Rồi một hôm, vào
chập tối Ba Anh đến nhà rủ Trọng đánh cờ tướng chơi, nhưng Trọng không hứng thú,
nên chỉ ngồi nói chuyện thôi. Lúc trước, có lần Trọng nói với tôi là Ba Anh thích
đánh cờ với nó lắm, vì khi đi hái cải “spout” trên núi vào lúc ăn trưa hai đứa
thường vừa ăn vừa đánh cờ cho tới giờ làm thì thôi. Ba Anh đánh không thắng được,
do đó Ba Anh thường muốn đánh với nó là vì vậy. Trong lúc ngồi nói chuyện chơi,
Trọng hỏi Ba Anh lúc nầy làm việc gì, Ba Anh cho biết đi tỉa táo trên núi, nghe
vậy tôi liền hỏi là ở chỗ đó có cần người không cho tôi đi theo. Ba Anh cho biết
là khá đông rồi, không biết là mấy đứa lãnh công việc có cần nữa không, nếu muốn
thì mai Ba Anh sẽ chở tôi đi theo, nếu có thì làm, không thì coi như đi chơi thôi!
Thế là tôi sửa soạn cơm nước sáng đi theo Ba Anh. Đường đi khá xa, đi khoảng một
tiếng đồng hồ mới đến nơi. Mọi người sửa soạn vào công việc. Các xe đậu bên cạnh
vườn táo, ở một khoảng đất trống. Ba Anh đi đến gặp mấy người, xong rồi lại nói
với tôi là tụi nó không muốn nhận thêm người nữa. Như vậy là tôi không được vào
làm mà phải ngồi chơi ở trong xe suốt mấy tiếng đồng hồ, đến khi họ nghỉ nửa buổi
thì Ba Anh mới đến với tôi. Xong rồi tới ăn trưa, ngoài những giờ đó, tôi chỉ
quanh quẩn bên chiếc xe, hay ngồi ve vẩy những lá thông rơi rụng trên mặt đất. Đây
là lần thứ nhì tôi phải “lang thang” trong chuyến xin đi làm, thật là vô vị. Tình
trạng ấy kéo dài cho đến khi cả đám hoàn tất được một ngày làm. Trên đường về,
tôi có nhiều suy tư! Quả thật kiếm việc là không phải dễ! Vào lúc ăn cơm tối,
Trọng nói: “Thôi! Ráng đi mầy. Mai mốt vào nắng ấm thì thiếu gì công việc, không
có hãng xưởng thì công việc trên núi cũng sẽ có nhiều”. Mấy hôm sau, tôi lại gặp
Kim, rồi hai đứa rủ nhau đi đến hãng làm mâm xe ROH và hãng làm máy giặt
Kelnivator gần đó xin việc, nhưng họ nói trong khoảng thời gian nầy chưa có việc.
Chúng tôi đành lủi thủi đi về! Theo lời những người đi trước thì với số tuổi như
chúng tôi khó mà xin được việc ở hãng vì hãng cần những người tuổi trẻ, có sức để
làm lâu dài, nên những người qua trước thường đi vào các nông trại do nơi chỗ
quen biết, giới thiệu nhau và số người làm cũng giới hạn nên cũng là điều khó
cho các người mới tới; vả lại, trong thời gian nầy công việc ở nơi các vùng nông
trại chưa có nhiều!
Một hôm, Trọng và
chị Yến đi mua thực phẩm từ dưới tiệm của chị Bảo Liên về cho hay: “A Thạch à!
Hồi nãy tao với Bà Yến mua đồ ở dưới tiệm chị Bảo Liên có gặp con Phượng, nó hỏi
tao có việc làm nào không, giới thiệu cho chồng nó là Thằng Đức vừa được nó bảo
lãnh từ Mỹ qua để đi làm với. Tao nói tao đã đi làm hãng Holden rồi, thôi thì
tao sẽ nói thằng em tao sẽ đi xin việc làm với nó, mầy có tính đi không”? Tôi
nghe đến đó thì cũng mừng, liền đồng ý, Trọng liền điện thoại nói chuyện với Phượng,
Phượng nói để về bàn chuyện với anh Đức xem, rồi trả lời sau.
Sau đó hai ngày,
tôi gặp Đức lẫn Xoan là bạn của Đức cùng ở chung một chung cư với nhau để bàn
chuyện đi xin việc ở trên núi. Xoan có xe tương đối vững chắc sẽ lái đưa chúng
tôi đi. Xoan thì lái xe, nhưng không biết đường phía bên sẽ đi, Đức thì Tiếng
Anh giỏi hơn hai đứa chúng tôi, nhưng vừa từ bên Mỹ qua chẳng bao lâu, còn tôi
thì không biết đường nhưng cũng may là tôi có thể coi được bản đồ. Do vậy Trọng
chỉ cho tôi phương hướng, địa điểm trên bản đồ để tôi có thể nhìn theo đó mà tìm
đường để đi. Đường chúng tôi đi là theo đường lớn lên núi và đi về phía Melbourne
của Tiểu bang Victoria. Đường đi nầy Xoan có biết hơn nửa đoạn đường, như vậy cũng
tốt, do đó chúng tôi chỉ chật vật với một khoảng đoạn đường không dài lắm của
chuyến đi. Xoan lái xe khi gần hết khúc đường mà Xoan biết thì cho tôi hay để tôi
nhìn trên bản đồ đoạn đường tiếp theo. Cứ theo con đường và nhìn hai bên thấy nơi
nào có vườn cây là chúng tôi lủi vào tìm nhà hay chủ để hỏi xin việc làm. Nếu họ
nói không có thì chúng tôi lại lái xe đi tiếp. Đi nhiều chỗ nhưng vẫn chưa có
chỗ nào có việc làm. Đường trên núi quanh co, lên xuống mới nhìn thì thấy cũng
ghê nhưng lúc trước thì tôi cũng có đi với Trọng, anh Nam, cô Hoa cùng anh chị
Sáu Khánh rồi nên cũng yên lòng. Tất nhiên là Xoan đã quen với loại đường nầy,
vì Xoan đã từng đi hái dâu tây ở nơi khác rồi, riêng Đức thì có chút lo, nhưng
với ba đứa thì nổi vui trong câu chuyện lấn áp hết cả. Chúng tôi đi đến nhiều nông
trại nhưng chỗ thì đã có người, chỗ thì việc chưa tới nên không biết nhóm cũ sẽ
có làm hay không, vì vậy họ chỉ ghi số điện thoại của chúng tôi thôi. Cuối cùng
chúng tôi trên đường đi về qua ngã ba mà trên bản đồ có tên là Lenswood thì kế
bên đường có ông Tây đang tỉa táo ở bên lề. Chúng tôi ráp vào xin việc. Ông ta
ghẹo chúng tôi là “Ăn cơm” bằng tiếng Việt. Biết là chắc có người Việt làm cho ông
ta nên ông biết chút ít tiếng Việt. Sau khi nói chuyện hồi lâu, ông bảo ông có
vài người Việt đã làm cho ông năm trước, năm nay họ sẽ trở lại; nhưng ông sẽ giới
thiệu bạn của ông ấy, rồi ông viết địa chỉ, số điện thoại cùng chỉ đường. Xoan
quay xe trở lại con đường vừa chạy qua, chúng tôi lần theo sự chỉ dẫn để lên nhà
của ông Campbell. Gặp con ông ấy rồi nó cho chúng tôi gặp ông. Ông hẹn hai ngày
sau lên làm và giờ giấc làm như thế nào! Như vậy là chúng tôi được an lòng để lái
xe về nhà!
Đến ngày đi làm,
chúng tôi phải thức dậy sớm để lo chuyện cơm nước cùng với một tiếng đồng hồ
cho việc di chuyển đi đường vì khoảng cách chừng 50 chục cây số đường núi. Trên
đường đi Xoan có nói, lái xe trên nầy vừa lên xuống, quanh qua ẹo lại nghe “đã”
tay quá. Nghe như vậy tôi giật mình nói với Xoan: “Coi chừng, chính vì “đã tay”
đó mà có thể nguy hiểm nhe Xoan”! Tôi vừa nói nửa chơi, nửa thiệt trong cái cười
nhẹ, khiến Đức cũng cười theo. Lên đến nơi thì gặp ông chủ Campbell đứng ngoài
cửa nhà kho đón chúng tôi. Xong ông dẫn ra ngoài vườn với những cây táo với nhiều
chùm trái nhỏ và ông chỉ cách tỉa như thế nào. Điều ngộ là cây trái bên xứ mình
trái đậu không nhiều, nên thường người ta không cần tỉa trái; còn ở bên nây có
lẽ do khí hậu vào Xuân mát mẻ nên trái đậu khá nhiều vì vậy mà cần phải lặt bỏ
bớt trái xấu, cho chúng thưa ra thì trái mới có thể lớn, tốt đúng với kích cỡ để
bán mới có giá. Hành động lặt bỏ bớt ấy gọi là “tỉa”. Tất nhiên người nghe tiếng
Anh và giải thích lại phải là Đức, còn tôi và Xoan thì cố nghe được bao nhiêu
thì bao và chỉ để là kiểm chứng cùng nhau nghe có đúng với lời chỉ dẫn của ông
chủ Campbell không thôi. Lúc đầu làm thì công việc hãy còn lọng cọng, chậm chạp.
Sau chừng khoảng hai tiếng đồng hồ thì tay cũng đã nhuần nhuyễn nên công việc
không còn gì là khó khăn. Ông chủ ra nhìn, không thấy ông nói gì thì chúng tôi
biết là công việc mình làm được tương đối là được. Sau mười lăm phút ăn sáng thì
công việc được tiếp tục cho đến 12 giờ tới giờ ăn trưa. Giờ ăn được nửa tiếng,
rồi chúng tôi phải tiếp tục cho đến 4 giờ rưởi chiều thì chấm dứt một ngày. Khi
về ông Campbell cho biết ngày mai vẫn tiếp tục ở khu vực của ngày nay.
Về đến nhà thay đồ,
tắm rửa, ăn cơm, tôi nghe có vẽ uể oải. Trong lúc cùng nhau ngồi xem truyền hình,
Trọng có hỏi tôi làm như thế nào? Tôi kể công việc không khó, nhưng mới làm nên
có vẽ khiến cho mình hơi mệt. Rồi Trọng kể lại chuyện gặp Phượng, vợ của Đức, nói
chuyện chúng tôi đi xin việc làm “tỉa táo” mà lại đã có kinh nghiệm làm trên
Renmark thì thật là “dốt” thế mà ông chủ lại nhận mấy ông ấy làm, chắc là ông
chủ đó cần người vì ở Renmark chỉ có hái cam chứ làm gì có “tỉa táo”! Trọng kể
lại, rồi chúng tôi cùng nhau cười, nhưng chuyện chính là làm sao chúng tôi có
việc làm là tốt rồi. So với những ngày đi hái cải với Trọng thì công việc mới nầy
vẫn là nhẹ nhàng hơn nhiều “chỉ cần lặt bỏ bớt trái” thì đâu có gì là khó, chỉ điều
là vác cái thang đi nghiêng theo dốc đồi sao cho khéo không phải trợt té thôi!
Với công việc nầy chúng tôi còn thoải mái trò chuyện với nhau mà không phải biết
nhiều Tiếng Anh. Nghe tới đó Trọng nhắc nhở: “Làm mà tụi bây nói chuyện nhiều quá,
coi chừng ông chủ cho nghỉ cả đám mặc dù tụi bây vẫn làm đều đặn, vì Tây nó nghĩ
khi nói chuyện thì tay ngưng làm giống như tụi nó vậy”! Hồi lâu, Trọng vụt nhớ
chuyện gì rồi nó đi vào trong, khi ra nó nói: “Bữa nay mầy có thư nè”! Nó đưa
thư thì ra đó là thư của vợ tôi. Trong thời gian gần đây, ông Nhà Nước Việt Nam
đã mở cửa duyệt xét hồ sơ bảo lãnh trở lại sau 6 tháng đình chỉ vì chuyện Cộng Đồng
người Việt biểu tình chống ông Ngoại Trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch lúc ông đến
Úc vào ngày 16/04/1984 tức là sau khi tôi đến Úc một ngày. Nhưng chuyện hồ sơ
chưa phải là chuyện mà tôi phải lo nhiều vì hồ sơ của tôi chỉ là quá mới, dù có
mở hay không mở thì hồ sơ ấy còn lâu mới tới phiên duyệt xét, mặc dù tôi rất nôn
nóng bảo lãnh được cho gia đình. Chuyện cấp thiết là tôi ráng làm sao có tiền để
gởi về cho gia đình để ổn định đời sống trong muôn vàn khó khăn của tình trạng
hiện nay lẫn sự chèn ép của chính quyền khi tôi đã là “thành phần phản quốc vượt
biên”! Sau bao năm làm việc dưới chế độ tôi không còn lạ gì về cái quan điểm của
họ! Chính vì những cái nhìn thấy ấy mà tôi đã chọn con đường “đào thoát” để
mong tìm một tương lai tươi sáng hơn cho đàn con sau nầy. Kéo chúng ra khỏi “vũng
bùn lý lịch ba đời” là trách nhiệm của tôi khi đi vượt biên! Chuyện “vượt biên”
đã hoàn tất, bây giờ tôi được định cư trên xứ Úc do “tình thương” của Chính Phủ
cũng như người dân. Đây là quê hương thứ hai của tôi và nhiều người cùng hoàn cảnh.
Cái trách nhiệm nặng nề với tôi nhất trong giai đoạn nầy là cố gắng làm để gởi
về cho gia đình vượt qua cơn ngặt nghèo, túng bấn do hoàn cảnh xã hội hiện tại
cũng như sự “bị giới hạn” nhiều mặt vì “thành phần vượt biên” của tôi!
Cứ mỗi lần nhận được
thư của gia đình là mỗi lần tôi lại ứa nước mắt thật nhiều: Một phần tôi là con
người nhạy cảm cũng có, một phần tôi lại nghĩ đến sự cực khổ của gia đình, vợ
con mà họ phải hứng chịu trong lúc tôi chưa làm được gì để đem họ thoát ra ngoài
vòng “kiềm tỏa” của chế độ đang tiến hành cải tạo xã hội theo kiểu cách mới của
người Cộng Sản. Ngày xưa tôi có biết rất nhiều người học cao họ thường có đầu óc,
cảm tình theo chủ nghĩa Cộng Sản, nhưng sau ngày “Giải Phóng” họ lại “bật ngữa”
ra vì nó không như là họ “tưởng tượng” về những gì tốt đẹp khi họ đã đọc trong
lý thuyết của ông Marx. Cũng như tôi đã được nghe nhiều người kể về những nhà
trí thức từ nước ngoài muốn về giúp cho đất nước từ những thời gian xa trước
kia; nhưng khi về họ không được trọng dụng, đôi khi còn bị nghi ngờ “giống như là tình
báo nước ngoài cài vào” để phá hoại sự nghiệp “cách mạng” của chế độ! Từ đó, tôi mới hiểu
vì sao cái “quan điểm” của chế độ mới rất quyết liệt với những người không phải
là của họ, quan điểm ấy được thể hiện qua “ba đời” của gia tộc. Chính vì vậy mà
tôi phải chọn con đường gian nan, liều sống chết để cứu lấy tương lai của các
con tôi!
Nguyên Thảo,
20/11/2010.
No comments:
Post a Comment