như vậy chúng nó muốn tăng lên độ “phục kích”.
Mấy ngày sau khi đi học chúng tôi cũng phải thủ đủ món chơi với tụi nó. Bị bao
vây và đuổi bò tụi nó chạy đi xa, do vậy mà về sau nó không dám nữa, vì đón bò
tất là không thể đi xa với mấy con bò, nếu chúng tôi đuổi mấy con bò xa chừng nào
thì nó lại mệt chừng nấy, không khéo bò ăn lúa hay phá đồ của người ta thì lại
càng khó khăn hơn. Vả lại, chúng tôi cũng có ba con bên Khánh Vân nầy. Đó là chuyện
xung quanh trên đoạn đường Khánh Vân. Có một hôm đi học về qua khoảng ruộng thì
đến bìa xóm Phước Lộc gặp một đoàn dân đi rất đông. Không hiểu chuyện gì, hồi lâu
mới biết là lính ở đâu bên Hóa Nhựt chuyển đồn sang Khánh Vân thì phải, nhưng mấy
ông lính ấy bắt dân chuyển đạn và vật dụng đi thành đoàn rất đông như thế đó để
đi qua vùng mất an ninh. Khi đoàn chấm dứt chúng tôi đứng nhìn theo hồi lâu. Lúc
ấy có vài tiếng súng nổ và đạn bay trúng mấy cây dừa trong xóm, hoảng hồn bọn tôi
vội lên xe cưỡi đi về không còn đứng lóng nhóng nơi đó nữa!
Tình hình chiến sự càng ngày càng tăng tiến lên có hôm có máy bay oanh tạc phía trên Tân Uyên mà ở tại trường học chúng tôi nghe được đạn nổ và trực thăng vần vũ không xa lắm, rồi thỉnh thoảng đại bác ở quận lại bắn đi, ngoài đại bác 105 li, bây giờ có thêm 155 li nữa. Sau mấy ngày có nghe người ta nói đó là cuộc hành quân tiến vào chiến khu D. Nhìn hướng thì rất xa hơn vùng Đất Cuốc rất nhiều. Trên đoạn đường đi học từ Tân Khánh băng qua cánh đồng Phước Lộc đến Khánh Vân, băng thêm đồng ruộng để ra Ngã ba Bình Chánh rồi lên đồi dốc đồi cao nơi có cái nhà sàn cất trên gần đỉnh đồi mà chúng tôi thường gọi nó là “nhà cao cẳng”. Từ đầu dốc nầy đến khi đổ dốc tới ngã ba Bình Hóa là đoạn đường mà chúng tôi e sợ nhất, vì đoạn nầy hay bị “giựt mìn” và đụng độ nhau mặc dù nơi đây có một cái lò chén khá lớn! Và cũng trên đoạn đường nầy chúng tôi thường gặp một ông Giáo già từ trên Tân Uyên xuống dạy ở Trường Bình Chánh. Chúng tôi dở nón chào ông, ông cũng ở nón chào lại giống như phong cách lịch lãm mà chúng tôi đã thấy trong những sách cũ đã dạy hay nói tới. Sự bất ổn nhiều hơn khi báo chí đăng ở Sài Gòn có vụ hai máy bay bỏ bom Dinh Độc Lập làm hư hại khá nhiều, và trên đường đi học thường hay gặp những toán lính hành quân, nhưng bọn học trò chúng tôi cũng không bị làm khó dễ. Có hôm xe hơi của trại cùi Bến Sắn trục trặc giữa đường nước như thế nao đó, mà đã nhờ đến Huệ, Son và tôi chạy vào trong ấy báo tin cho người trong trại biết để có thể ra mà giúp đưa về, may là lúc chúng tôi đi học về nên có thể giúp cho chuyện ấy. Đi đường trên những cánh đồng có nhiều cái thú vị theo từng mùa, như mùa mưa thì phải lo chuẩn bị áo mưa hay những tấm nilông sẵn sàng. Rủi gặp những trận mưa thình lình, một là đụt mưa, hay là phải đội mưa mà đi, cưỡi xe đạp nhanh trong mưa vừa nghe gió, vừa mưa lạnh run phải cố gắng trong ca hát to để cho mình nghe được ấm hơn. Rồi những ngày mùa Thu, có gió heo may, sương lành lạnh, thấm ướt mặt mày, nhìn trên cánh đồng chỉ thấy mờ mờ hình ảnh của người đi chợ hay ra đồng. Có hôm giờ học hơi trễ, khi qua Cầu Vũng Huệ đi trước, rồi Son mới tới tôi. Đi tới giữa cầu. Huệ tự dưng đứng lại. Son hối đi, Huệ nói: “Không được, không được”. Vừa thúc, vừa la: “Gì mà không được! Đâu có gì mà không được”. Huệ trả lời: “Không được, không được, cầu chạy, cầu chạy!”. Tôi và Son cười: “Cầu chạy đâu mà chạy, thôi đi đi”. Nói thế chứ cũng đợi Huệ bình tĩnh lần qua cầu. Quả thật, gió hiu hiu thổi mặt nước lăn tăn gợn sóng chạy về phía sau, nếu mình nhìn xuống kỹ hơn thì giống như cầu chạy thật. Có lẽ Huệ lớn con, cao quá nên nhìn xuống mặt nước thấy hơi sâu, rồi sóng gợn nữa nên có cảm tưởng như vậy; cũng như lúc trước đi đường Tân Long khi các cầu bị đốt cháy, người ta phải lật đà sắt nằm ngang để dễ đi, Huệ cao quá nên nhìn xuống hố thấy sâu quá không dám đi mà phải bò. Cao quá cũng dở, mà lùn như tôi cũng không xong. Ôi mỗi người có một thân thể khác nhau, rồi cái nhìn cũng khác nhau! Rồi cũng trên con đường nầy có mấy lần đi theo vài câu chuyện nữa, sau đó chúng tôi đành từ giã con đường qua vũng, suối nầy để đi con đường mới. Vốn là một lần Phụng bỏ anh em chạy về trước. Khi chúng tôi đi tới thì Phụng vừa đẩy xe vừa khóc, thì ra xe Phụng đã cán gai tre mà nhóm chăn bò gài bẩy ngang đường. Rốt cuộc một đứa phải cưỡi xe vừa dắt xe đạp cho Phụng, và đứa khác phải chở Phụng trên ba-ga ở đàng sau. Rồi lại một lần nữa, không biết Phụng có gây thù hiềm gì với mấy người bạn ở khu Khánh Vân nầy không, mà Lập khi về trước đã cùng với mấy người bạn đón đường Phụng đánh trong khi cả đoàn còn mãi tuốt đàng sau. Khi đoàn tới thì chuyện đã rồi, rốt cuộc tìm cách giải hòa để cho anh em vui vẻ với nhau. Đó là những chuyện trên con đường cũ vì trước đó cả mấy tháng trời lính yểm trợ giữ an ninh để cho đoàn Công binh làm đường mới từ Dĩ An băng qua An Phú, rồi Ngã Ba Nhà Thơ thuộc xã Bình Chuẩn, qua Phước Hải, Hố Đá, Phước Lương để qua phía bên Khánh Vân gần đình. Khi con đường làm tới Khánh Vân, có cầu qua Suối Cái thuận lợi, thì chúng tôi không còn đi đường qua đồng ruộng Phước Lộc mà chỉ qua lò rèn ông Mân thì chúng tôi rẽ qua phải đi ra Gò Sở để ra tới đường mới, nó tiện hơn nhiều. Và từ đó không có chuyện gì xảy ra nữa đối với khu xóm Khánh Vân dù đối với bạn bè hay với nhóm chăn bò, và Huệ cũng chẳng bao giờ nói đến cầu chạy nữa! Khi đoàn làm đường đó làm qua khỏi Khánh Vân chưa bao xa thì đột nhiên dừng lại không làm tiếp, và tình hình chiến sự cũng càng ngày càng sôi động, trong khi đó tình hình chính trị ở Sài Gòn lại có nhiều rắc rối, biến động nhiều hơn. Trong những tháng sau của năm Đệ Ngũ nầy có Thầy Nguyễn Văn Thại về làm Hiệu Trưởng trường và con ông là Nguyễn Thu Thủy vào học chung lớp chúng tôi. Thầy dạy luôn môn Pháp Văn thay thế Thầy Thanh Tuyền, Thầy có một câu mà học trò nào cũng nhớ: “Qui sait, qui sait encore?... Encore?”.
Thầy Mã Sấm và Thầy Nguyễn Thanh Tuyền chụp cùng các chị nữ sinh lớp Đệ Ngũ vào Xuân 1961. |
Và cũng thời
gian nầy chị Út không biết lý do gì chị xin nghỉ luôn hay là chị buồn vì bạn bè
cứ ghẹo chị có cái “xái quăn tóc” ở trước trán mà tụi nó nói đó là cái tướng “sát
phu”. Đúng là “coi bói ra ma” chưa chi mà đã hại người! Từ ngày trường dời lên địa
điểm mới, hôm nào học tới quá trưa chúng tôi tập hợp ăn cơm ở nhà Ông Bà Năm,
ngoại thằng Cẩu nhà bên kia đường với nhà Bà Út, trước nhà có cây dương lớn, rất
đông vui. Son thường dở cơm bằng lá chuối ăn với đường tán, còn Chi ăn ớt còn hơn
là con nhồng. Có hôm biểu diễn, Chi cầm nguyên một chùm ớt hiểm cay khoảng mười
mấy trái cắn một lượt. Cả đám thấy mà lắc đầu thán phục. Thế rồi năm học cũng vào
Hè và mưa lại đến, chúng tôi được nghỉ vài tháng nghỉ ngơi, phụ công việc nhà!
Nguyên Thảo,
18/06/2023.