Wednesday, September 18, 2024

*Quà Cáp!


Người Việt Nam chúng ta rất là tình cảm: Nào là tình làng nghĩa xóm, tình láng giềng, tình thân, dòng họ, tình nghĩa bạn bè, đồng hương…biết bao nhiêu thứ tình gắn bó từng con người trong gia đình, dòng họ, làng xóm của một xã hội nông thôn ngày xa xưa ấy để trở thành một nền văn hóa riêng biệt cho dân tộc trong một đất nước thân yêu! Những tình cảm đó có lẽ thoát thai từ cái nếp sống nông thôn mộc mạc, cũng như mọi con người chung hoàn cảnh sung sướng, cùng cực có nhau. Những năm trúng mùa vụ cùng nhau vui sướng, và những năm thất mùa hay tai ương ập đến thì cùng nhau gian khổ, chia sớt ngọt bùi, giúp nhau để vượt qua giai đoạn khó khăn. Rồi đến những việc quan, hôn tương tế không hề bỏ nhau trong lúc cần thiết. Chính vì cái tình cảm ấy mà đi đâu, hay trở về người ta thường nghĩ đến nhau!

Có những con người vì hoàn cảnh đành phải lê lết phương xa cầu thực, hay để tìm cho mình một phương cách sống, lâu ngày trở về cũng phải nhớ đến bà con, xóm giềng gọi là chút quà lấy thảo với nhau. Hay người trong quê đi thăm người thân, quen biết nơi xa, ít ra cũng có vài món quà mọn như trái cây, bánh trái quê nhà chẳng hạn. Điều ấy có lẽ không bao giờ dứt, vì từ ngày Đồ tôi lớn lên và biết thì luôn vẫn là như vậy. Ấy là một nét đẹp của dân mình! Rồi cũng không quên quà cáp trong ngày Tết, năm mới. Thế nào cũng phải có chút gì đó gọi là mừng nhau trong Một Năm Mới, kèm theo lời chúc vào một năm sáng lạng, hi vọng hơn xưa. Còn mấy đứa con, cháu thì sao nhỉ? Quần áo mới cho các con, chút ít tiền “lì xì” cho con lẫn cháu. Bề nào thì người lớn cũng phải có cho vui. Với những năm “xuôi chèo mát máy” kiếm được ra tiền thì không thành vấn đề, còn những năm eo hẹp thì cả là một vấn đề phải lo! Đó là chuyện lo của những người có công ăn chuyện làm, còn đối với những người nghèo khó, đành ngẫng mặt lên nhìn trời mà than, mặc cho ai nói gì thì nói, con cháu buồn thì cũng phải chịu thôi. Ai bảo tụi bây sanh nhằm vào nhà nghèo, ráng mà chịu khổ vậy!

Trong những thời gian khó khăn, người ta phải xếp hàng đi xin giấy tờ, ai nghèo đành ngồi chờ suốt buổi; ai có quen biết hay cà phê cà pháo thì không cần đến hoặc chẳng phải chờ. Thế là con nghèo cũng ráng mà chịu, nên biết lẽ thì đừng có than van! Đã vậy, mà còn không biết bao nhiêu là chuyện phải tốn tiền, quà cáp. Ôi! Ông Tà xóm trên chết rồi, chiều đám giỗ ông Tá, mai đám cưới Thằng Tạ, mốt đi thăm chú Tả đang nằm bệnh viện. Chú Bảy mời tân gia, Thằng Bay thôi nôi cho nhỏ cháu, rồi các đám đầy tháng, lại sinh nhật tán loạn xà ngầu mà bà con làng xóm nội hai bên nội ngoại đã mệt nhoài, rồi còn bên mình bên vợ, láng giềng hàng xóm nào bỏ được đâu…Nơi nào cũng phải ít nhứt là một chút quà cáp gì đó. Chắc chưa có ai ngồi kết toán lại xem một năm mình có bao nhiêu cái đám ma, bao nhiêu cái đám cưới, rồi đám giỗ, đầy tháng, thôi nôi, tân gia…chưa kể bao nhiêu thứ khác cần phải chi, quà cáp. Đó là chưa nói đến những cái đám giỗ hay cái đám gì khác mà phải tổ chức, phải làm ở nhà! Trong những thứ quà cáp mà “ngu xuẫn” nhứt là cái thứ quà cáp mà không thể không làm được: Đó là đi vay tiền ở ngân hàng mà phải biếu chút nào đó cho người trong ngân hàng. Không biết thời đại bây giờ thế nào thì Đồ Ngông tôi không được biết, chứ một thuở nào đó, đã có những trường hợp người không tiền đi vay ngân hàng để làm ăn đành phải chi ra chút nào đó để biếu hay “làm quà” cho người ở ngân hàng xem như là đền ơn sự giúp đỡ được vay tiền: Thật là oái oăm và thảm thương! Thôi chuyện nầy tới đây thôi, nói nữa thật là nhức đầu và tối tăm mày mặt, không khéo sẽ hết biết đường về!

 

Đồ Ngông,

25/05/2024.

  

*Cuốn Theo Chiều Gió! (3)

 

Đức Phật chỉ ra rằng: Mọi chúng sinh, con người đều có Phật tánh như Ngài đã có, chỉ vì sự ngu si, mê muội (Vô Minh) lúc ban đầu, mà Phật tánh đã mượn đến Tứ Đại để cấu thành thân xác, có thân xác khiến Phật Tánh bị kiềm hãm, gò bó, giới hạn trong thân xác ấy, rồi lại phải đáp ứng các nhu cầu mà thân xác cần thiết, đòi hỏi để chống chọi lại các điều kiện sống ở bên ngoài lẫn giữ mạng sống, nên đành tạo các nghiêp để rồi phải chìm vào luật nhân quả, tái sinh, luân hồi trong sáu đường (lục đạo), ba cõi (tam giới). Muốn thoát ra khỏi chúng sinh cần hiểu rõ về Tứ Thánh Đế, giữ giới để tránh tạo nhân do sát, đạo, dâm, vọng gây ra và thêm giới khác là những chất gây nghiện, hay làm cho tinh thần không còn minh mẫn khiến chúng sinh không thể kiểm soát được mình, mất đi chính kiến, chính tư duy. Sau đó là thực hiện Pháp Lục Độ - Ba La Mật (sáu bước để đưa đến kết quả giải thoát: Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, và Trí Huệ) để cuối cùng Trí Huệ được phát sinh và hành giả tiến vào ngưỡng cửa thành Bậc Giác Ngộ trong Hữu Dư Y Niết Bàn (Niết Bàn khi còn sống); và sau khi chết sẽ nhập vào Vô Dư Y Niết Bàn. Để hỗ trợ cho hành giả thực hiện Lục Độ, Đức Phật có nêu lên 37 phẩm gọi là “Trợ Đạo” để giúp cho người tu dễ dàng đạt kết quả. Ba mươi bảy phẩm ấy là: Tứ Niệm xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần và Bát Chánh Đạo! Không những thế, Đức Phật còn nhắc đến những “Luật” của người tu mà Ngài đã nghĩ ra nhằm giúp người tu được vững chắc trên đường tu hành, nên khi gần Nhập Diệt Ngài trả lời cho chúng Đệ Tử “Phải lấy Giới Luật làm Thầy”! (“Này! Các người phải tự mình thấp đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tự giải thoát! Đừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các người..”).

Với Giáo Pháp ấy, Đức Phật đã ôm bình bát di hành khất thực đến đâu thì thu nhận đệ tử tạo thành Tăng Đoàn và truyền giảng đến đấy. Ngài cùng chúng đệ tử chia nhau đi nhiều phương để quảng bá đến cho nhiều người để họ cùng tu hành hầu đạt đến sự giải thoát khỏi khổ đau cho chính họ trong đời nầy lẫn những đời sau. Tùy theo căn cơ của đại chúng mà tuyên giảng giáo pháp từ dễ đến khó để người nghe thấu hiểu mà hành Đạo. Ngài nhập diệt vào năm 80 tuổi sau hơn 45 năm hành đạo!

Sau khi Đức Phật nhập diệt (theo lịch sử) thì các Kinh điển Ngài truyền bá, rao giảng được kết tập lại trong bốn thời kỳ:

-Kết Tập Lần Thứ Nhất: Bốn tháng sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, do một số phàm Tăng có thái độ bất kính, không giữ giới luật nên Ngài Ma Ha Ca Diếp (Mahakassapa) triệu tập 500 vị Đệ tử A La Hán họp tại hang Tất bát la (Sattlapanna) ở Thành Vương Xá (Rajagaha) dưới sự giúp đỡ của vua A Xà Thế (Ajatasattu) để kết tập, lần kết tập nầy được gọi là Ngũ Bá kết tập. Lần nầy A Nan (Ananda) trùng tuyên lại tạng Kinh; Tôn giả Ưu Ba Ly (Upali) trùng tuyên Tạng Luật; Có thuyết cho rằng Tạng Luận trong lần kết tập nầy không có trùng tuyên.

-Kết Tập lần Thứ Hai: Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn khoảng 100 năm tại thành Tỳ Xá Ly (Vaisali) có Thầy Tỳ Kheo tên Bạt Kỳ chế ra 10 tịnh pháp có tính phóng khoáng khác xưa nên khi Ngài Trưởng Lão Gia Xá (Yassa Kakandakaputta) đi ngang qua bèn câu hội cùng 700 vị danh tăng tài đức trùng tuyên lại giáo pháp của Đức Phật, ngăn ngừa các điều phi pháp xen vào Chánh Đạo. Lần kết tập nầy kéo dài đến 8 tháng. Vì có 700 vị Tăng nên cuộc kết tập nầy được gọi là Thất Bá kết tập, và cũng trong lần nầy, giáo đoàn của Đức Phật có bất đồng, bắt đầu chia làm hai thành: Thượng Tọa Bộ (Theravada) chủ trương Bảo Thủ; và Đại Chúng Bộ (Mahasanghika) do số đông hơn, đa số, chủ trương phóng khoáng, canh tân.

-Kết Tập lần Thứ Ba: Khoảng 235 năm sau Đức Phật nhập diệt, có vua A Dục (Ashoka) tương truyền lúc mới lên ngôi Ngài hung tàn, bạo ngược, chinh chiến, chém giết nhiều nơi; nhưng sau vì lòng hối hận, ăn năn Ngài Quy y theo đạo. Từ đó Ngài rất nhân từ, hộ pháp đắc lực, cho xây nhiều bảo tháp trên đất Ấn Độ để thờ Xá Lợi Phật cùng các trụ đá để đánh dấu các Thánh Tích; chính nhờ sự việc ấy mà các nhà Khoa học về sau có cơ sở để truy tìm con người lịch sử của Đức Phật. Đồng thời nhà vua còn gởi nhiều nhà sư đi khắp nơi để truyền bá đạo giáo, cùng thỉnh Ngài Mục Kiền Liên Đế Tu (Moggaliputta Tissa) làm Thượng Thủ họp cùng 1000 vị Đại Đức, Tỳ Kheo để kết tập giáo pháp, chỉnh đốn Tăng giới, bài trừ những Tu sĩ phạm trai, phá giới, vô kỹ luật kéo dài trong 9 tháng mới xong.

-Kết Tập lần Thứ Tư: Khi vua A Dục qua đời, các triều đại sau không còn sùng tín Đạo Phật như trước và mãi đến thêm 300 năm nữa mới có vua Ca Nị Sắc Ca (Kaniska) lại sùng tín như trước cho xây nhiều tháp đền khắp nơi. Điều đáng chú ý là lần kết tập kinh điển lần thứ tư được bảo trợ ở tại thành Ca Thấp Di La (Kasmir) khoảng 600 năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn. Lần nầy có sự tham dự của 500 vị La Hán; 500 vị Bồ Tát, Tỳ Kheo; 500 vị Học Giả, Cư sĩ. Trong lần Kết Tập nầy, Tam Tạng được khắc vào bảng đồng và thực hiện suốt 12 năm mới xong.

Qua sử thì trong hai lần kết tập đầu tiên, Chư Tăng kết tập theo thể thức hội tụng chứ chưa ghi chép bằng Văn Tự. Mãi đến lần kết tập thứ 3 và thứ 4 thì mới vừa hội tụng lẫn văn tự. Tăng già phía bắc thì ghi chép bằng chữ Phạn (Sankrit) và truyền về phía bắc Ấn qua Nepal, Tây Tạng, Trung Hoa, Mông Cổ, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam; phía nam thì ghi bằng chữ Pali và truyền về Nam Ấn đến Tích lan, Miến Điện, Thái lan, Kampuchia, Lào, Việt Nam. Như vậy Việt Nam tiếp nhận Đạo Phật ở cả hai hướng Nam và Bắc. Nhờ các lần kết tập đó mà kinh điển giáo pháp Đạo Phật còn tồn tại lưu truyền cho đến ngày nay.

Tuy nhiên, theo hệ phái Theravada ghi chép Kinh điển bằng Tiếng Pali thì lần kết tập thứ tư nầy được tổ chức ở xứ Sri Lanka, tại động Alokalena vùng Matulajanapada khoảng thời gian 450 năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, với 1000 bậc Thánh A La Hán do Ngài Đại Trưởng Lão Mahadhammarakkhita làm chủ trì trong thời gian một năm, ghi chép trọn bộ Tam Tạng, Chú giải bằng chữ viết trên lá buông (lá bối?)

Sau đó hệ phái Phật Giáo tiếng Pali nầy còn có vài lần kết tập nữa.

-Kết Tập Lần Thứ Năm: Do dưới thời vua Asoka có gửi Đoàn Chư Tăng do Ngài Trưởng Lão Sona và Ngài Uttara sang truyền giáo vùng Suvannablumi gồm các nước Myanmar, Indonesia, Thái Lan, Kampuchia, Lào…Nhưng do tình hình không ổn định ở các nước, cho nên Kinh sách Phật giáo thường bị đốt phá, mất mát. Vì vậy đến thời vua Mindon của Myanmar, Ngài muốn bảo tồn giáo pháp của Đức Phật nên nhờ Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Jagara làm chủ trì cùng với 2400 Vị Đại Đức xuất sắc kết tập lại Tam Tạng kinh tại Kinh Thành Madalay, và khắc trên bia đá để giữ được lâu dài vào năm 2414 (năm 1871) theo Phật Lịch. Công việc nầy được thực hiện suốt 11 năm ròng rã mới xong.

-Kết Tập Tam Tạng Pali Lần Thứ Sáu: Do trải qua thời gian quá lâu, các Kinh sách Phật Giáo được in ấn, sao chép có nhiều sai sót, không giống như bản chính, vì vậy năm Phật Lịch 2497 (năm 1954), Chính phủ Myanmar thành lập Hội Phật Giáo có tên “Buddhasasanasamiti” để kết tập Tam Tạng Kinh lần thứ sáu tại động nhân tạo Lolasama, Thủ đô Yangon, Myanmar. Lần nầy gồm 2500 vị Đại Đức thông hiểu về Kinh Tạng, giỏi ngôn ngữ Pali cùng đối chiếu nhiều bộ Kinh điển từ các nước Phật giáo để sửa chữa cho đúng. Công việc làm suốt 2 năm mới hoàn tất. Sau đó, Thủ Tướng U-Nu của Chính Phủ Myanmar tổ chức Lễ Khánh Thành kết tập rất long trọng, và mời Nguyên Thủ các quốc gia Phật Giáo, cùng Chư Tăng, tín đồ của 25 nước trên thế giới đến tham dự, đánh dấu 2500 năm Phật Giáo.

Bộ Tam Tạng, Chú Giải trong lần kết tập nầy được xem làm mẫu mực cho các nước theo hệ phái Theravada. Đó là lịch sử của những lần kết tập Kinh điển giáo pháp Đạo Phật trong suốt chiều dài hiện hữu trên thế gian. Còn riêng Phật giáo Đại Thừa được ghi nhận có một lần kết tập nữa tại A Phú Hản vào khoảng 500 năm sau Đức Phật nhập diệt để kết tập lại bốn Bộ Kinh A Hàm (Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A Hàm) tương đương với Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tương Ưng Bộ Kinh, Tăng Chi Bộ Kinh của Hệ phái Tiếng Pali hay phái Nguyên Thủy Theravada.

 

Nguyên Thảo,

19/09/2024.