Sunday, April 6, 2025

*Góc Nhìn! (6)


Đó là “cái bè” thứ nhất (bè giáo lý) để con người học Phật, chúng sinh vượt qua “khổ hải” (biển khổ) quay trở về “giác ngạn” (bờ giác), bước lên cõi “giải thoát” (cõi Chơn Tâm, cõi Phật, Pháp Giới, Niết Bàn, Viên Giác…). Còn “bè thứ hai” là cái thân xác con người mà trong Đạo Phật cho là khó được: “Thân người khó được” (Nhân thân nan đắc). Tại sao thân người lại quan trọng như thế? Vì trong Kinh có đề cập đến việc Đức Phật Thích Ca chọn thế giới Ta Bà là cõi có nhiều khổ, ít vui mà nói pháp giải thoát; Thế cho nên, chỉ ở cõi Ta Bà, tức thế giới của chúng ta đang sống nầy, mới có được Phật pháp để con người tập tu mà thoát khỏi cõi Luân Hồi. Chúng ta nhớ lại rằng: Lục đạo Luân hồi có 6 đường: 4 cõi không có sắc hình, hình tướng (Vô sắc giới) như chúng sinh sinh vào cõi Trời (Thiên), Atula (Thần), quỷ đói (Ngạ Quỷ), Địa Ngục; và 2 loại chúng sinh có hình tướng (Sắc Giới) là: Người (Nhân), cùng súc vật (Súc Sinh). Trong 6 loài đó chỉ có loài người mới được Đức Phật truyền bá về giáo lý. Để dễ hiểu hơn, chúng ta có thể tưởng tượng chúng sinh trong Vòng Luân Hồi (hay là vòng của sự tái sanh) như là cái lồng cầu to lớn chia ra 6 ngăn để chúng sinh xoay vòng trong đó do gây Nhân và trả Quả trong vô lượng kiếp; Nhưng cửa ra, cửa giải thoát của nó chỉ có ở một nơi duy nhất là nơi ở của “con người”. Cho nên chỉ có con người mới có thể tu để được Giải Thoát khỏi vòng Sanh tử Luân hồi; vì thế được làm con người là rất quý; và có thân người thì mới có thể tu qua các phần, bộ phận liên hệ trên thân thể như trong Kinh Lăng Nghiêm chỉ rõ trong “25 phép tu” có thể chứng được. 25 phép tu đó là gì? Đó là sự chứng quả qua 6 trần (thanh trần, sắc trần, hương trần, vị trần, xúc trần, pháp trần); do 6 Căn (Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỹ căn, Thiệt căn, Thân căn, Ý căn); do 6 Thức (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỹ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức); do 7 Đại (Lửa, Đất, Nước, Gió, Hư không, Thức đại, Kiến đại). Như vậy, con người có thể dùng mọi yếu tố liên quan đến cơ thể, để làm con đường tu tập, mà đạt đến sự giải thoát theo hướng dẫn của Bậc Đạo Sư Thích Ca, và Đệ tử cùng thời hay các thế hệ về sau của Ngài rao giảng. Ngày nay, chúng ta được làm con người tức là chúng ta đang được đứng tại cửa thoát ra khỏi vòng luân hồi nếu chúng ta biết tu tập. Nếu không thì quá uổng, lỡ trong kiếp nầy chúng ta làm quá nhiều điều không thiện, thì phải đi vào con đuờng tái sinh khác, nơi đó không có Phật pháp để tu, thì biết đến bao giờ ta được làm người trở lại (là nơi có cửa để thoát ra) mà tu. Nếu ta được tái sinh lên cõi trời, nhưng nơi đó dù sung sướng, hạnh phúc, đầy phước đức nhưng không có Phật pháp thì cũng chẳng làm sao để tu! Do vậy, được kiếp người có nhiều khổ ít vui, nhưng là nơi mà chúng ta có thể mong cầu được giải thoát. Quả thực là “Nhân thân nan đắc”! Với thân, ta có thể mượn chiếc “bè” nầy để sang sông, trở về với “bến giác”, bước lên bờ “giác ngộ”! Cũng như trong Kinh Tạp A Hàm Đức Phật có thuyết:

“Như Lai tuyên bố rằng thế gian, nguồn gốc của thế gian, sự chấm dứt thế gian và con đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian đều nằm trong tấm thân một trượng này, cùng với tri giác và tư tưởng”.

Trong Kinh Viên Giác, chương Phỗ Nhãn, Đức Phật có thuyết: “Bởi thế nên biết “Sanh tử và Niết Bàn” cũng đều như giấc mộng hôm qua, vì chúng sanh vốn đã thành Phật từ xưa đến giờ”, tại sao như thế? Nếu nghiên cứu kỹ hơn, chúng ta sẽ thấy: Chúng sinh vốn từ cõi Chơn Tâm tức là cõi Phật, nhưng vì còn u mê (Vô minh) mà đã rời xa cõi ấy với cái Tâm phân biệt, đầy vọng tưởng cho nên để rồi mượn đến tứ đại, kiến đại, hư không để tạo nên thân xác cùng nhận thức. Rồi cái Tâm bị trói buộc trong thân xác ấy, lại thêm các nhu cầu đòi hỏi phải đáp ứng, cung phụng cho thân xác như ăn uống, mặc ấm chống lạnh, trừ nóng…của môi trường sống làm cho thêm nhiều trói buộc. Nhu cầu sống đòi hỏi càng ngày càng cao, sự yêu thích, ham muốn (ái, dục) càng lúc càng nhiều gây nên lòng tham không đáy; không được như ý thì sanh sân hận; cuối cùng do không kiềm nén được (si) mà tạo nên những ác nghiệp do các hành động sát, đạo, dâm, vọng. Từ đó những hạt nhân (ác lẫn thiện) hướng dẫn ta đi vòng vòng trong Luân hồi không thoát ra được. Nhưng khi ta biết tháo gỡ, hành thiện và tu hành để tạo nhân tốt, loại trừ nhân xấu đến khi trở về thành Bậc Giác Ngộ, tức là thành Phật thì cũng trở về cõi Chơn Tâm ấy. Trong quá trình đó Đức Phật ví chúng sinh khi “vô minh” rời cõi Phật (Chơn Tâm) giống như là quặng vàng; sự trôi nỗi, lang thang cho đến khi trở về nơi cũ, giống như là quặng vàng ấy đã được tôi luyện thành vàng ròng; và khi đã là vàng ròng thì không bao giờ trở lại thành quặng nữa. Và mọi chuyện xảy ra trong quá khứ giống như là một giấc mộng dài (đại mộng) của đêm hôm qua.

Tuy nhiên, trong Kinh Viên Giác (chương: Tịnh Chư Nghiệp Chướng), cũng như Kinh Kim Cang dẫn cho chúng ta biết rõ hơn về những điều vọng tưởng, tâm phân biệt mà đã được đề cập đến trong Kinh Lăng Nghiêm là: “Nhân, Ngã, Chúng sinh và Thọ giả”, để giảng giải cho hành giả hiểu thấu đáo cái cốt yếu khiến cho họ khó thành được Đạo. Tại sao “Nhân, Ngã, Chúng sinh và Thọ giả” lại quan trọng như vậy? Trong Kinh Lăng Nghiêm Đức Phật nhấn mạnh đến cái “Vọng Tâm”, “Tâm phân biệt”; vì chúng mà chúng sinh mới sa vào “sinh tử luân hồi”. Nếu muốn trở về nơi “hoàn toàn thanh tịnh” (Cõi Phật, Chơn Như, Bồ Đề, Niết Bàn, Pháp Tánh, Yêm Ma La Thức, Không Như Lai Tạng, Đại Viên Cảnh Trí) thì trước hết là phải thoát khỏi cái Vọng Tâm, vì “căn bản của sanh tử luân hồi là vọng tâm”, tức là bước đầu trở thành Bậc Giác Ngộ. Nhưng quan trọng hơn, chính là ở nơi cái “Tâm phân biệt”! Phân biệt cái gì? Và sự phân biệt ấy có ảnh hưởng như thế nào với cái cõi chung (cõi Phật) như thế? Ở đây, chúng tôi muốn kể một ví dụ để chúng ta có thể dễ hiểu hơn:

Ví dụ trong cùng một căn phòng tập họp rất nhiều vị trí thức với nhau. Nếu ai cũng biết nhường, nương vào nhau thì không có biến động nào xảy ra cả. Tuy nhiên, có một hay vài người nào đó vì thấy chật chội, bực bội lại bắt đầu nảy sinh mình phải được thoải mái, hay được hưởng lợi ích khá hơn, rồi bắt đầu đòi hỏi thế nấy thế kia, hoặc tranh giành. Tất nhiên có tình trạng như vậy thì sẽ có xung đột để rồi phải có sự phân tán, phá tan cái tập hợp, đoàn thể chung ấy. Và nếu mọi người biết nương, hòa hợp nhau thì sự yên ổn ấy được lâu dài, tùy theo sự dung nạp, nhường nhịn được càng lâu thì sự kết hợp cùng nhau được lâu bền chừng ấy.

Thì trong cõi Phật cũng vậy: Nếu đã thành Phật và vào cõi Phật mà còn thấy mình (Ngã), khác với Phật khác (Nhân) hay toàn thể các Phật (Chúng sinh) thì sự kết hợp sẽ không còn nữa; Cõi Phật không còn là cõi Thanh Tịnh với bốn Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh mà trở thành cõi Uế Độ. Và, sự kết hợp đó có trường tồn lâu dài hay không là điều mà các Đức Phật cần ý thức rõ, đó chính là: “Thọ Giả”. Nhưng các vị Phật “trở về” trong thời gian nầy đã hết “Vô Minh”, nên không còn Vọng Tưởng và Tâm Phân Biệt, giống như quặng vàng đã được tôi luyện trở thành vàng ròng rồi, nên không bao giờ trở lại thành quặng nữa.

Và để chúng ta có thể hiểu các Đức Phật đã thành đạo trong thời quá khứ, đang trong thời hiện tại cũng như sẽ thành trong tương lai như thế nào, chúng tôi xin phép trích dẫn vài đoạn Kinh để chúng ta có thể nghiền ngẫm, suy tư xem như thế nào:

-“Khi Tâm hoàn toàn thanh tịnh rồi, thì cái trí quang sáng suốt hiện ra. Lúc bấy giờ chơn tâm ông vừa tịch tịnh lại vừa chiếu soi, bao trùm khắp cả mười phương hư không thế giới, lúc bấy giờ ông trở lại xem cảnh vật hiện tiền ở thế gian này, cũng như là việc trong chiêm bao”.    (Kinh Lăng Nghiêm).

-“Thí như trăm ngàn ngọn đèn, đồng đốt trong một căn nhà, ánh sáng của mỗi ngọn đèn tuy đều chiếu khắp cả nhà, nhưng không có lộn lạo hay lấn diệt lẫn nhau”.  (Kinh Viên Giác)

-“Còn ta (Phật) thì trái với vọng trần, hiệp với chơn tâm thường trụ bất sanh, bất diệt, biến khắp cả pháp giới. Cho nên ta mới được tự tại vô ngại: Ở trong một hiện ra vô lượng, vô lượng hiệp làm một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ; không rời nơi đạo tràng mà hiện khắp cả mười phương thế giới. Thân ta bao trùm mười phương hư không vô tận. Trên đầu một mảy lông hiện ra các cõi nước; ngồi trong hạt bụi, mà chuyển đại pháp luân. Vì ta diệt hết vọng trần, trở lại với bản tâm thanh tịnh trong suốt, nên mới được như vậy”.   (Kinh Lăng Nghiêm).

Để kết luận, chúng tôi hi vọng đây là một “Góc Nhìn” hạn hẹp của mình, về một tôn giáo có lý thuyết khá bí hiểm, cao thâm mà nhiều người từng bỏ bao nhiêu công sức ra nghiên cứu, tìm hiểu; thì chúng tôi cũng mạo muội ghi lại những gì mình lĩnh hội được dù không nhiều, nhằm giúp thêm vài ý kiến để chúng ta cùng nhau hiểu hơn về giáo lý của Đạo Phật, và cùng đi tìm một sự đúng đắn, lẫn thực hành sao cho có kết quả!

Xin thành kính tạ ơn lòng!

 

Nguyên Thảo,

07/04/2025.

 

Thursday, April 3, 2025

*Góc Nhìn! (5)


Đó là sự giải thích về con người, chúng sinh; chứ khi chúng sinh bắt đầu bước xuống “Mê Tân” để tham dự cuộc chơi dưới dòng sông, bằng những trò chơi giành giựt, lừa đảo, đâm chém, hơn thua với những Tham, Sân, Si của mình; thì đã tạo dòng sông ấy thành bể khổ mênh mông (Khổ hải). Trò chơi nhấn chìm chúng sinh xuống dưới đáy sông hay có lúc nổi lên trên mặt nước, hoặc chìm xuống lưng chừng ấy là sự chìm nổi trong Lục Đạo Luân Hồi, không biết lúc nào thoát ra, vì mình bị người khác hại mình do nơi mình đã hại người trước kia, nên họ nhất định phải đòi lại hoặc trả thù. Cứ thế mà kéo dài cuộc sống trong cõi Luân Hồi không thôi. Lại có nhiều người hay chúng sinh mãi mê đi chơi quá xa bờ; đến một lúc, người hay chúng sinh nào đó cảm thấy chán nãn, không thích chơi nữa thì họ sẽ quay đầu lại để tiến vào bờ ấy là “Hồi Đầu Thị Ngạn”. Họ tiến vào bờ bằng nhiều cách: Hoặc quyết tâm, cắt bỏ tất cả (Đi Tu, Tu Sĩ), hoặc nửa Đạo, nửa Đời (Cư Sĩ), hay chỉ là Thiện Tri Thức làm điều lành, lánh dữ, bỏ ác, làm thiện, tùy theo hoàn cảnh, suy nghĩ của họ mà họ chọn con đường để đi. Khi đến bờ, bấy giờ gọi là “Bờ Giác” (Giác Ngạn), và những ai bước được lên bờ trở thành Bậc Giác Ngộ, là Phật, là Như Lai… có Tâm trong sáng, nhìn thấy rõ mọi điều vì có được Lậu Tận Thông, một trong Lục Thần Thông. Cõi dung chứa những người, chúng sinh như vậy là Niết Bàn, là Chơn Tâm, là Pháp Giới vô biên, hay Bồ Đề, Yêm Ma La Thức, Không Như Lai Tạng, hoặc là Đại Viên Cảnh Trí.

Vậy, trong giáo lý nhà Phật, Đức Phật đã hướng dẫn chúng sinh thoát vòng sinh tử như thế nào? Đức Phật đã khẳng định rõ ràng là: “Ai ăn nấy no, ai tu nấy đắc, không ai có thể thay thế cho ai được”, vì nghiệp của người nào đó do chính họ trói buộc ở nhiều đời nhiều kiếp, vì vậy chỉ có họ mới tháo gỡ cho chính họ mà thôi! Người ta nói một quả bóng tuyết tròn càng lăn xa thì tuyết bám vào càng nhiều, bóng ấy càng to ra. Cũng vậy, thì ở đây Phật Tánh của mỗi người, chúng sinh từ khi rời nơi chốn khởi đầu thanh tịnh, càng lăn lộn trong vòng chơi của Luân Hồi càng xa, càng lâu thì nghiệp chướng càng nhiều, cho nên khi quay đầu lại để vào được bờ thì phải lâu hơn, sự tháo gỡ các lớp bao phủ bên ngoài càng gian nan; nếu mà nhiều nhân ác chừng nào thì sự trả quả càng kéo dài ra. Bởi thế, nên trong Đạo Phật khuyên người, chúng sinh cần hành Thiện, vì với nhân thiện không phải trả quả và sớm được chấm dứt luân hồi.

Con đường nào mà Đức Phật đã chỉ cho chúng ta tiến đến giải thoát và giác ngộ? Con đường ấy qua sáu điều thực hành: “Lục Độ Ba La Mật”.  Vậy Lục Độ Ba La Mật là gì? Lục Độ là 6 điều hay 6 bước phải thực hiện; Ba la mật là năng nỗ, tận cùng rốt ráo, làm đến đỗi mà không nhớ đến mình đã làm giống như mình thi ân, làm phước mà không cần đến đền đáp báo ơn và cũng chẳng hề kể ơn. Sáu điều ấy là Bố Thí Ba La Mật (bố thí cho người khác về tiền tài, vật lực hay nói, giảng pháp); Trì Giới Ba La Mật (giữ giới nghiêm ngặt, không sơ hở trì hoãn); Nhẫn Nhục Ba La Mật (nhẫn nhục tận cùng, tránh khởi tâm sân hận); Tinh Tấn Ba La Mật (càng ngày càng tiến bộ hơn cho đến hết mức mình có thể thực hiện được); Thiền Định Ba La Mật (tham thiền đến chỗ định được Tâm tối đa); và Trí Huệ Ba La Mật (đạt được Sự Thấu Hiểu rốt ráo, tận cùng). Đó là con đường giải thoát mà Đức Phật hướng dẫn, tuyên xưng mà người mong cầu đạt Đạo cần phải thực hiện, và phải do chính người cầu đạo làm như tinh thần: “Tự thắp đuốc lên mà đi”!

Và cũng ở trong một phần khác, nơi các phẩm trợ đạo, tức là những phương pháp phụ giúp, hỗ trợ cho người thực hành sự giải thoát, thực hiện được dễ dàng hơn như: Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Chánh Đạo; thì trong phần Bát Chánh Đạo chỉ rõ các phần: Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng thuộc về “Giới”; “Định” gồm có Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định; và khi được Định thì đạt đến “Tuệ” hay gọi là “Tam Vô Lậu Học”. Nhưng tất cả phần nầy đúng như tên gọi chúng chỉ là những phần “yểm trợ, trợ giúp” cho việc thực hành đạo, để củng cố tinh thần, sự định tâm trên con đường Đạo Đế.

Tóm lại, Lục Độ, hay Giới Định Tuệ là những giai đoạn thực hành để tiến đến sự Giác Ngộ cho người tu hành. Người tu cần khiêm cung các giới luật lấy giới luật làm thầy; thực hành Thiền Định cho tinh tấn, hết lòng thì sẽ đạt đến Trí Tuệ mà thôi. Còn trong Lục Độ Ba La Mật thì chỉ rõ hơn là phần Bố Thí rộng khắp để chứng tỏ lòng từ bi của mình đối với muôn loài không phân biệt.

Tại sao chúng ta rút lại còn những phần chính yếu như vậy? Chỉ ở những phần thực hành trái với những gì đã làm trong quá khứ, hay ở các tự viện thực hiện từ lâu. Điều nầy đưa đến cho ta những giải thích như sau:

Chúng ta cần nhớ lại rằng: Đức Phật sau bao năm đi tìm học những lý thuyết của những bậc thầy, nhưng không tìm được lối tu nào thỏa mãn với ước nguyện; Cuối cùng Ngài quyết chí “tu chết bỏ” dưới cội Bồ Đề, thì sau 49 ngày, Ngài đạt được Đạo. Ngài khám phá ra được các chân lý tối thượng. Rồi từ đó, Ngài đi dong ruỗi trong hơn 45 năm để truyền bá những “cái” mà Ngài “thấy biết” trong khi đạt Đạo. Đó là “Tri kiến” của Ngài cũng như các Đức Phật trong thời quá khứ, hiện tại hay vị lai cũng sẽ “thấy” được như vậy không khác; Thế cho nên những “Tri Kiến Phật” ấy được Ngài đi khai hóa cho mọi người, chúng sinh được biết, được hiểu để tự mình dấn thân trên con đường tu tập hầu giải thoát cho chính mình khỏi sự khổ đau, thoát vòng Luân hồi, và trở về với bản thể trong sáng, sáng suốt, chiếu soi (Tự thắp đuốc lên mà đi). Ngài thuyết pháp, rao giảng vào lúc đầu theo nhận thức cao siêu của Ngài, cho nên mọi người không thể hiểu được vì do trình độ quá cao, khác với đời sống thường nhật, do vậy người, chúng sinh ngơ ngác, không thể hiểu (như Kinh Hoa Nghiêm). Sau đó, Ngài phải giảng thấp hơn, tùy theo căn cơ của chúng sinh mà giảng để mọi người cùng hiểu được, mà chọn cho mình con đường thực hành. Những giáo pháp, bài giảng do Ngài giảng ra chỉ là phương tiện để cho mọi người, chúng sinh hiểu; chứ không phải để cho chúng sinh bám víu, dính chặt vào đó, biến thành mục tiêu cuối cùng, là cứu cánh. Nhưng vì chúng ta không được sinh vào thời của Đức Phật, nên sự hiểu không được rõ ràng, mà Kinh điển thì nhiều; Hơn nữa, nhiều ngôn từ chuyên môn khó hiểu, khó tưởng tượng được cái khung cảnh, cảnh giới miêu tả trong Kinh; lại thêm từ ngữ như chúng ta thưòng gặp với nhiều tiếng Hán Việt, cùng Phạn Ngữ khiến cho người đời sau có thêm nhiều khó khăn để hiểu. Muốn hiểu thì phải học Tiếng Hán Việt, tiếng Phạn, phải hiểu từ chuyên môn, vì thế khiến ta dính mắc vào Kinh điển nhiều hơn. Rồi từ sự nghiên cứu, tùy theo ý thích mà người chọn Kinh nầy, hay Kinh khác để sau đó biến thành tông phái riêng của mình, của nhóm. Cho nên rốt cuộc cũng quanh quẩn vào giáo lý, chưa thoát ra khỏi “cái bè” giáo lý ấy; thay vì chỉ muợn lấy cái bè đó để sang sông như trong Kinh Lăng Nghiêm có ghi:

“Các ông nên biết: Ta cũng như người dùng ngón tay chỉ mặt trăng, các ngươi phải nhơn ngón tay mà xem mặt trăng. Nếu chấp ngón tay cho là mặt trăng, thì chẳng những không thấy được mặt trăng, mà cũng không biết luôn ngón tay. Vì cho ngón tay là mặt trăng, thì không những không biết ngón tay là gì, mà cũng không biết thế nào là tối và sáng. Vì mê chấp ngón tay là mặt trăng, thì tối và sáng làm sao rõ được”.    (Phật Học Phổ Thông, Kinh Lăng Nghiêm, Hòa Thượng Thích Thiện Hoa).

Hay cũng trong Phật Học Phổ Thông, phần Kinh Viên Giác có đoạn:

“Nầy Thiện nam! Tất cả kinh giáo của Như Lai đều như ngón tay để chỉ mặt trăng Viên Giác (chơn lý). Vậy các ông phải biết: Đây là ngón tay kinh giáo chớ không phải mặt trăng Viên Giác. Nếu các ông chỉ cố chấp ngón tay, thì không bao giờ thấy được mặt trăng. Những người biết nhơn ngón tay kinh giáo nầy, mà nhận được mặt trăng Viên Giác, thì gọi là Bồ Tát lên Thánh Địa, tùy thuận tánh Viên Giác”. (Chương Thanh Tịnh Huệ)

 

Nguyên Thảo,

04/04/2025.