Thursday, January 28, 2021

*Quê Người! (39)


Tôi với anh Sơn đồng lứa mà lại tính tình tương đối hợp, nên trong những câu chuyện có khá nhiều thích thú. Vì thân nhân đa số ở bên Mỹ, do vậy mà anh được nhiều băng nhạc để thay đổi mở hát trên đường đi làm hay về, khiến chỉ vài ngày mà tôi đã “ghiền” nghe băng nhạc của ca sĩ Thanh Tuyền. Không biết vì kỹ thuật thu âm hay tiếng ca cô Thanh Tuyền thay đổi, mà trong băng nầy tiếng ca cô ấm hơn, không lãnh lót như xưa làm cho tôi nghe có nhiều truyền cảm, nhất là bản gì đó có câu: “Từ anh xa vắng em không trang điểm đợi chờ…..” và “Tình chàng ý thiếp ai buồn hơn ai” đã đưa tôi vào những bồi hồi, nghĩ về hoàn cảnh của mình với vợ con, rồi thấy lòng buồn vô hạn. Hay cái bài “Trộm nhìn nhau” của Trầm Tử Thiêng kéo tôi về cái khung cảnh thơ mộng tình yêu của những người “lo lắng” cho nhau. Đến đỗi tôi phải mượn cuồn băng ấy của anh về sang lại cho riêng mình và từng đêm bắt nghe trước khi ngủ, có đêm nghĩ đến thân phận mình mà rơi nhiều nước mắt, nhưng lại thích nghe để lòng mình tuôn trào các cảm xúc. Thế rồi cũng không lâu anh Sơn có công việc khác lại từ giã chúng tôi. Xoan lại nhờ đến anh Tế. Anh Tế làm ở hãng máy giặt nay nhân dịp nghĩ hãng vào dịp holiday cuối năm anh được Xoan nhờ đưa đi và cùng làm. Anh làm để kiếm thêm thu nhập cùng giúp tôi và Xoan. Thế rồi mấy ngày sau Thành cũng được nghỉ holiday ở hãng, gia nhập chung với bọn tôi. Bốn người cứ làm đều đặn, chắc cũng không còn bao lâu nữa sẽ hết công việc “đi tỉa táo” nầy! Anh Tế lớn tuổi hơn tôi, người hiền lành, anh qua hơi sớm nên dễ xin việc làm hơn vì trong những thời gian trước, như có lần tôi kể lại lời của một anh bạn khi đến trại tiếp cư thăm Bác Vỹ, Bác Phương kể, người Úc thương mến người tị nạn Việt Nam lắm nên các hãng xưởng có khi đến tuyển người khi còn ở trong trại. Nhưng về sau nầy không còn như thế nữa mà lắm lúc họ đưa hai ngón tay lên để chửi mình. Đoàn chúng tôi từ Mã Lai qua đúng vào ngay tình huống ấy, khi mà ông Giáo Sư Sử Học Blainey đang khuấy động phong trào “Bài người Châu Á (Asian out)”. Dù vậy, chúng tôi cũng phải “chai mặt” ra mà hứng chịu tất cả những gì có thể xảy ra. Chính vì điều đó tôi mới hiểu tại sao những người Hoa trên đất Việt Nam, mà tôi đã biết: Khi họ buôn bán để kiếm ăn, thường họ luôn cười, vui vẻ dù mình gắt gỏng hay chọc ghẹo họ, họ không hề tỏ vẽ giận dữ, hoặc hờn dỗi. Thì ra họ tha phương chỉ để tìm một mảnh đất dung thân! Nhưng đối với người mình không là như thế. Những gì người ta không vừa ý, không thích thì sự giận dữ, hùng hổ, hành hung mà quên đi thân phận ta đang “ăn nhờ ở đậu” trên xứ người! Đó là cái tâm lý, yếu tố khiến người bản xứ không hài lòng với những gì mà người mình đã làm nên! Tất nhiên điều đó không phải ảnh hưởng đến một hay vài người mà nó được đánh giá trên một sắc tộc, nhưng mình cũng phải đành chịu thôi vì trong vấn đề “người vượt biên” rất là phức tạp. Bạn cứ thử nghĩ người đi vượt biên dù trên mục đích nào thì người ta đều đối diện với cái chết trên biển cả, trên đường đi; đối diện với bị bắt, tù đày, hành hạ; người ta phải liều. Đã liều mà không sợ chết nữa thì bạn nghĩ thử xem cái gì mà họ không dám làm! Tuy vậy, khi đến định cư trên đất nước thứ ba thì tính khí ấy cũng được nguôi ngoai, trầm lắng để sống một cuộc sống cho chính mình. Sự hung hãn cũng dần bớt đi theo kiểu cách “giàu có sinh lễ nghĩa” chứ không còn “bần cùng sinh đạo tặc” như trong thời còn gian nan!

Cái hoàn cảnh kinh tế khiến cho con người thay đổi tâm tính, đạo đức hay hoang dại, sống với bản năng sinh tồn. Sự tạo nên những nét tốt đẹp của một nền văn hóa, trong đó con người cư xử với nhau đầy bản chất nhân văn, tôn trọng lẫn nhau không phải xây dựng được một ngày một buổi, có khi hằng thế kỷ hoặc ngàn năm mới được như xã hội Việt Nam trước kia. Nền đạo đức Nho Giáo, tôn sư trọng đạo, triết lý gia tiên lẫn thấm nhuần đạo lý từ Phật Giáo được hun đúc suốt chiều dài lịch sử, tạo nên cung cách gia đình, dòng tộc, làng xóm, láng giềng, dân tộc đặc trưng của Việt Nam. Nhưng chỉ trong thời gian ngắn tất cả đều tan biến, sự “vong bản” đã thành hình: Không ai còn tin ai nữa ngay cả con cái trong nhà. Chỉ cần nói bậy một chút thôi thì nguời ta có thể đi tù, hay mất mạng! Trong hoàn cảnh nghèo đói nhanh chóng ấy nạn ăn cắp vặt lén lút hay công khai đầy khắp trong xã hội. Người ta cướp giựt dọc đường, cướp của giết người chỉ để được sinh tồn. Người ta đi buôn lậu khắp nơi. Nói chung gần như cái gì cũng gian dối, lừa đảo, láo khoét, lo lót; đòi hối lộ phổ biến, tính tình không ngay thẳng tràn đầy trong cuộc sống. Nề nếp cũ không còn nữa. Một cuộc cách mạng tận gốc rễ đã thành hình! Tôi nhìn lại thân phận mình mà cảm thấy buồn và lo âu cho các con tôi. Tương lai của chúng sẽ về đâu? Rồi mấy đứa cháu sẽ thế nào? Tôi thấy màn đen, u ám ở trước mặt trên con đường mai sau, mặc dù tôi cố tìm lấy cái “lạc quan” mà người ta thường hô hào để mọi người tin tưởng vào tương lai!

Chiều về, Trọng cho tôi hay là Chính phủ Việt Nam đã ngưng lại công việc xét hồ sơ bảo lãnh nữa rồi vì báo bữa nay có đăng, nói xong Trọng đưa cho tôi tờ báo. Khi Thành tắm, tôi xem qua bản tin đợi tới phiên mình. Trong lúc ăn cơm, vấn đề nầy được bàn qua. Chuyện ấy không lạ vì trước ngày tôi đặt chân lên đất Úc thì Chính phủ Việt Nam vẫn cứu xét những hồ sơ bảo lãnh cho thân nhân đi đoàn tụ ở nước ngoài, trong đó ở quê tôi có gia đình của ông Yếu làm lò chén tất cả gia đình được đi một lần cả thảy là 27 người; nhưng khi tôi vừa đến Úc vì chuyện biểu tình chống đối mà ông Ngoại Trưởng Nguyễn Cơ Thạch đình chỉ với lý do thái độ chống đối đó. Thế là sau sáu tháng ngưng trệ gọi là hình phạt, Chính Phủ Việt Nam cho cứu xét lại. Chưa được bao lâu thì một ngày trên báo đăng tin: Có cán bộ đi mua sắm ở khu Thương mại ngoài khu Cabramatta trên Sydney bị phát hiện, người ta dàn cảnh đánh. Lúc ấy chúng tôi ngờ ngờ sẽ có một màn đình chỉ cứu xét hồ sơ bảo lãnh tiếp tục. Đến nay điều ấy đã xảy ra, nhưng hồ sơ của chúng tôi quá mới thì chuyện dù không xảy ra thì hồ sơ cũng còn lâu mới được giải quyết. Thôi thì chuyện tới đâu hay tới đó!

Lúc chúng tôi quay quần xem truyền hình cùng để bé Thiện nằm chơi nơi phòng khách thì vợ chồng ông Hoài, Bà Sa đến, rồi cùng nhau chuyện trò. Đang lúc đó thì có tiếng chuông cửa vang lên, tôi ra mở cửa lại là anh Tế tới cho tôi hay chuyện đi ngày mai. Vừa đến cửa phòng khách thì anh Tế nói là anh cần về liền nên nói với tôi vắn tắt vấn đề. Khi anh Tế đi rồi, bà Sa mới hỏi tôi: “Đó có phải là ông Tế không”? Tôi nói: “Đúng rồi, nhưng sao bà biết”? Bà Sa cười: “Tôi biết ông ấy lâu lắm rồi, từ hồi còn ở Cần Thơ lận”! Rồi bà kể sơ chuyện bà biết ông Tế như thế nào: Ông Tế ngày xưa là một Biện lý ở Tòa án Cần Thơ, trong một chuyện tình cờ bà được biết ông. Bà Sa chỉ kể như vậy, và tôi cũng nghe như vậy thôi chứ không hỏi thêm gì nữa. Tức là tôi đã biết được ông Tế ngày trước ở Việt Nam là một Luật Sư làm ở Tòa án Cần Thơ.

Sáng hôm sau đúng giờ hẹn, anh Tế cùng Xoan đến rước tôi và Thành. Đi đường chúng tôi vẫn trò chuyện vui vẻ, nhưng tôi không hề nhắc đến chuyện của bà Sa nói về anh Tế tối qua. Khi tiến vào công việc làm, anh Tế có hỏi tôi: “Bà hồi hôm có phải là bà Sa không”? Tôi đáp: “Đúng rồi, mà anh có quen với bả hả”? Anh Tế cười: “Tôi quen với bả lâu lắm rồi, không ngờ lại thấy bả ở đây”! Tôi đùa với anh: “Vậy là hai người là cố nhân sao”? Rồi anh kể lại chuyện biết bà Sa trong một phiên tòa ở Cần Thơ năm nào đó, với lý do rõ ràng mà anh Tế là người thụ lý. Anh Tế kể thì tôi nghe, nhưng từ đó tôi cũng không hề hỏi hay kể lại cho bà Sa nghe vì chuyện ấy là chuyện riêng tư và nó cũng chẳng hay ho gì, cho nên tôi đành nín thinh luôn!

Từ trường hợp của anh Tế tôi ngẫm nghĩ lại chuyện đời: Không ngờ nhiều người trí thức, nhân tài của quê hương mình đã bị mai một tài năng trên xứ người chỉ vì không đủ ngôn ngữ để trở lại cuộc đời với những tài năng tiềm tàng. Họ phải thầm lặng với những công việc của con người bình thường. Bao nhiêu năm dày công học hành, tôi luyện tài năng mà không cống hiến gì được cho đất nước bởi cái “quan điểm”. Bài ca “quê hương ruồng bỏ” trở nên phổ quát hơn bao giờ hết! Những đoàn người lang thang, tha phương đi tìm đất sống. Quả là ngộ nghĩnh cho một đất nước khi mà người dân “đội bom để bám đất, bám làng trong thời chiến tranh ác liệt, thế mà lại phải bỏ nước ra đi khi đất nước được thanh bình và thống nhất”. Có ai đặt nên câu hỏi: “Vì sao”? Và có ai giải đáp được dùm chưa? Và có chế độ nào giống như thế chăng? Đúng là một sự nghịch lý chưa từng có trong lịch sử của loài người và dân tộc!

Chiều về, Trọng cho tôi và Thành hay là tối nay anh Lâm sẽ đến để bàn về chuyện Bảo hiểm nhân thọ AMP và nếu mình thích thì tiến hành làm hồ sơ gia nhập luôn. Sau bữa cơm chúng tôi quay quần ngồi xem phim video trên truyền hình đợi chờ anh Lâm tới. Những hồi chuông cửa báo để rồi chúng tôi cùng anh Lâm phải xuống nhà dưới nơi ăn cơm bàn chuyện, vì nơi đó mới có chiếc bàn lớn đủ chỗ cho việc bày biện các giấy tờ hồ sơ. Trước tiên anh Lâm cho chúng tôi biết những thông tin khái quát về bảo hiểm nhân thọ sẽ như thế nào, rồi những điều kiện gia nhập cũng như các điều mình được hưởng. Sau khi hiểu rõ, tôi, Trọng, Thành và chị Yến hội ý xem nên hay không tham gia hay cần để suy nghĩ thêm vài ngày. Cuối cùng, chúng tôi quyết định làm đơn tham gia ngay, nhất là tôi với Trọng vì chúng tôi còn có vợ con ở bên nhà và không biết chuyện ngày mai ra sao?

Sau khi làm các thủ tục xong xuôi, chúng tôi cùng anh Lâm ngồi tâm tình cùng nhau và nói chuyện đời cũng như chuyện vượt biên. Anh Lâm cũng cho biết anh là một Luật Sư trước kia, đến đây cách nay nhiều năm anh từng ở Úc 2 năm, xong sang Mỹ ở 2 năm, rồi mới trở về Úc cũng cả 2 năm, nhưng chưa tìm được người “đồng hành” để lo cho anh. Anh nói “khó kiếm quá”! Đến khoảng gần 10 giờ anh từ giã chúng tôi để ra về. Xong việc gia nhập AMP rồi, trong lòng tôi cảm thấy tương đối nhẹ nhỏm hơn với vợ con, chắc có lẽ là do vấn đề tâm lý hơn, khi tôi nghĩ về chuyện tương lai mình có mệnh hệ gì thì vợ con cũng có được một phần nào đó “an ủi” trong cuộc đời!

Loay hoay thì công việc “tỉa táo” cũng hết. Thành và anh Tế cũng sắp trở lại hãng để làm sau kỳ nghỉ “holiday”. Tôi đang suy nghĩ để đi tìm việc khác, thì một hôm Bob đến chơi và cho tôi hay Báu hôm nghỉ hè đi làm thêm ở một hãng đúc nọ, bây giờ Báu nghỉ để trở lại làm ở hãng xe Holden nên chỗ ấy trống, nếu tôi muốn làm thì Bob sẽ giới thiệu cho tôi. Tôi đồng ý. Đêm hôm sau Bob đem đến cho tôi một phong thư trong có giấy giới thiệu của Bob và kêu tôi đến hãng ấy và đưa thư của Bob cho chủ để xin việc làm.

Hãng không xa lắm nên tôi lái xe Morris lạch cạch của mình đến đó xin. Qua lá thư của Bob tôi được nhận vào làm và bắt đầu vào hai ngày sau. Đó là ngày đầu tháng giêng năm 1985 với số tiền cho biết trước là 316 đô Úc một tuần và sẽ trừ thuế là 66 đô, tức lương tôi còn được lãnh đúng là 250 đô.

 

Nguyên Thảo,

27/01/2021.

 

 

 

 

Monday, January 25, 2021

*Đúc Tượng!

 

Nhân đọc bài trên mạng

Thấy kể chuyện nghệ nhân

Bỏ ra nhiều công sức

Đúc tượng để kiếm tiền!

 

Công lao rất nhiều ngày

Việc lại làm bằng tay

Ngày này qua tháng nọ

Sao chẳng thấy phát tài!

 

Phải chi họ có phép

Đúc tượng trở nên người

Hay biến người thành tượng

Thì quả thật là hay!

 

Người như tượng dễ sai

Lại dễ đem trưng bày

Đặt đâu ngồi ngay đấy

Không mang tiếng “Tay sai”!

 

Tượng thành người mới quý

Dù chẳng có linh hồn

Nhưng điều đi không khó

Mọi sự dễ hanh thông!

 

Đồ Ngông,

26/01/2021.

 

 

 

 


Saturday, January 23, 2021

*Sang Đức. (7)

 

Hồi trước, tôi thường nghe câu “Cứu cánh biện minh cho phương tiện” là “lấy cái mục đích, thành quả cuối cùng để chứng minh cho những điều mà người ta thực hiện trên con đường đạt đến mục đích”. Có người cho rằng “Trong lúc thực hiện có thể sử dụng những phương cách, biện pháp gay gắt, độc đoán, tàn nhẫn để đạt được mục đích tốt đẹp sau cùng thì người ta có thể áp dụng”. Tôi không hiểu là trên thế giới thực tế nầy đã có nơi, hay chế độ nào áp dụng cách ấy chưa, nhưng nghĩ ra nếu dùng cách đó thì sẽ có nhiều tai họa không những cho đối tượng mà cũng cho chính mình nữa. Một sự tranh đấu lâu dài sẽ diễn ra và những sự đàn áp, áp bức không cùng, triền miên… thì dù cho cứu cánh ấy có tốt đẹp như thế nào đi nữa cũng không xóa hết những hận thù! Không như trong Đạo Phật có câu: “Lấy ân báo oán oán tiêu tan, lấy oán báo oán oán chập chùng”, chân lý ấy luôn là một điều chân lý!

Theo như ở trên tôi có kể anh bạn trẻ người Kampuchia kể lại lời ba nó nhận xét về chế độ Pol Pot, tôi chỉ nghĩ về cái “bình dân của một người dân thù hận” chứ theo tôi hiểu thì khi Karl Marx và Engels “đẻ” ra Chủ Nghĩa Cộng Sản là nhằm đem lại một chế độ tốt đẹp cho loài người trong tương lai; mà ở đó không có người “bốc lột, áp bức người”. Tất cả đều được sống chung trong một Thế Giới Đại Đồng và đều được hưởng mọi nhu cầu vật chất như nhau hay đúng hơn là “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” không phân biệt giới tính, màu da, sắc tộc, quốc gia. Nhưng với “búa” tượng trưng cho giai cấp sản xuất trong nhà máy, hãng xưởng; và “liềm” tượng trưng cho giai cấp nông dân sản xuất các loại nông phẩm cần thiết cung ứng cho đời sống ấm no của con người, chứ không là những dụng cụ để áp bức, bắt người dân phải thi hành mệnh lệnh hay đường lối mà chính phủ chủ trương. Tuy nhiên, qua thời gian tôi cũng thu lượm được nhiều nhận xét, ý kiến, suy nghĩ của nhiều người lẫn bạn bè trong khi giải thích về sự thực hiện lý tưởng ấy gặp nhiều trở ngại mà không đạt được kết quả như người ta mong muốn. Mặc dù chỉ là những ý nghĩ thô thiển, có nhiều ngộ nghĩnh, nhưng chúng cũng phản ảnh lên được phần nào cái chướng ngại giới hạn cho sự thành công!

Lý tưởng nào cũng vậy, lý tưởng vẫn là lý tưởng. Lý tưởng chẳng qua là cái mà người ta suy nghĩ, dự trù, nó nằm trên lý thuyết, tất khi thực hiện trên thực tế sẽ có rất nhiều trở ngại mà người ta phải sửa đổi, rút kinh nghiệm từng lúc hay từng bước để vượt qua. Nhất là lý tưởng từ một người, hay một nhóm trong quá khứ nên khi thực hiện vào thời điểm hiện tại lại càng khó khăn hơn, vì người sau không nắm được hoàn toàn lý tưởng, phương cách thực hiện của người đi trước. Rồi lại có những hoàn cảnh, phong tục, địa lý, thời điểm khác nhau càng làm cho sự thực hiện càng trở nên khác biệt. Nhưng tựu chung người ta thường đặt vấn đề là: “Tại sao nó thất bại, không đạt được thành quả sau mấy mươi năm thực hiện? Tại sao nó không đem lại sự tự do và hạnh phúc cho con người? Tại sao nó lại không tiến hơn các xã hội khác, và tại sao nó lại sụp đổ”? Đó là những vấn đề mà người ta đặt ra và đi tìm câu giải đáp khi cho nó là chủ nghĩa ưu việt của loài người và trong tương lai!

Trong quá khứ đã có nhiều quan niệm về việc trị nước và các điều kiện cho người lãnh đạo từ việc lấy người dân làm mục tiêu hay là cho giới lãnh đạo trải qua từ thời tộc trưởng, bộ lạc cho đến thời phong kiến, lẫn các chế độ ngày nay, người ta có nhiều phương cách và suy nghĩ. Tuy nhiên với hai quan điểm “Nước giàu, dân mạnh” hay là “Dân giàu, nước mạnh” đáng được người ta quam tâm hơn.

Chuyện chính trị, điều binh khiển tướng, hay điều hành quốc gia không phải là chuyện của những người dân dã, cho nên người dân thường chỉ có những hình ảnh đơn giản để bàn chuyện vui chơi hoặc giải thích “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”!

Chuyện đầu tiên có lẽ là chuyện liên hệ đến người chơi cây cảnh hoặc bonsai: Người chơi bonsai, cây cảnh muốn cây được uốn éo, có hình thù, ý nghĩa theo ý mình nên uốn nắn, bắt cây hay nhánh phải vươn như thế này, mọc như thế kia vì thế họ gò đẽo, điều khiển một cách “tích cực” cây trở nên dị dạng, khác thường để trở nên những hình mẫu mong muốn. Những lá và nhánh vươn ra ngoài khuôn khổ đều bị “xén, cắt, o ép”, cho nên dù trong thời gian lâu dài cây ấy cũng chỉ là những cây “èo uột” của loài bonsai. Nếu chúng ta chọn cùng một cây nào đó, nửa cây theo cách tự do phát triển tự nhiên của nó, và nửa cây theo cách chơi của bonsai ta sẽ thấy sự khác biệt hoàn toàn. Một nửa bên cây sẽ phong phú, giàu mạnh, phát triển theo mọi khía cạnh, còn bên kia không thể phát triển nổi vì nó nằm trong diện của “bonsai”! Thì đối với chuyện con người, là loài có tư tưởng, suy nghĩ và thích phóng khoáng, tự do thì họ sẽ phải chọn bên nào?

Chính vì điều như vậy mà người ta có thể liên tưởng đến: Trong một xã hội mà bắt mọi người phải theo một khuôn đúc để tất cả đều giống nhau từ cách sống cho đến tư tưởng, suy nghĩ trở nên càng khó khăn. Đối với loài vật, loài thú sự thuần dưỡng còn đòi hỏi có thời gian lâu dài thì chuyện o ép con người lại càng khó vô vàn và không thể “một ngày một buổi” mà thành công. Nhưng sự kéo dài cái tình trạng “gian nan” sẽ khiến con người trở nên phản kháng và chống đối. Khi sự đàn áp, bắt buộc được thực hiện mạnh bạo thì người ta trở nên buông xuôi, không thèm chống báng nữa, cũng không cần lưu tâm và từ đó “ai làm gì mặc ai, mình làm gì thì mình làm”, “chuyện của người khác không phải là chuyện của mình”!

Thông thường, trên lý thuyết, người thực hiện kế sách luôn nghĩ đến những điều kiện thuận lợi; nhưng khi vào thực tế mới có nhiều diễn biến phức tạp nó không hoàn tất sớm theo như “ước lượng”. Sự kéo dài thời gian nhất là trong hoàn cảnh thiếu thốn, khó khăn lâu dài chừng nào thì lại khiến con người trở nên càng trở nên “cứng đầu và chai lì” chừng nấy! Vì họ không tìm thấy một tương lai sáng sủa, mà chỉ thấy một màn u tối ở phía trước. Điều đó tạo nên sự khác biệt giữa giới lãnh đạo và đám đông quần chúng trong suy nghĩ và tư tưởng, vì giới lãnh đạo có được nhiều ưu tiên, quyền lực để tìm lấy một cuộc sống hạnh phúc hơn cho cá nhân lẫn gia đình hay dòng họ; cho nên họ không nhìn thấy những điều mà người dân phải hứng chịu.

Đó là điều thứ nhất mà tôi đã thu lượm được để có thể “giải đáp” thắc mắc của đám chúng tôi và bạn bè về “sự khó khăn” của một chủ thuyết mới mà người ta cho là “Ưu việt” cho một chế độ trong tương lai. Còn chuyện thứ hai theo một ví dụ như sau:

Trên con đường có hàng trăm chiếc xe đang chạy tùy theo mức độ lớn nhỏ, mạnh yếu mà xe di chuyển được như thế nào. Đột nhiên trong đoàn đó, người đánh xe không hiểu suy nghĩ hay học được từ đâu được một kế hoạch cho là “hay nhất” để đưa chuyến xe tiến đến phía trước một cách “tiến bộ và sung sướng” cho mọi người trên xe, tránh được sự tranh giành chen lấn giữa những người khách. Những tài xế ấy “dừng xe” lại để bắt mọi người xuống, sắp xếp lại trật tự, rồi hành khách mới lên xe tiếp tục đi. Sự sắp xếp lại ấy chỉ vừa ý với tài xế, nhưng không vừa ý với hành khách nên sự phản đối lại xảy ra. Sự tranh cãi, phàn nàn của hành khách khiến tài xế phải dùng biện pháp trấn áp cho hành khách phải yên lặng mà thực hiện cái phương hướng của mình. Điều đó khiến hành khách lại phản đối mạnh hơn. Tài xế lấy keo bịt miệng hành khách lại, trói họ trên ghế ngồi, xong chạy một con đường khác mà họ nghĩ là con đường ngắn nhất để đạt được mục đích cho loài người. Con đường đang chạy đó càng lúc càng chông gai, dằn xốc hơn, hành khách đành yên lặng “chịu trận”. Chạy không bao lâu thì tài xế thấy đoạn đường đó không được nên phải dừng xe lại để “sửa sai”. Sự sửa sai ấy không phải một lần mà rất nhiều lần cho nhiều phương diện khác nhau, thế cho nên khi nhìn lại với những chuyến xe khác cùng đi với mình trước kia, họ đã chạy đến phía trước, bỏ xa xe mình không biết đến một độ xa như thế nào! Trong khi đó người tài xế vẫn luôn nghĩ là mình đang đưa mọi người đi trên con đường tốt và sẽ đến một nơi hạnh phúc, no ấm nhất trong sự loay hoay lãnh đạo của họ mà cỗ xe vẫn quay cuồng, chẳng đi tới đâu! Hình ảnh ấy được ví von minh chứng cho câu chuyện người ta muốn thực hiện một mô hình xã hội “tốt đẹp nhất” của loài người trong tương lai. Trong khi mình cứ “xoay vần” như một con vụ thì người khác đã đi xa vạn dậm tự bao giờ, thế mà mình cứ mãi “ca tụng”, ảo tưỏng cho chính mình cùng làm khổ cho không biết bao người đang bị dằn vặt trên cỗ xe chưa tìm được đường ra!

Chuyện về quan điểm rất quan trọng trong việc thực hiện các chế độ của thế giới Cộng Sản. Có lẽ từ kinh nghiệm ở các triều đại lịch sử đã trải qua, cho nên khi làm cuộc Cách mạng bằng bạo lực thành công, họ liền dùng bạo lực ấy để trấn áp những thành phần đối kháng, những thế lực mà họ gọi là phản động để “củng cố vững chắc” chính quyền, không để sơ hở cho các thành phần ấy phản công, giành lại theo phương châm “Thà giết lầm hơn là thả lầm”! Họ không hề tin tưởng các thành phần nào mà họ nghi ngờ, không nắm rõ lý lịch. Chính vì thế mà những con người nào dù ở các thành phần có xuất xứ chưa được cho là tốt, khó mà được trọng dụng hay đem tài năng của mình đóng góp vào sự tiến triển cho đất nước. Vì thế những con người ra làm việc hay giữ chức vụ, cũng như về sau nầy giữ các nguồn làm ăn, kinh tế thường do thân nhân hoặc người nhà của họ luôn được ưu tiên. Cho nên một xã hội thuộc về sự cai trị của gia đình, dòng họ là đương nhiên, sự thao túng là tất có ở mọi địa phương. Đường lối chủ trương từ ban đầu đã dần xa với dân chúng và người dân! Một cái điều mà người ta gọi là “Giai cấp mới” được hình thành, chỉ dành riêng cho giới lãnh đạo với gia đình, dòng họ của họ. Họ có đủ điều kiện để hưởng thụ sự sung sướng, tiền của qua quyền lực nên họ không nhìn thấy sự cùng khổ của dân chúng, hoặc là họ phớt lờ đi như là không nhìn thấy. Cũng chính ở “quan điểm” mà người ta chỉ tin tưởng, sử dụng những người thuộc thành phần được gọi là “tốt” thường có lý lịch “gia đình cách mạng” có khi cho đến ba đời. Nếu ở những cương vị nào đòi hỏi trình độ học thức mà người phụ trách không đủ khả năng, không đạt được thì sẽ được “học bổ túc” để hoàn thành tiêu chuẩn giữ chức vụ; đôi khi với quyền thế người ta có thể “thương lượng” với một tấm bằng giả ở một số tiền nào đó. Hay là ở những vị trí mà có thể “kiếm được nhiều tiền” thì sinh ra tệ nạn “mua quan bán chức” tùm lum! Cho nên với một “xã hội tiến bộ, nhân tài hàng khối” mà chẳng làm nên trò trống gì, người dân bị chìm đắm trong nghèo đói, lầm than, chỉ có giới cầm quyền là được “vinh thân, phì gia”, sống cuộc đời giàu có và sung sướng, nhưng khẩu hiệu vẫn luôn là “do dân và vì dân”! Xã hội càng ngày càng trở nên tồi tệ vì chẳng có phương tiện nào để “nói lên hay tố giác” những kẻ tham nhũng, hối lộ, hống hách, quan quyền… Không khéo lại bị “chụp mũ, gán ghép” cho những tội mà chính quyền liệt kê với những thành phần xấu. Vì thế mãi rồi “chính quyền làm gì thì chính quyền làm, coi như là mình không biết, không thấy, không dính líu” để cho được yên thân mà đi tìm phương cách sống cho bản thân và gia đình! Cho nên thiên hạ trở nên “vô tư, hay vô cảm” là chuyện bình thường chẳng có gì để lưu tâm!

Xe bắt đầu đi vào Thành phố kéo tôi trở về với những thực tại và tôi lại nhìn hai bên đường, khu phố, những con người ở đây để ngắm, quan sát cùng chụp hình hay quay phim. Đây là Thành phố Dressden thuộc vùng Đông Đức ngày trước. Thành phố không có nhiều nét mới, nhưng cũng có nhiều cây xanh giống như ở trên Berlin. Có vài nóc nhà thờ vươn lên cao với kiến trúc khá lạ lẫm, có nét đẹp riêng biệt, tôi nghe nói về kiến trúc Baroque không biết có phải là cách kiến trúc ấy hay không?

 

Nguyên Thảo,

23/01/2021.