Friday, September 5, 2025

*Cuốn Theo Chiều Gió!

 

(Phần II: Vài Vấn Đề Trong Đạo Phật).

Đúng ra, những bài viết tiếp theo nó vẫn mang tên là “Cuốn Theo Chiều Gió”, nhưng vì sự rườm rà của ý ấy, cho nên trong những phần nầy chúng tôi chỉ rút gọn lại cái tựa đề thứ hai, đó là “Vài vấn đề trong Đạo Phật” để mở đầu cho những ý kiến riêng của mình, đóng góp vào sự đi tìm những hợp lý cho những thắc mắc, hay ngộ nhận mà người ta đã có khi nói về Đạo Phật. Vì thế để mở đầu cho các vấn đề mà có nhiều người đã thắc mắc hay khó hiểu được nêu lên từ trước, chúng tôi xin mạn phép trích ra hai bài Kinh nầy quý vị tham khảo, đọc qua:

 

Vấn Đề I: Hai Bài Kinh.

Trong Đạo Phật có hai câu chuyện mà chúng ta cần để ý một chút, để từ đó có thể hiểu những gì mà Đức Phật đã thuyết giảng trên 45 năm trên bước đường hành đạo, sau khi Ngài đã tự Giác Ngộ được qua Thiền Định trong 49 ngày quyết tâm. Câu chuyện thứ nhất là Ngài nói về nắm lá trong tay:

Chuyện trong Kinh kể lại rằng: “Một thời, Thế Tôn trú ở Kosambi (gần Allanhabad), tại rừng Simsapà. Ngài lấy tay nhặt lên một ít lá simsapà, rồi bảo các Tỳ kheo: “Các ông nghĩ thế nào, này các Tỳ kheo, cái gì là nhiều hơn, một số ít lá simsapà mà ta nắm lấy trong tay, hay lá trong rừng Simsapà?”. “Thật là quá ít, bạch Thế Tôn, một ít lá simsapà mà thế Tôn nắm lấy trong tay, và thật là quá nhiều lá trong rừng Simsapà”. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, thật là quá nhiều, những gì ta đã thắng tri mà không nói cho các ông! Thật là quá ít những gì mà ta đã nói ra! Nhưng tại sao, này các Tỳ kheo, ta lại không nói ra những điều ấy? Vì rằng, này các Tỳ kheo, những điều ấy không liên hệ đến mục đích, không phải là căn bản cho phạm hạnh, không đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng tri, giác ngộ, Niết Bàn. Do vậy, ta không nói lên những điều ấy” (Kinh Tương Ưng Bộ V, chương 12: Tương Ưng sự thật, phẩm Rừng Simsapà).

Và câu chuyện thứ hai:

 

Phật Nói Kinh Dụ Mũi Tên

 

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

Nguồn: Hán dịch: Mất tên người dịch, phụ lục Ðông Tấn


Nghe như vầy:

Một thời Bạt Già Bà ở tại vườn ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây ông Kỳ Ðà, thành Xá Vệ. Bấy giờ tôn giả Ma La Cưu Ma La một mình ở chỗ vắng vẻ sanh ra ý nghĩa như vầy: “Ðức Thế Tôn bỏ tà kiến, trừ tà kiến nhưng không nói: “Thế gian là hữu thường hay thế gian là vô thường hay thế gian là vô thường, thế gian là hữu biên hay thế gian là vô biên? Mạng là thân hay mạng là khác, thân khác có mạng chung hay không có mạng chung? Cũng có, cũng không có vấn đề không có mạng chung?”. Ta không thể chấp nhận, không thể xử dụng được, không thể vui được, nếu đức Thế Tôn một mực nói về thế gian “Thế gian là hữu thường” ta sẽ theo Ngài tu phạm hạnh. Nếu Thế Tôn một mực không chịu nói “Thế gian là hữu thường” ta sẽ tranh luận với Ngài rồi bỏ đi. Cũng như vậy “Thế gian là hữu biên, thế gian là vô biên, hay mạng khác thân khác, có vấn đề mạng chung hay không có vấn đề mạng chung? Có hay không có vấn đề “không có mạng chung?”. Nếu đức Thế Tôn một mực nói với ta rằng: “Chỉ có đây là chơn thật, ngoài ra là ngu si”, ta sẽ tu phạm hạnh với Ngài. Còn nếu đức Thế Tôn một mực không nói: “Ðây là chơn thật, ngoài ra là ngu si”, ta hỏi xong rồi bỏ đi”.

Bấy giờ, tôn giả Ma La Cưu Ma La sau buổi trưa đứng dậy đi đến chỗ đức Thế Tôn, đến rồi lạy dưới chân đức Thế Tôn, ngồi qua một bên. Tôn giả Ma La Cưu Ma La đã ngồi qua một bên rồi, bạch Thế Tôn rằng:

-Thưa Thế Tôn, con ở chỗ vắng vẻ, khởi lên ý nghĩ rằng: “Ðức Thế Tôn bỏ tà kiến, trừ tà kiến, không nói: “thế gian hữu thường, cho đến không có mạng chung”. Ðiều này con không muốn, con không thể chịu được, không ưa thích, nếu đức Thế Tôn một mực biết “thế gian là hữu thường” thì đức Thế Tôn cứ nói ra. Còn nếu đức Thế Tôn hoàn toàn không biết là “thế gian hữu thường” thì xin Ngài cứ nói thẳng ra là: “Ta không biết” cũng như vậy “thế gian là vô thường cho đến không có mạng chung”, nếu đức Thế Tôn hoàn toàn biết rõ thì xin hãy nói cho con rằng: “Ðây là chơn thật ngoài ra là ngu si”. Ðức Thế Tôn nên ghi nhận như vậy. Còn nếu đức Thế Tôn không biết “Ðây là chơn thật, ngoài ra là ngu si” thì Ngài cứ nói thẳng cho con rằng “Ngài không biết”.

Này Ma La Cưu Ma La, trước đây ta có từng nói với ngươi rằng: nếu ta nói “thế gian là hữu thường” thì ngươi hãy theo ta mà tu hành Phạm hạnh chăng?

-Không có, thưa Thế Tôn!

Cũng như vậy, “thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung”. Nếu ta nói “lời của ta là chơn Phạm hạnh chăng?

-Không có, thưa Thế Tôn!

Này Ma La Cưu Ma La, trước đây ngươi nói với ta: nếu Thế Tôn một mực cho là “thế gian là hữu thường” thì tôi sẽ theo Ngài để tu Phạm hạnh chăng?

-Không có, thưa Thế Tôn!

Cũng như vậy, “thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung”. Nếu đức Thế Tôn nói với tôi “Ðây là chơn thật, ngoài ra là ngu si thì tôi sẽ theo Ngài tu học Phạm hạnh chăng?”.

-Chẳng phải vậy, thưa Thế Tôn!

-Này Ma La Cưu Ma La, ta vốn không nói với ngươi như vậy, ngươi cũng vốn không nói với ta như vậy. Ngươi là người ngu si, vô cớ tại sao lại hủy báng ta? Bấy giờ, tôn giả Ma La Cưu Ma La bị đức Phật quở trách thẳng vào mặt, không lời biện bạch, im lặng. Khắp cả mình mồ hôi toát ra, cúi mặt lặng thinh.

Khi ấy đức Thế Tôn quở trách thẳng vào mặt của Ma La Cưu Ma La xong, bảo các Tỳ kheo rằng:

-Ví như có kẻ ngu si nghĩ rằng: “Ta sẽ không theo đức Thế Tôn để tu Phạm hạnh, nếu đức Thế Tôn một mực nói: thế gian là hữu thường”. Người ngu si ấy chưa kịp biết gì cả, nửa chừng thì đã chết rồi. Cũng như vậy, đối với vấn đề “thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung” thì ta sẽ không theo đức Thế Tôn để tu hành Phạm hạnh. Nếu đức Thế Tôn nói với ta rằng: “Ðây là chơn thật, ngoài ra là ngu si”. Người ấy chưa biết được gì cả thì nửa chừng đã chết mất rồi.

Ví như có người bị trúng tên độc vào thân, quyến thuộc của y thương xót, muốn làm cho y được an ổn, được nhiêu ích, cấp tốc mời thầy thuốc đến nhổ mũi tên độc ra. Khi ấy người bị trúng tên độc nghĩ rằng: Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội ta muốn biết người bắn cung họ gì, tên gì, hình dạng ra sao? Kẻ ấy cao hay thấp, hay trung bình? Kẻ ấy đen hay trắng, thuộc dòng Sát lợi hay bà la môn, hay cư sĩ, hay thợ thuyền? Kẻ ấy ở phương Ðông, phương Tây, phương Nam hay phương Bắc? Tại sao lại lấy tên bắn vào ta? Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết cây cung làm bằng loại cây Tát la hay loại cây Ða la, hay loại cây Xí la ương quật lê?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết loại gân quấn cây cung làm bằng gân trâu, gân dê hay gân mèo?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết mũi tên làm bằng xương trắng, đen hay là nâu?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết dây cung làm bằng gân trâu hay gân dê hay gân mèo?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết mũi tên làm bằng cây Xá la hay cây tre, hay cây La nga lê?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết gân của cây cung ấy là gân trâu, gân dê hay gân mèo dùng để quấn nó?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết cái lông vũ gắn sau mũi tên là của chim Khổng tước hay của chim Thương hạc, hay của chim Thứu?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết sắt mà bịt đầu mũi tên là Bà ta, hay Bà la, hay Na la, hay Già la bệ?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, điều cần yếu cho ta biết người thợ làm mũi tên sắt ấy họ gì, tên gì, hình dáng ra sao, cao thấp hay trung bình? Kẻ ấy đen hay trắng, ở phương Ðông, phương Tây, phương Nam hay phương Bắc?

Nhưng người ấy chưa kịp biết gì cả, nửa chừng thì nó đã chết mất rồi. Cũng vậy, nếu có kẻ ngu si nghĩ rằng “Ta sẽ không theo đức Thế Tôn để tu Phạm hạnh, nếu đức Thế Tôn nói với ta rằng: Ðây là chơn thật, ngoài ra là ngu si”. Người ngu si ấy chưa biết được gì, dù thế gian có hữu thường, thì nửa chừng đã chết mất rồi, vì có tà kiến này. Cũng vậy, kẻ ấy sẽ theo ta tu Phạm hạnh nếu “thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung”, đây là tà kiến, y cũng sẽ theo ta tu Phạm hạnh, “thế gian là hữu thường” có tà kiến này kẻ ấy không nên theo ta để tu Phạm hạnh. Cũng như vậy, “thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung”, có tà kiến này không nên theo ta tu Phạm hạnh. Không có tà kiến này “thế gian là hữu thường” cũng nên theo ta mà tu học Phạm hạnh. Không có tà kiến này “thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung”, cũng nên theo ta mà tu học Phạm hạnh. Không có tà kiến “thế gian là hữu thường” không nên theo ta mà tu học Phạm hạnh. Không có tà kiến này “Như vậy, thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung”, không nên theo ta mà tu học Phạm hạnh.

Dù thế gian có hữu thường đi nữa thì vẫn có sanh, già, bệnh, chết, có ưu sầu khóc lóc không vui. Như vậy, khối đại khổ ấm này tập khởi. Cũng vậy, cho dù thế gian có vô thường, cho đến không có mạng chung thì vẫn có sanh, già, bệnh, chết, cho đến khối đại khổ ấm này tập khởi. Dù “thế gian có hữu thường”, điều đó ta không nói. Cũng vậy, “thế gian là vô thường, cho đến mạng chung”, điều đó ta cũng không nói. Vì sao ta lại không nói? Vì điều đó chẳng đúng nghĩa, cũng là phi pháp, chẳng phải là Phạm hạnh, không thành thần thông, không đưa đến chí đạo, không tương ưng với Niết bàn, cho nên ta không nói.

Vậy vấn đề gì ta một mực nói? Ta một mực nói đến: “Ðây là khổ”, ta một mực nói: “Ðây là khổ tập, khổ tận, trụ xứ”. Vì sao vậy? Ta một mực nói những vấn đề ấy là vì nó là nghĩa, là pháp, được thần thông, tu hành Phạm hạnh cho đến Ðẳng đạo, cùng tương ưng với Niết bàn, cho nên ta một mực nói đến. Những điều ta không nói đến thì nên bỏ đi, còn những điều ta nói đến thì nên thọ trì.

Ðức Phật nói như vậy, các Tỳ kheo nghe Thế Tôn nói xong, hoan hỷ vui mừng.




*Trường Học.


Hồi tôi về ở chung với ông Nội, cái điều dở của tôi mà về sau nầy tôi mãi hối tiếc là không hề hỏi ông Nội về trường học ngày xưa, khi mà ông Nội biết chữ Quốc Ngữ thế nào và học ra sao? Ông Nội biết chữ Quốc Ngữ vì ông thường hay mướn truyện Tàu về đọc; nhiều lần tôi được đọc “ké” vài cuốn truyện, cho nên cũng biết lan man về những bộ sách viết về lịch sử Trung Hoa ngày xưa: Từ chuyện Phong Thần, Tam Quốc Chí, Đông Châu Liệt Quốc vân.. vân.. Ông Nội sinh vào những năm cuối của Thế kỷ 19, hình như vào năm 1898 thì phải. Tôi chưa hề nghe thế hệ của Ông nói về trường học mặc dù các ông từ Ông Hai, ông Bảy thường hay tụ tập vào những buổi sáng, nhưng các ông chỉ nói về chuyện đời xưa, thời của giai đoạn oai hùng ngày nọ, hoặc đi đây đi đó mà thôi, mà sao ông nào cũng biết chữ Quốc Ngữ hết cả. Qua đến thời ba tôi thì có nghe ông, cùng các chú trang lứa thường đề cập đến những lớp học, nào là học trong lớp có người nầy, người kia phá phách, trốn học, hay bị thầy phạt ra sao, người thì hớt tóc kiểu cái ơ, hay mũng vùa... Lớp học thuở ấy chắc không có nhiều người đi học, và chỉ đàn ông là đi học nhiều, chứ mấy bà thì không được học bao nhiêu, bằng chứng là má tôi thuở tôi còn nhỏ thì không biết chữ, nhưng sau chiến tranh đến thời vừa hòa bình thì đi học lớp bình dân học vụ mới biết đọc biết viết, và nhiều bà khác cũng vậy! Đó là tôi đề cập đến những làng quê chứ không biết rõ ở các thành phố, tỉnh lớn như thế nào? Nhưng các nơi ấy thường có học sinh ở các trường nam, nữ riêng được thành lập rất là lâu, theo được biết thì lúc ấy người ta học chữ Quốc ngữ đến giai đoạn nào đó thì lại học qua chương trình Pháp và học toàn Tiếng Pháp, cho nên nhiều người nói Tiếng Tây như gió. Chứng tỏ là nhiều học giả viết nhiều cuốn sách bằng chữ Quốc Ngữ hay Tiếng Pháp, có người viết cả Tiếng Anh về nhiều đề tài, phổ biến cho đến ngày nay người ta vẫn còn sử dụng, vẫn còn dùng làm sách giáo khoa hay tham khảo. Sự học như thế nào đó mà có lắm người lại rất rành chữ Hán lẫn chữ Nôm ngoài Tiếng Anh, Tiếng Pháp; lại có nhiều người biết cả các ngoại ngữ khác nữa như Tiếng Tây Ban Nha, Tiếng Đức, Tiếng Nhật, Tiếng Tàu… tùy theo mức độ thông minh của họ. Ôi! Bọn tôi rất thán phục những người như vậy! Rồi nhìn lại mình thì sao mà rất tệ! Thế hệ tôi được đi học khá nhiều cũng là điều may mắn lắm rồi! Nhớ những năm trước một chút ở trong làng chỉ có một trường học với mấy lớp: Một lớp Đồng Ấu, tức lớp Vỡ Lòng hay là lớp 1 bây giờ; một lớp Tư (Lớp 2 bây giờ); một lớp Ba (lớp 3); một lớp Nhì (lớp 4) và một lớp Nhất (lớp 5). Học trò cũng không nhiều. Thế rồi hoà bình đến (1954), chừng hai năm sau mỗi xã chỉ có một trường Sơ Cấp (chỉ có ba lớp: Lớp Năm, Lớp Tư và Lớp Ba) với vài Thầy Cô và số học trò ít ỏi được khuyến khích cha mẹ cho đi học. Từ ấy chữ Quốc Ngữ đưọc phổ biến nhiều hơn, và trong dân chúng phong trào “Bình Dân Học Vụ” được phát động nơi nơi người ta thi đua đi học để biết đọc, biết viết (má tôi cũng tham dự trong phong trào ấy). Từ giai đoạn đó mỗi Tỉnh cũng được phát triển có một trường Trung Học Công Lập, do ngân sách chính phủ tài trợ, học sinh đi học không phải đóng học phí mà chỉ đóng một số tiền niên liễm nào đó thôi, nhưng học trò phải qua một kỳ thi tuyển. Nếu không đậu thì chỉ có nước đi học trường tư đóng học phí hàng tháng, hoặc học lại Lớp Nhứt một năm nữa đợi chờ kỳ thi tuyển sau. Như vậy, từ đây học sinh có thể học chương trình chữ Quốc Ngữ thật là rộng rãi, khắp nơi, cùng nhiều trường công lập không phải đóng tiền học phí. Lúc nầy tôi có nhiều thắc mắc về ngày xưa khi không có chữ Quốc Ngữ người ta đi học chữ Nho như thế nào, không biết có trường không và các Thầy Đồ dạy học trò ở nhà hay có trường như bây giờ, chứ theo trong các chương trình học về khoa cử ngày xưa thì cũng có nhiều cuộc thi như Thi Hương, Thi Hội, Thi Đình với nhiều sĩ tử.

Đến khi tôi và các bạn thi vào lớp Đệ Thất (Lớp Sáu) bây giờ thì mỗi Tỉnh chỉ có một Trường Trung Học Công lập, còn trường tư thì tùy theo từng Tỉnh mà có nhiều hay ít. Đến năm chúng tôi lên lên lớp Đệ Lục (Lớp Bảy) thì có nhiều Tỉnh mỗi Tỉnh có đến hai Trường Trung Học Công Lập, tiện lợi cho học sinh nghèo có thể theo đuổi sự học dễ dàng hơn. Không biết ở Miền Bắc thì như thế nào, chứ vào những năm 1967, 1968 ở Miền Nam thì ở các Quận lỵ mở thêm các trường Trung Học công lập nữa cho nên sự học cho con em dân chúng nghèo được đi học dễ dàng hơn; và từ đó bằng Trung Học không còn phải thi nữa mà chỉ thi bằng Tú Tài I (vào cuối năm lớp 11). Đậu Tú Tài I mới được lên học lớp 12, cùng bằng Tú Tài II (tức bằng Tốt nghiệp Phổ thông về sau nầy). Đậu Tú Tài II mới được lên học trên bậc Đại Học. Và với nhu cầu phát triển trong thời gian dài từ sau ngày Thống Nhất đất nước, gần như các Tỉnh thường được phát triển về Bậc Đại Học cho nhiều địa phương, đôi khi lắm địa phương lại có đến vài Trường Đại Học công lẫn tư, rất thuận lợi cho việc học của con em cùng việc đào tạo nhân tài cho đất nước.

Đó là chuyện Trường Học chung cho nền học vấn của quốc gia. Thế nhưng, chuyện tạo được nhân tài để phục vụ cho đất nước hay không lại là một chuyện khác, vì nó còn tùy thuộc vào chương trình và sự đào tạo có nghiêm chỉnh, chất lượng hay không? Với kinh nghiệm của nhiều người: Bất cứ mọi sự dễ dãi, nâng đỡ, hay bị thao túng nào cũng đưa đến sự băng hoại của nền giáo dục, chất lượng sẽ không có dù số lượng được nâng lên thật là nhiều. Như vậy các bậc tốt nghiệp, chức danh chỉ là để cho có, đánh bóng tên tuổi của ngôi trường, hay là sự phô trương về giáo dục của đất nước nào đó mà thôi, chứ đối với quốc tế nó chẳng có giá trị gì cả.

Trường là nơi để con em dân chúng đi đến để học những kiến thức thực tiển, mở mang của nhân loại thông qua các chương trình giảng dạy. Học sinh được truyền thụ từ các thầy cô giáo về những kiến thức của nhân loại từ xưa đến nay, để trang bị cho mình các điều kiện cần thiết có thể giúp ích cho mình, phụng sự cho xã hội, đất nước trong tương lai. Nói tóm lại trường học là nơi trang bị cho giới “Tinh Hoa”, thế hệ làm chủ vận mệnh đất nước, khiến đất nước được phát triển, hùng mạnh, giàu có hay không là do chính họ. Vì thế chương trình học có phẩm chất; đào tạo học sinh, sinh viên có chất lượng, hay thực tế để một khi tốt nghiệp, ra trường có thể hội nhập, hay thực hiện, đem kiến thức vào thực hiện trong các hãng xưởng, ngành công nghiệp hay chuyên ngành mà họ đã theo học được trơn tru hay không, hay là họ không phải ngỡ ngàng hoặc chẳng làm được gì cho thực tế. Ngoài ra, cách truyền đạt của những vị thầy cô, lẫn cách tổ chức, trang bị của nhà trường cũng rất quan trọng trong cách hướng dẫn học trò về cách nhận thức hay thực hành, tạo được thành quả tốt đẹp khi học trò ứng dụng những kiến thức mà họ đã học, tiếp thu được.

Từ trước đến nay, không thiếu những trường học được người ta mở ra cho mục đích kinh doanh, kiếm tiền hơn là đào tạo nhân tài cho xã hội; cho nên với sự tắc trách đó khiến học trò không đạt được kết quả. Sau khi tốt nghiệp, ra trường học trò không thể tìm được công việc làm thích ứng, hay thi thố tài năng giúp ích cho đất nước hoặc xã hội. Lại có vài vị thầy cô dễ dãi, hoặc đòi hỏi tiền bạc, vật chất để giúp đỡ những học trò yếu kém vượt qua trở ngại; khiến họ cũng chẳng làm được gì sau khi hoàn thành chương trình hay tốt nghiệp. Lại có những chế độ để nâng đỡ thành phần ưu tiên, rồi vượt qua khả năng của học trò mà cấp văn bằng cho họ để họ đáp ứng điều kiện nào đó, cũng làm cho những học trò ấy chỉ có danh mà không có chất lượng để cống hiến trên cương vị của mình. Trong trường hợp như thế nầy chỉ làm cho trường học mất thanh danh, không có giá trị mà những học trò ấy mà nằm trong thành phần lãnh đạo của đất nước nữa, thì đất nước đó chỉ đi vào đường băng hoại, nghèo đói mà thôi; vì họ chỉ là những người dốt không có giá trị gì giống như người mù, thui chột mà dẫn đường cho thiên hạ vậy!

Xem như thế, nhà trường rất là quan trọng cho những thế hệ trẻ mai sau, là nơi đào tạo các thế hệ “Tinh Hoa” cho một đất nước để đưa đất nước tiến lên. Sự tiến bộ của một quốc gia, hùng mạnh của một đất nước, hoặc sự giàu có của mọi người dân đều phụ thuộc vào thế hệ mai sau ấy. Thế thì thế hệ đi trước có mục đích gì với trường học, và cần làm gì cho các trường học? Điều ấy thật là cần thiết và cần được chú tâm một cách rất là đặc biệt và quan trọng vậy!

 

Đồ Ngông,

23/08/2025.