Saturday, July 27, 2024

*Cuốn Theo Chiều Gió! (1)


Điều tôi muốn nói “Cuốn theo Chiều Gió” ở đây là vì chúng tôi đang được cuốn theo một trào lưu, và trào lưu ấy đã, đang hiển hiện ra trên đất nước Việt Nam, cũng như trên cộng đồng mạng một cách sôi nổi, cuồng nhiệt mà không một ai tránh khỏi sự quan tâm. Chúng tôi là một nhóm bạn bè trong lúc “trà dư, tửu hậu” cùng họp bàn, bàn luận xôn xao cái hiện tượng đó, dù số vốn hiểu biết về Phật pháp hay Đạo Phật của mình chẳng là bao nhiêu. Và bây giờ, tôi cũng mạo muội tích góp vài tài liệu, ý niệm, suy nghĩ đưa đến với mọi người để cùng nhau chiêm nghiệm, hầu tìm được một vài giải thích thỏa đáng nào đó xem coi có được hay chăng?

Nói đến hiện tượng “Sư Thích Minh Tuệ” thì quả thật là hiện tượng “Ngàn năm có một” mà đến đỗi có vạn người tin, nhưng cũng không phải không có người chẳng tin. Ông ấy có phải là người chứng quả Phật hay không? Hay ông ấy chỉ đang trên hành trình tu chứng? Chắc chắn những nhà tu “Học cao hiểu rộng” không thể không còn những nghi ngờ nào đó về trình độ giáo lý, giới luật, chắc gì hơn họ? Nhưng đối với Phật tử hay quần chúng, Sư đã được tôn vinh như là vị Phật sống để mọi người săn đón, lễ lạy và cầu mong được chút ít phước báu từ Sư. Cũng từ sự tôn kính đó mà mảnh đất Gia Lai được người ta đến thăm viếng đông đảo như hiện nay; hay nhiều người theo Sư để thực hành Hạnh tu Đầu Đà mà Sư đang theo đuổi. Đoàn người từ vài người thuở đầu kéo theo hơn bảy mươi người trước khi người ta tìm phương cách để giải tán, do sự tập trung đông đảo làm cản trở giao thông, lẫn không tốt cho tình hình an ninh. Sư thực hành hạnh tu trong nhiều năm đơn độc sau khi từ giã ngôi chùa mà Sư tu trong lúc đầu, để rồi lên núi ẩn tu trên núi và cuối cùng Sư chọn phương thức đi khất thực khắp nơi từ Nam ra Bắc, từ Bắc vào Nam; đi khắp các nẻo đường đất nước, đặc biệt là đi trong mọi điều kiện thời tiết với đầu trần, chân đất dù cho những ai khinh khi, chế nhạo hoặc hành hung; mà Sư coi đó là những phương thức để mình học sự buông bỏ, nhẫn nhục và trì giới của những 13 hạnh khó khăn của người tu theo Hạnh Đầu Đà.

Thú thật, chúng tôi không biết về lối tu theo Hạnh Đầu Đà cho lắm, và do từ phong trào qua hiện tượng của Sư mà chúng tôi có thể hiểu khá hơn về Hạnh nầy. Trước khi phong trào nở rộ, trên cộng đồng mạng có nói đến nhà Sư kèm theo hình ảnh với bộ áo “phấn tảo” nhiều màu chấp vá lủi thủi, đơn độc đi trên đường trong mưa nắng với đầu trần, chân đất, chúng tôi cũng không để ý gì nhiều: Vì trong quan niệm mỗi người có một cách tu, tu như thế nào thì họ làm theo cách họ thích. Đó là sự tự do trong Đạo Phật! Và sự tự do ấy khiến nhiều người không để ý đến cách thức mà họ tu. Thông thường người ta chỉ để ý đến phương thức lập am, cốc hay cảnh chùa để tu theo Phật giáo Bắc Tông; hay những vị Sư đi khất thực có Tịnh Thất, hoặc tu ẩn trong các núi của nhiều vị theo phái Nam Tông. Theo ý kiến của vài bạn khá biết về Đạo Phật thì ngày xưa khi Thái Tử Siddhattha từ bỏ cung điện, đời sống Hoàng gia để đi tu thì Ngài cũng hành đạo theo cách của những người trước đó như Đạo Sĩ Alara Kalama, Đạo Sư Uddaka Ramaputta để học đạo. Có lúc Ngài nhịn ăn theo lối sống cực kỳ kham khổ, ép xác khổ hạnh cùng năm anh em Kondanna (Kiều Trần Như) trong suốt sáu năm trường, đến đỗi thân xác chỉ còn da bọc xương mà vẫn chưa tìm được Đạo, thỏa đáng theo như ý nguyện. Rồi Ngài bỏ đi đến một nơi và tu tập một mình, nghiền ngẫm đến con đường giải thoát; thân hình càng ngày càng tiều tụy, yếu đuối và ngã quỵ trên cỏ. Một thôn nữ tên Sujata đến cúng dường đổ sữa cho Ngài tỉnh lại. Từ đó Ngài nhận thức được rằng con đường quá khổ hạnh không phải là con đường giải thoát, mà cần phải bảo dưỡng thân mạng, giữ lại mạng sống mới đi tìm đến được sự giải thoát khổ đau! Cho nên Ngài đến nhập định dưới gốc cây, mà ngày nay người ta gọi là cây Bồ Đề, quyết không rời xa nếu chưa tìm được Chân Lý. Sau 49 ngày, Ngài đột nhiên Đại Ngộ, biết rõ những gì trong thiên nhiên, vũ trụ và con người mà sau nầy trong Kinh Sách gọi là “Tri Kiến Phật” (tức những gì mà Phật đã thấy và nhận biết) qua Lậu Tận Thông.

Theo như câu chuyện được kể lại thì sau khi Đại Ngộ, Ngài thấy biết chúng sinh rất là khó khăn để độ được họ (chúng sinh khó độ), nên Ngài muốn nhập diệt. Tuy nhiên vì Chư Thiên yêu cầu nên Ngài phải dấn thân vào con đường hành đạo trong suốt hơn 45 năm và tùy theo căn cơ của chúng sinh mà nói Pháp để giúp chúng sinh được hiểu mà thực hành các bước, hầu tiến đến được con đường giải thoát cho chính mình (Tự thấp đuốc lên mà đi). Chính vì thế mà cõi Ta Bà nầy mới có Phật Pháp và Ngài được xem như là Giáo Chủ. Điều đáng chú ý là tất cả chúng sinh nào trong sáu cõi Luân Hồi muốn thành Phật đều phải tái sinh vào cõi Ta Bà nầy cả, vì chỉ ở cõi nầy mới có Phật Pháp để hành giả tu và thành Phật. Như vậy “kiếp con người” thật là “Đáng Quý” (Nhân thân nan đắc – Thân người khó được), cũng là kiếp may mắn nhất của chúng sinh để có thể tu thành Phật, thoát khỏi sáu cõi trầm luân trong đau khổ, khổ đau. Và “kiếp con người” cũng là những kiếp cuối cùng trong Vòng Luân Hồi của chúng sinh vì con người đang đứng tại cửa thoát ra của Vòng ấy! Còn chúng sinh ở các cõi khác dù sung sướng như Cõi Trời, hoặc ít hay không đau khổ như A-Tu-La, hoặc đầy đau khổ như Súc Sanh, Ngạ Quỷ và Địa Ngục thì không hề có Phật Pháp bao giờ!

Su Minh Tue





Những gì Đức Phật khám phá được trong lúc Thiền và Nhập Định, sau được Ngài thuyết giảng và trở thành Học Thuyết, hay đúng hơn là những Giáo Pháp của Đạo Phật lưu truyền cho đến ngày nay. Theo nhiều người, kể cả nhiều học giả đều nghĩ rằng: “Đạo Phật không phải là một Tôn Giáo” mà chỉ là những “Triết Lý Giải Thoát”, vì trong Đạo Phật không đề cập đến Thần Quyền của những Vị Thần ban phước, giáng họa. Điều ấy cũng đúng một phần, theo quan điểm tư tưởng phương Tây, vì Đạo Phật không có chuyện “Đấng Thần quyền Tối Cao” nào đó có khả năng cứu rỗi người khác. Tuy nhiên, người ta quên rằng: Đạo Phật đang cung cấp phương pháp cứu rỗi cho từng con người, tự biết cứu rỗi chính mình bằng những phương pháp rất là khoa học và đúng theo cái luận chứng của thế gian. Trong Đạo Phật có điều đặc biệt hơn mọi tôn giáo khác là sự giải thích con người đến từ đâu và khi chết sẽ đi về đâu tùy theo nghiệp lực của mình. Không những thế mà Đức Phật còn đề cập đến những thế giới khác rất xa xôi trong vũ trụ mà khoa học ngày nay chưa thể đạt đến, mà cũng chẳng biết đến bao giờ mới đạt đến được; hoặc những cõi Vô Sắc Giới mà Khoa học Huyền bí chưa hề nghiên cứu, giải thích hết được. Vả lại, theo tinh thần của phương Đông, Đạo Phật cũng có cả một quy trình, hệ thống tôn chỉ Đạo giáo giống các Tôn Giáo khác như Đạo Lão hay Đạo Khổng của Trung Hoa, vậy thì với Phương Đông, Đạo Phật chẳng phải là một Đạo sao?

 

Nguyên Thảo,

28/07/2024.

 

 

Monday, July 22, 2024

*Nói Để Mà Nói!


Ngày xưa đi làm chung với tôi, có anh bạn khá vui tính, nhưng mà mỗi lần nói đến câu chuyện gì thì anh hay mở đầu bằng câu: “Nói để mà nói…”, lúc đầu tôi nghe hơi lạ nhưng rồi cũng quen dần. Anh không kể câu chuyện nào là không tưởng hay để nói chơi cả, mà là những câu chuyện thật trong đời hay góp ý với nhau trong những mẫu chuyện vào lúc trà dư tửu hậu. Đó cũng là đặc điểm con người của anh. Đúng là anh nói nhưng không phải là nói để chơi, mà anh nói thật sự, cho nên có người bạn ghẹo anh “Ông nói để mà nói, vậy thì ông không nói có sao không?”, để rồi cả đám đông xúm nhau cười đùa vui vẻ, và anh cũng cười, chẳng giận hờn. Mỗi con người có một hay vài cái tật, mà những cái đó là đặc điểm của họ, tựu chung lại là những cái vô hại cho người khác. Anh bạn nầy nói thế chứ anh rất chân thật và nhiệt tình trong nhiều vấn đề kể cả góp ý và làm việc. Nhân chuyện nầy tôi lại nhớ đến chuyện trong thế gian cũng có những con người ngược lại: Họ tỏ ra sốt sắng, tình cảm giống như lúc nào họ cũng rộng mở, sẵn sàng giúp, quan tâm người khác, nhưng rồi họ chỉ nói để chiếm lấy cảm tình, chứ thật sự đến sự giúp đỡ hay thực hành thì chẳng có gì. Họ chỉ qua loa trong lúc họ nói, rồi phớt lờ và lắm lúc họ quên bẵng đã nói hay hứa những gì trước đó. Hoặc giả, có những lý do nào đó khiến họ quên đi, hay không thể thực hành được, giống như “Em tính lên thăm anh chị, nhưng chưa lên thì anh chị đã tới em rồi”!

Trong cuộc đời có những chuyện vừa vui, vừa buồn khi người ta cần để “lấy lòng” lẫn nhau, nên cái chuyện “nói cho có nói” là chuyện bình thường. Thực sự, đó không là vấn đề mà mình phải quan tâm nhiều cho lắm, vì thế gian có nhiều mẫu con người khác lạ, nhưng chung qui tùy theo bản chất của họ mà thôi, hay đúng hơn là làm theo cái bản năng “cái Ta” của họ. Nếu mình lặng yên, bình tâm suy nghĩ thì ai cũng có cái “Ta” riêng lẽ, với cái Ta to lớn ấy nếu không được người khác nuông chìu, nghe lời làm theo, hoặc sai ý thì họ sẽ nỗi “tam bành, lục tặc” mà tháo quát, sân hận, trù yếm…khiến cho người khác không thể ngóc đầu lên được. Cho nên câu chuyện Đức Phật khi giáng sinh thì đi 7 bước trên các tòa sen, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất mà thốt lên câu “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” không phải là không có lý. Sau nhiều thời gian tìm hiểu thì tôi mới nghiệm được ra rằng: Tại sao thế nhỉ? Đức Phật là cao ngạo ư? Nhưng trong con đường nhiều năm gian khó tu hành để đạt đến “Giác Ngộ”, thì Đức Phật đã đề cập đến “Vô Ngã”? Kỳ lạ đến thế là cùng! Vấn đề khiến cho tôi cũng như nhiều người thắc mắc mãi mà chưa tìm lời giải đáp được. Rồi một ngày nọ, có anh bạn muốn nhờ tôi làm cho họ một việc mà tôi phải bận vào một việc khác nên không thể giúp họ được; họ lại xem như là tôi không muốn giúp họ thế là họ đem tâm oán ghét, và đâm thọc với bạn bè để bạn bè “chơi” lại tôi cho bỏ ghét. Từ đó tôi mới thấy “cái Ta” là quan trọng và có vẻ “dị hợm”! Thế là tôi bắt đầu để ý trong cuộc sống: Nhìn từ những đứa trẻ mới biết ngồi đã biết giành thứ gì đó mà xô đẩy, đánh nhau; đến người trong gia đình cũng phật ý mà đưa đến cãi cọ, dỗi hờn; kể cả mọi người trong thế gian hay đến các chủng tộc, quốc gia khác nhau cũng vì “cái Ta” mà thành “cái của Ta, hay Chúng Ta mà tranh hơn thua, thắng bại” từ lời ăn tiếng nói, cử chỉ, hành động lẫn chưởi bới, gậy gộc, vũ khí để đánh, chiến tranh cùng nhau để mong cầu thắng lợi. À! Thì ra thế! Cho nên Đức Phật đề cập đến Vô Ngã! Vô Ngã là không coi cái của Ta, chúng ta là quan trọng, phải hơn cái của Người nữa, mà Người cũng như Ta, Ta Người hài hòa như nhau, chia sẻ cho nhau thì mới sống chung, hòa bình, êm ấm trong cùng một nơi, một thế giới! Đến một ngày ngồi ngẫm nghĩ: Vậy thì Đức Phật lúc ra đời đề cao cái Ta, đến khi thành đạo lại làm cho cái Ta biến mất, thế nên “Duy Ngã” độc tôn không phải là Ông Phật cao ngạo, coi mình hơn hẵn bao nhiêu người khác, mà chính là nói lên cái “Bản Ngã” trong mỗi con người. Và nếu ai cũng quên đi cái Ta, của Chúng Ta, mà thấy một sự bình đẳng, tương thân tương ái giữa những con người, chúng sinh thì thế giới nầy đầy an lạc, vui sướng của một cõi Thiên Đường!

Đồ Ngông tôi đi quá xa vấn đề rồi, thôi thì quanh trở lại vậy! Nhân nhắc đến anh bạn “nói để mà nói” cho vui vậy thôi, chứ không có ý gì để xoi mói về anh ấy cả mà chỉ thấy ảnh nói chân thật và làm, làm thực sự như những con người nhiệt tình đầy tâm huyết, đáng mến. Rồi nghĩ đến nhiều người trong xã hội chỉ nói “để mà chơi, hay là lấy lòng” thật không thiếu gì: Không phải chỉ ở cá nhân con người, mà nó còn thể hiện trong những tổ chức, đoàn thể, hay ở cả những bộ phận, tổ chức lớn hơn như quốc gia, hoặc là quốc tế, hoặc ngay cả những chủ thuyết “không tưởng”, ngưòi ta cũng chỉ nói mà để chơi, không bao giờ thực hiện được để lừa phỉnh những người nhẹ dạ, thích mơ tưởng không thôi. Nếu Quý vị không tin thì cứ thử nghiền ngẫm, suy tư một chút để mà xem!

 

Đồ Ngông,

15/07/2024.

 

 

*Nổi Trôi!


Thế sự thăng trầm như thoáng qua

Trần gian trôi nổi cõi Ta Bà

Mang thân lăn lộn trong Tam Giới

Giải thoát mong tìm được lối ra!

 

Đồ Ngông,

23/07/2024.