Thursday, April 3, 2025

*Góc Nhìn! (5)


Đó là sự giải thích về con người, chúng sinh; chứ khi chúng sinh bắt đầu bước xuống “Mê Tân” để tham dự cuộc chơi dưới dòng sông, bằng những trò chơi giành giựt, lừa đảo, đâm chém, hơn thua với những Tham, Sân, Si của mình; thì đã tạo dòng sông ấy thành bể khổ mênh mông (Khổ hải). Trò chơi nhấn chìm chúng sinh xuống dưới đáy sông hay có lúc nổi lên trên mặt nước, hoặc chìm xuống lưng chừng ấy là sự chìm nổi trong Lục Đạo Luân Hồi, không biết lúc nào thoát ra, vì mình bị người khác hại mình do nơi mình đã hại người trước kia, nên họ nhất định phải đòi lại hoặc trả thù. Cứ thế mà kéo dài cuộc sống trong cõi Luân Hồi không thôi. Lại có nhiều người hay chúng sinh mãi mê đi chơi quá xa bờ; đến một lúc, người hay chúng sinh nào đó cảm thấy chán nãn, không thích chơi nữa thì họ sẽ quay đầu lại để tiến vào bờ ấy là “Hồi Đầu Thị Ngạn”. Họ tiến vào bờ bằng nhiều cách: Hoặc quyết tâm, cắt bỏ tất cả (Đi Tu, Tu Sĩ), hoặc nửa Đạo, nửa Đời (Cư Sĩ), hay chỉ là Thiện Tri Thức làm điều lành, lánh dữ, bỏ ác, làm thiện, tùy theo hoàn cảnh, suy nghĩ của họ mà họ chọn con đường để đi. Khi đến bờ, bấy giờ gọi là “Bờ Giác” (Giác Ngạn), và những ai bước được lên bờ trở thành Bậc Giác Ngộ, là Phật, là Như Lai… có Tâm trong sáng, nhìn thấy rõ mọi điều vì có được Lậu Tận Thông, một trong Lục Thần Thông. Cõi dung chứa những người, chúng sinh như vậy là Niết Bàn, là Chơn Tâm, là Pháp Giới vô biên, hay Bồ Đề, Yêm Ma La Thức, Không Như Lai Tạng, hoặc là Đại Viên Cảnh Trí.

Vậy, trong giáo lý nhà Phật, Đức Phật đã hướng dẫn chúng sinh thoát vòng sinh tử như thế nào? Đức Phật đã khẳng định rõ ràng là: “Ai ăn nấy no, ai tu nấy đắc, không ai có thể thay thế cho ai được”, vì nghiệp của người nào đó do chính họ trói buộc ở nhiều đời nhiều kiếp, vì vậy chỉ có họ mới tháo gỡ cho chính họ mà thôi! Người ta nói một quả bóng tuyết tròn càng lăn xa thì tuyết bám vào càng nhiều, bóng ấy càng to ra. Cũng vậy, thì ở đây Phật Tánh của mỗi người, chúng sinh từ khi rời nơi chốn khởi đầu thanh tịnh, càng lăn lộn trong vòng chơi của Luân Hồi càng xa, càng lâu thì nghiệp chướng càng nhiều, cho nên khi quay đầu lại để vào được bờ thì phải lâu hơn, sự tháo gỡ các lớp bao phủ bên ngoài càng gian nan; nếu mà nhiều nhân ác chừng nào thì sự trả quả càng kéo dài ra. Bởi thế, nên trong Đạo Phật khuyên người, chúng sinh cần hành Thiện, vì với nhân thiện không phải trả quả và sớm được chấm dứt luân hồi.

Con đường nào mà Đức Phật đã chỉ cho chúng ta tiến đến giải thoát và giác ngộ? Con đường ấy qua sáu điều thực hành: “Lục Độ Ba La Mật”.  Vậy Lục Độ Ba La Mật là gì? Lục Độ là 6 điều hay 6 bước phải thực hiện; Ba la mật là năng nỗ, tận cùng rốt ráo, làm đến đỗi mà không nhớ đến mình đã làm giống như mình thi ân, làm phước mà không cần đến đền đáp báo ơn và cũng chẳng hề kể ơn. Sáu điều ấy là Bố Thí Ba La Mật (bố thí cho người khác về tiền tài, vật lực hay nói, giảng pháp); Trì Giới Ba La Mật (giữ giới nghiêm ngặt, không sơ hở trì hoãn); Nhẫn Nhục Ba La Mật (nhẫn nhục tận cùng, tránh khởi tâm sân hận); Tinh Tấn Ba La Mật (càng ngày càng tiến bộ hơn cho đến hết mức mình có thể thực hiện được); Thiền Định Ba La Mật (tham thiền đến chỗ định được Tâm tối đa); và Trí Huệ Ba La Mật (đạt được Sự Thấu Hiểu rốt ráo, tận cùng). Đó là con đường giải thoát mà Đức Phật hướng dẫn, tuyên xưng mà người mong cầu đạt Đạo cần phải thực hiện, và phải do chính người cầu đạo làm như tinh thần: “Tự thắp đuốc lên mà đi”!

Và cũng ở trong một phần khác, nơi các phẩm trợ đạo, tức là những phương pháp phụ giúp, hỗ trợ cho người thực hành sự giải thoát, thực hiện được dễ dàng hơn như: Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Chánh Đạo; thì trong phần Bát Chánh Đạo chỉ rõ các phần: Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng thuộc về “Giới”; “Định” gồm có Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định; và khi được Định thì đạt đến “Tuệ” hay gọi là “Tam Vô Lậu Học”. Nhưng tất cả phần nầy đúng như tên gọi chúng chỉ là những phần “yểm trợ, trợ giúp” cho việc thực hành đạo, để củng cố tinh thần, sự định tâm trên con đường Đạo Đế.

Tóm lại, Lục Độ, hay Giới Định Tuệ là những giai đoạn thực hành để tiến đến sự Giác Ngộ cho người tu hành. Người tu cần khiêm cung các giới luật lấy giới luật làm thầy; thực hành Thiền Định cho tinh tấn, hết lòng thì sẽ đạt đến Trí Tuệ mà thôi. Còn trong Lục Độ Ba La Mật thì chỉ rõ hơn là phần Bố Thí rộng khắp để chứng tỏ lòng từ bi của mình đối với muôn loài không phân biệt.

Tại sao chúng ta rút lại còn những phần chính yếu như vậy? Chỉ ở những phần thực hành trái với những gì đã làm trong quá khứ, hay ở các tự viện thực hiện từ lâu. Điều nầy đưa đến cho ta những giải thích như sau:

Chúng ta cần nhớ lại rằng: Đức Phật sau bao năm đi tìm học những lý thuyết của những bậc thầy, nhưng không tìm được lối tu nào thỏa mãn với ước nguyện; Cuối cùng Ngài quyết chí “tu chết bỏ” dưới cội Bồ Đề, thì sau 49 ngày, Ngài đạt được Đạo. Ngài khám phá ra được các chân lý tối thượng. Rồi từ đó, Ngài đi dong ruỗi trong hơn 45 năm để truyền bá những “cái” mà Ngài “thấy biết” trong khi đạt Đạo. Đó là “Tri kiến” của Ngài cũng như các Đức Phật trong thời quá khứ, hiện tại hay vị lai cũng sẽ “thấy” được như vậy không khác; Thế cho nên những “Tri Kiến Phật” ấy được Ngài đi khai hóa cho mọi người, chúng sinh được biết, được hiểu để tự mình dấn thân trên con đường tu tập hầu giải thoát cho chính mình khỏi sự khổ đau, thoát vòng Luân hồi, và trở về với bản thể trong sáng, sáng suốt, chiếu soi (Tự thắp đuốc lên mà đi). Ngài thuyết pháp, rao giảng vào lúc đầu theo nhận thức cao siêu của Ngài, cho nên mọi người không thể hiểu được vì do trình độ quá cao, khác với đời sống thường nhật, do vậy người, chúng sinh ngơ ngác, không thể hiểu (như Kinh Hoa Nghiêm). Sau đó, Ngài phải giảng thấp hơn, tùy theo căn cơ của chúng sinh mà giảng để mọi người cùng hiểu được, mà chọn cho mình con đường thực hành. Những giáo pháp, bài giảng do Ngài giảng ra chỉ là phương tiện để cho mọi người, chúng sinh hiểu; chứ không phải để cho chúng sinh bám víu, dính chặt vào đó, biến thành mục tiêu cuối cùng, là cứu cánh. Nhưng vì chúng ta không được sinh vào thời của Đức Phật, nên sự hiểu không được rõ ràng, mà Kinh điển thì nhiều; Hơn nữa, nhiều ngôn từ chuyên môn khó hiểu, khó tưởng tượng được cái khung cảnh, cảnh giới miêu tả trong Kinh; lại thêm từ ngữ như chúng ta thưòng gặp với nhiều tiếng Hán Việt, cùng Phạn Ngữ khiến cho người đời sau có thêm nhiều khó khăn để hiểu. Muốn hiểu thì phải học Tiếng Hán Việt, tiếng Phạn, phải hiểu từ chuyên môn, vì thế khiến ta dính mắc vào Kinh điển nhiều hơn. Rồi từ sự nghiên cứu, tùy theo ý thích mà người chọn Kinh nầy, hay Kinh khác để sau đó biến thành tông phái riêng của mình, của nhóm. Cho nên rốt cuộc cũng quanh quẩn vào giáo lý, chưa thoát ra khỏi “cái bè” giáo lý ấy; thay vì chỉ muợn lấy cái bè đó để sang sông như trong Kinh Lăng Nghiêm có ghi:

“Các ông nên biết: Ta cũng như người dùng ngón tay chỉ mặt trăng, các ngươi phải nhơn ngón tay mà xem mặt trăng. Nếu chấp ngón tay cho là mặt trăng, thì chẳng những không thấy được mặt trăng, mà cũng không biết luôn ngón tay. Vì cho ngón tay là mặt trăng, thì không những không biết ngón tay là gì, mà cũng không biết thế nào là tối và sáng. Vì mê chấp ngón tay là mặt trăng, thì tối và sáng làm sao rõ được”.    (Phật Học Phổ Thông, Kinh Lăng Nghiêm, Hòa Thượng Thích Thiện Hoa).

Hay cũng trong Phật Học Phổ Thông, phần Kinh Viên Giác có đoạn:

“Nầy Thiện nam! Tất cả kinh giáo của Như Lai đều như ngón tay để chỉ mặt trăng Viên Giác (chơn lý). Vậy các ông phải biết: Đây là ngón tay kinh giáo chớ không phải mặt trăng Viên Giác. Nếu các ông chỉ cố chấp ngón tay, thì không bao giờ thấy được mặt trăng. Những người biết nhơn ngón tay kinh giáo nầy, mà nhận được mặt trăng Viên Giác, thì gọi là Bồ Tát lên Thánh Địa, tùy thuận tánh Viên Giác”. (Chương Thanh Tịnh Huệ)

 

Nguyên Thảo,

04/04/2025.

  

No comments:

Post a Comment