Sunday, August 11, 2024

*Cuốn Theo Chiều Gió! (2)


Khi đề cập đến sự khai ngộ của Đức Phật trong thiền định khoảng 49 ngày thì chúng tôi lại liên tưởng đến thời gian của Đức Chúa Jésus với 40 ngày trong đồng vắng cho Đạo Thiên Chúa, hay cũng khoảng bốn mươi mấy ngày của Muhammad trên núi Hira gần Mecca khởi nguồn cho Đạo Hồi, như vậy với con số hơn 40 ngày quyết chí tịnh tâm nầy có phải là thời gian để con người tìm thấy bản thể của chính mình đó chăng? Tuy nhiên, sự đi tìm bản thể con người cũng có nhiều hướng khác nhau, điều ấy chúng ta cần phải tìm hiểu nhiều thêm nữa, nhất là những gì mà Đức Phật đã cảnh giác trong Kinh Lăng Nghiêm về những ma chướng mà người tu hành cần phải đối phó, hay xa lánh để tránh lọt vào ma đạo do các loài ma hướng người tu đi vào.

Với thời gian nhập định ấy, Đức Phật đã quán chiếu và suy niệm được nguồn gốc của con người, chúng sinh qua sự “Vô Minh”. Chính vì Vô Minh mà Phật Tánh (mỗi con người, chúng sinh đều có) đã mượn đến Tứ Đại (Đất, Nước, Lửa, Gió) để tạo thành thân xác. Và từ cái chưa có trở thành cái có (duyên khởi), rồi từ “cái nầy có thì cái kia có, từ cái kia có đến cái khác có…nối tiếp xảy ra. Cái có trước chính là Nguyên nhân (Nhân) cho cái xảy ra sau. Cái sau là Kết quả (Quả) của cái trước, đồng thời cũng là cái “Nhân” cho sự kiện xảy ra kế tiếp. Sự tiếp nối đó liên tục kéo dài thành chuỗi “Trùng trùng Duyên khởi” không hề dứt. Muốn chấm dứt được chúng, cho nên phải dứt cái nầy thì cái kia mới chấm dứt, và cuối cùng sẽ trở về cái ban đầu. Từ suy niệm ấy Đức Phật đã thấu rõ “Thập Nhị Nhân Duyên” (Vô Minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh, Lão Tử) khởi nguồn cho thân xác con người và chúng sinh. Cũng từ sự có thân xác ấy mà chúng sinh phải đáp ứng nhu cầu về ăn uống, thời tiết để bảo toàn thân mạng, cùng các nhu cầu về tinh thần mà đã đưa đến thế gian nầy trở thành một môi trường “tranh đấu để sinh tồn”, kẻ mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, đầy dẫy lòng “Tham”, giận dữ, “Sân” hận, rồi không kiểm soát được trở nên u muội, “Si” mê mà dùng mọi thủ đoạn: Sát, Đạo, Dâm, Vọng qua Thân xác, miệng lưỡi (Khẩu), Ý tưởng, suy tính để tranh giành, chiếm đoạt, hãm hại lẫn nhau…tạo nên Nghiệp. Nghiệp là “Nhân” của Kiếp nầy, lôi cuốn chúng sinh Tái sinh vào các kiếp sau để trả “Quả”. Sự trả Quả ấy được xoay vòng (Luân Hồi) trong sáu cõi (Lục Đạo: Trời, Người, A-Tu-La, Ngạ Quỷ, Súc Sanh và Địa Ngục) mà không hề thoát ra được thế giới đầy khổ đau nầy. Vả lại, do nơi có thân xác mà con người, chúng sinh chịu nổi đau khổ về Sinh, Lão, Bệnh, Tử!

Sau sự Quán triệt, thấu rõ ngọn ngành về Vũ Trụ Quan và Nhân Sinh Quan qua Trí Huệ trong Thiền Định, Đức Phật bèn rời cội Bồ Đề để đi thuyết giảng, truyền bá Giáo lý mà Ngài đã lĩnh hội được cho những ai mà Ngài gặp, sau khi có hai thiện tín đầu tiên là các thương gia Tapassu và Bhallika đi ngang qua nơi Ngài. Rồi, Đức Phật nghĩ đến việc đi đến Lộc Giả (Vườn Nai) tìm năm anh em Kiều Trần Như (Kondanna) là những Đạo sĩ tu khổ hạnh với Ngài trước kia, để chia sẻ những gì Ngài đã đạt được. Bài Pháp đầu tiên mà Ngài chuyển Pháp Luân chính là con đường tu theo “Trung Đạo”, không khổ hạnh ép xác, cũng không lợi dưỡng, chỉ ăn uống vừa đủ để nuôi giữ thân mạng mà tu hành; và Tứ Diệu Đế, hay Tứ Thánh Đế (vì đó là bốn điều chắc thật, không thể sai trên con đường đi tìm Sự Giải Thoát) trở thành Bốn Chân Lý làm hành trang vững chắc về nhận thức cho người hành đạo không phải thối chí, ngã lòng. Ấy là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo vậy!

Để tóm lại, sau sự suy niệm trong Thiền Định đó của Đức Phật đã đưa đến Sự Đại Ngộ về những Chân Lý của Vũ Trụ mà Ngài đã nhận biết như: Trong mỗi chúng sinh đều có Phật Tánh hay là Chơn Tâm (có bản chất trong sáng, diệu kỳ, sáng suốt, chiếu soi, khắp giáp Pháp Giới: “Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu”); vì do Vô Minh (Sự không biết, si mê) mà Phật Tánh ấy đã mượn đến Tứ Đại (Đất, Lửa, Gió, Nước) kết hợp lại thành thân xác theo Thập Nhị Nhân Duyên (tức là Thuyết Nhân Duyên và chuỗi sự kiện tiếp theo Trùng Trùng Duyên Khởi) để từ thân xác ấy chúng sinh phải cần đến các nhu cầu về vật chất lẫn tinh thần mà lo cung phụng, bảo tồn lấy nó. Nhu cầu càng lúc càng cao khiến chúng sinh càng tham lam, ham muốn nhiều hơn, và tìm mọi cách chiếm lấy những gì mình cần, ham thích (Ái dục) bằng các hình thức, hành vi từ Thân, Khẩu, Ý khởi lên. Nếu bị cản trở do chúng sinh khác thì trở nên Sân hận; khi sự Sân hận quá sức thì trở nên Mê mờ, ngu si mà thực hiện các thủ đoạn chiếm đoạt bằng các cách Sát, Đạo, Dâm, Vọng mà tạo nên “Nghiệp”. Chính cái Nghiệp ấy trở thành những cái Nhân. Các Nhân tạo tác trong Kiếp nầy khiến chúng sinh đó phải trả Quả vào những Kiếp sau, đó là đi vào “Thuyết Tái Sanh” và “Luật Nhân Quả” trong một cái vòng luân chuyển mà Đức Phật nói đến là “Vòng Luân Hồi”. Trong vòng ấy có sáu cõi mà chúng sinh phải lăn lộn xoay chuyển, khó thoát ra khỏi gồm có: Trời, Người, A-tu-la, Ngạ Quỷ, Súc Sinh và Địa Ngục. Vậy muốn thoát khỏi sanh tử Luân Hồi thì làm sao? Phải chấm dứt Tái Sanh như vậy là không tạo Nhân nữa. Mà không muốn tạo Nhân thì phải dứt Nghiệp: Sát, Đạo, Dâm, Vọng khởi từ Thân, Khẩu, Ý. Tu Thân, Khẩu, Ý và giữ Không Sát sanh (Sát); Trộm cắp (Đạo); Tà dâm (Dâm); nói dối, hai chiều, đâm thọc, lừa đảo (Vọng ngữ); và “muốn ít, biết đủ” (thiểu dục, tri túc) để không phải Tham lam, luyện tính nhẫn nhục và bố thí, từ bi, không xem “cái Ta” quan trọng hơn người khác nữa, để không phải “Sân hận” vì “Lửa sân hận có thể thiêu đốt cả vạn rừng công đức”. Suy nghĩ, đắn đo, học chính tư duy, chính kiến để tránh khỏi si mê mà lỡ làm những hành động bất thiện. Như vậy mới tránh được ba “Món Độc: Tham, Sân, Si” thường gắn liền với cuộc sống con người để tạo ra nghiệp và tái sanh!

Từ những quán triệt con đường, diễn tiến như vậy, Đức Phật đã được “Tự giải thoát cho chính mình ra khỏi vòng Sinh Tử Luân Hồi” trong cơn Đại Ngộ; cho nên sau đó Ngài đúc kết thành Bốn Chân Lý bất di bất dịch mà chúng ta thường gọi là Tứ Diệu, hay là Tứ Thánh Đế để làm Căn bản nhận thức cho người tu hành hầu vượt thoát sinh tử và trở thành Bậc Giác Ngộ như câu “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”!

Bốn Chân Lý đó là: “Khổ Đế” nhận định rõ trong cuộc đời nầy khổ nhiều hơn vui từ Sinh, Lão, Bệnh, Tử và nhiều cái khổ khác như khổ chồng khổ, hoại diệt khổ, hành khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, oán tắng hội khổ và ngũ ấm xí thạnh khổ và luôn chịu khổ từ sự tranh giành, thủ đoạn giữa những chúng sinh, con người với nhau. Rồi truy tìm nguồn gốc, nguyên nhân của khổ tức là “Tập Đế”: Các nguyên nhân do từ sự Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ, Giới Cấm Thủ, Tà Kiến. Rồi từ đó, nghĩ đến cách diệt những nguyên nhân và sự đau khổ ấy là “Diệt Đế” bằng con đường tu tập, tức là tìm đến “Đạo Đế” mà Đức Phật đã tìm ra và thực hành trong khi Đi Tìm Đạo Giải Thoát của Ngài!

Đức Phật đã suy nghiệm, tư duy và quán triệt những nguyên lý vận hành trong vũ trụ như chúng ta đề cập đến ở trên mà trong Giáo Lý, Triết Thuyết của Ngài từng thuyết giảng. Qua các giai đoạn nào Ngài thực hiện đạt đến kết quả để trở thành Bậc Giác Ngộ, thoát khỏi vòng Luân Hồi sinh tử; do đó Ngài đúc kết thành hệ thống để rao giảng, truyền đạt lại cho mọi người, trên con đường hành đạo hơn 45 năm của Ngài. Tứ Diệu Đế ấy trở thành Chân Lý chắc, thật để chúng sinh, con người thoát khỏi khổ đau và Luân Hồi, ung dung tự tại của những Người Giác Ngộ cần biết và thực hành. Sự thực hành đó như thế nào?

 

Nguyên Thảo,

12/08/2024.

 

 

Saturday, August 10, 2024

* Ếch Ngồi Đáy Giếng!


Ngày xưa, vào một thời xa xa lắm, khi mà con người chưa có nhiều, nhưng vào khoảng thời gian ấy khí trời trở nên oi bức ở một vùng rộng lớn, cây cối đều bị khô hạn mà èo ọt hoặc là chết đi. Người không thể tìm được miếng ăn hay trở nên quá khó khăn, đành phải cuốn gói đi nơi xa mà tìm kiếm sự sống. Các loài vật cũng phải bỏ nơi nầy và trốn sang nơi khác. Loài ếch đào hang chui xuống đất nằm chịu trận những cơn đói dai dẵng, nhưng rồi sự khô hạn vẫn còn kéo dài, chúng không chịu nỗi, đành lê lết kéo nhau xuống vùng trũng thấp hơn, chui xuống bùn ẩn nấp cùng với một ít lương thực còn lại trong những vùng trũng ấy. Thế rồi thời tiết nóng bức, khô hạn vẫn còn kéo dài, cứ kéo dài, chúng thoi thóp bò lên, ngoi khỏi lớp bùn trở nên khô cứng dần mà chúng không thể đào sâu hơn được nữa, di chuyển nhau vào ban đêm khí trời tương đối mát hơn. Rồi không may trên đường di chuyển tất cả bọn chúng vì vội vả sợ bị những con rắn trong vùng cỏ hoang rượt bắt, thế là chúng đành lọt vào một miệng hang khá rộng, lọt tuốt xuống phía dưới. Không ngờ phía dưới đầy nước. À, thì ra dây là một cái giếng không sâu lắm, nhưng để ra khỏi miệng giếng không phải là một chuyện dễ dàng. Trời sáng ra, càng ngày càng sáng tỏ, bọn ếch mừng rỡ: Ôi! Đây thật là một cảnh Thiên Đàng! Vừa có nước đầy đủ, chúng tha hồ bơi lội, tung tăng, không bao giờ sợ da phải khô cằn, thức ăn thì cũng không phải khó khăn, vì nơi đây ẩm thấp, lũ muỗi nhện không thiếu gì. Vả lại thành giếng có khá nhiều cỏ cây một màu xanh tươi, không bị khô hạn, nắng cháy như ở trên kia, lắm loài nở hoa, chao ơi sao mà đẹp! Những ngày trong sáng bầu trời trở nên một màu xanh đẹp tuyệt vời. Rồi vào ngày mưa, chúng tha hồ ca hát, vang vọng tiếng của mình đi vào không trung như trêu chọc những con vật khốn khổ ở trên kia. Rồi từng thời gian qua, trong những cơn mưa dài, chúng vui mừng, đùa vui với một cuộc sống thanh bình, sung sướng mà chúng nghĩ rằng không thể có một nơi nào hơn được, và nơi đây sẽ là nơi mà trên thế gian không có chỗ nào hơn được, và chỉ có một không thể có hai.

Nhưng lại tội nghiệp cho bọn chúng, vì bọn chúng chỉ giới hạn trong cái hiểu biết, cái nhìn thấy của mình, với một bầu trời bị đóng khung vào cái miệng giếng ấy thôi; đầu óc bị thui chột trong cái tư tưởng hạn hẹp mà chúng cho là vĩ đại. Chứ chúng đâu có biết rằng, qua thời gian nắng hạn, những cơn mưa đầy nước khiến cho cây cỏ sanh sôi nẫy nở tốt tươi, rừng hoa đua nhau khoe sắc, muôn màu muôn vẽ; các loài chim vang hót khắp mọi nơi tạo nên một rừng âm nhạc làm cho không gian thêm đầy sống động bao la ở trên kia. Nhất là loài người nhộn nhịp hơn bao giờ hết trên những cánh đồng, làng mạc để tạo nên lương thực, của cải, làm giàu cho cuộc sống của chính họ, cùng với mọi người, ngay cả những loài cào cào, châu chấu, bọ ngựa cũng vỗ cánh sành sạch tối ngày. Còn bọn dế tha hồ gáy rân vào những buổi bình minh mà bọn ếch vẫn luôn nằm nơi đáy giếng để nhìn trời cho rằng khung trời của mình là vĩ đại! Ôi, thật là thương thay!

 

Đồ Ngông,

01/08/2024.