(Phần II: Vài Vấn Đề
Trong Đạo Phật).
Đúng ra, những bài viết
tiếp theo nó vẫn mang tên là “Cuốn Theo Chiều Gió”, nhưng vì sự rườm rà của ý ấy,
cho nên trong những phần nầy chúng tôi chỉ rút gọn lại cái tựa đề thứ hai, đó là
“Vài vấn đề trong Đạo Phật” để mở đầu cho những ý kiến riêng của mình, đóng góp
vào sự đi tìm những hợp lý cho những thắc mắc, hay ngộ nhận mà người ta đã có
khi nói về Đạo Phật. Vì thế để mở đầu cho các vấn đề mà có nhiều người đã thắc
mắc hay khó hiểu được nêu lên từ trước, chúng tôi xin mạn phép trích ra hai bài
Kinh nầy quý vị tham khảo, đọc qua:
Vấn Đề I: Hai Bài Kinh.
Trong Đạo Phật có hai câu
chuyện mà chúng ta cần để ý một chút, để từ đó có thể hiểu những gì mà Đức Phật
đã thuyết giảng trên 45 năm trên bước đường hành đạo, sau khi Ngài đã tự Giác
Ngộ được qua Thiền Định trong 49 ngày quyết tâm. Câu chuyện thứ nhất là Ngài nói
về nắm lá trong tay:
Chuyện trong Kinh kể lại
rằng: “Một thời, Thế Tôn trú ở Kosambi (gần Allanhabad), tại rừng Simsapà. Ngài
lấy tay nhặt lên một ít lá simsapà, rồi bảo các Tỳ kheo: “Các ông nghĩ thế nào,
này các Tỳ kheo, cái gì là nhiều hơn, một số ít lá simsapà mà ta nắm lấy trong
tay, hay lá trong rừng Simsapà?”. “Thật là quá ít, bạch Thế Tôn, một ít lá
simsapà mà thế Tôn nắm lấy trong tay, và thật là quá nhiều lá trong rừng Simsapà”.
Cũng vậy, này các Tỳ kheo, thật là quá nhiều, những gì ta đã thắng tri mà không
nói cho các ông! Thật là quá ít những gì mà ta đã nói ra! Nhưng tại sao, này các
Tỳ kheo, ta lại không nói ra những điều ấy? Vì rằng, này các Tỳ kheo, những điều
ấy không liên hệ đến mục đích, không phải là căn bản cho phạm hạnh, không đưa đến
yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng tri, giác ngộ, Niết Bàn. Do vậy, ta
không nói lên những điều ấy” (Kinh Tương Ưng Bộ V, chương 12: Tương Ưng sự thật,
phẩm Rừng Simsapà).
Và câu chuyện thứ hai:
Phật Nói Kinh Dụ Mũi Tên
Việt dịch: Thích Chánh Lạc
Nguồn: Hán dịch: Mất tên người dịch, phụ
lục Ðông Tấn
Nghe như vầy:
Một thời Bạt Già Bà ở tại vườn ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây ông Kỳ Ðà, thành Xá Vệ.
Bấy giờ tôn giả Ma La Cưu Ma La một mình ở chỗ vắng vẻ sanh ra ý nghĩa như vầy:
“Ðức Thế Tôn bỏ tà kiến, trừ tà kiến nhưng không nói: “Thế gian là hữu thường
hay thế gian là vô thường hay thế gian là vô thường, thế gian là hữu biên hay
thế gian là vô biên? Mạng là thân hay mạng là khác, thân khác có mạng chung hay
không có mạng chung? Cũng có, cũng không có vấn đề không có mạng chung?”. Ta
không thể chấp nhận, không thể xử dụng được, không thể vui được, nếu đức Thế
Tôn một mực nói về thế gian “Thế gian là hữu thường” ta sẽ theo Ngài tu phạm
hạnh. Nếu Thế Tôn một mực không chịu nói “Thế gian là hữu thường” ta sẽ tranh
luận với Ngài rồi bỏ đi. Cũng như vậy “Thế gian là hữu biên, thế gian là vô
biên, hay mạng khác thân khác, có vấn đề mạng chung hay không có vấn đề mạng
chung? Có hay không có vấn đề “không có mạng chung?”. Nếu đức Thế Tôn một mực
nói với ta rằng: “Chỉ có đây là chơn thật, ngoài ra là ngu si”, ta sẽ tu phạm
hạnh với Ngài. Còn nếu đức Thế Tôn một mực không nói: “Ðây là chơn thật, ngoài
ra là ngu si”, ta hỏi xong rồi bỏ đi”.
Bấy giờ, tôn giả Ma La Cưu Ma La sau buổi trưa đứng dậy đi đến chỗ đức Thế Tôn,
đến rồi lạy dưới chân đức Thế Tôn, ngồi qua một bên. Tôn giả Ma La Cưu Ma La đã
ngồi qua một bên rồi, bạch Thế Tôn rằng:
-Thưa Thế Tôn, con ở chỗ vắng vẻ, khởi lên ý nghĩ rằng: “Ðức Thế Tôn bỏ tà
kiến, trừ tà kiến, không nói: “thế gian hữu thường, cho đến không có mạng
chung”. Ðiều này con không muốn, con không thể chịu được, không ưa thích, nếu
đức Thế Tôn một mực biết “thế gian là hữu thường” thì đức Thế Tôn cứ nói ra.
Còn nếu đức Thế Tôn hoàn toàn không biết là “thế gian hữu thường” thì xin Ngài
cứ nói thẳng ra là: “Ta không biết” cũng như vậy “thế gian là vô thường cho đến
không có mạng chung”, nếu đức Thế Tôn hoàn toàn biết rõ thì xin hãy nói cho con
rằng: “Ðây là chơn thật ngoài ra là ngu si”. Ðức Thế Tôn nên ghi nhận như vậy.
Còn nếu đức Thế Tôn không biết “Ðây là chơn thật, ngoài ra là ngu si” thì Ngài
cứ nói thẳng cho con rằng “Ngài không biết”.
Này Ma La Cưu Ma La, trước đây ta có từng nói với ngươi rằng: nếu ta nói “thế
gian là hữu thường” thì ngươi hãy theo ta mà tu hành Phạm hạnh chăng?
-Không có, thưa Thế Tôn!
Cũng như vậy, “thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung”. Nếu ta nói
“lời của ta là chơn Phạm hạnh chăng?
-Không có, thưa Thế Tôn!
Này Ma La Cưu Ma La, trước đây ngươi nói với ta: nếu Thế Tôn một mực cho là
“thế gian là hữu thường” thì tôi sẽ theo Ngài để tu Phạm hạnh chăng?
-Không có, thưa Thế Tôn!
Cũng như vậy, “thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung”. Nếu đức Thế
Tôn nói với tôi “Ðây là chơn thật, ngoài ra là ngu si thì tôi sẽ theo Ngài tu
học Phạm hạnh chăng?”.
-Chẳng phải vậy, thưa Thế Tôn!
-Này Ma La Cưu Ma La, ta vốn không nói với ngươi như vậy, ngươi cũng vốn không
nói với ta như vậy. Ngươi là người ngu si, vô cớ tại sao lại hủy báng ta? Bấy
giờ, tôn giả Ma La Cưu Ma La bị đức Phật quở trách thẳng vào mặt, không lời
biện bạch, im lặng. Khắp cả mình mồ hôi toát ra, cúi mặt lặng thinh.
Khi ấy đức Thế Tôn quở trách thẳng vào mặt của Ma La Cưu Ma La xong, bảo các Tỳ
kheo rằng:
-Ví như có kẻ ngu si nghĩ rằng: “Ta sẽ không theo đức Thế Tôn để tu Phạm hạnh,
nếu đức Thế Tôn một mực nói: thế gian là hữu thường”. Người ngu si ấy chưa kịp
biết gì cả, nửa chừng thì đã chết rồi. Cũng như vậy, đối với vấn đề “thế gian
là vô thường, cho đến không có mạng chung” thì ta sẽ không theo đức Thế Tôn để
tu hành Phạm hạnh. Nếu đức Thế Tôn nói với ta rằng: “Ðây là chơn thật, ngoài ra
là ngu si”. Người ấy chưa biết được gì cả thì nửa chừng đã chết mất rồi.
Ví như có người bị trúng tên độc vào thân, quyến thuộc của y thương xót, muốn
làm cho y được an ổn, được nhiêu ích, cấp tốc mời thầy thuốc đến nhổ mũi tên
độc ra. Khi ấy người bị trúng tên độc nghĩ rằng: Ta chưa muốn nhổ tên độc ra
vội ta muốn biết người bắn cung họ gì, tên gì, hình dạng ra sao? Kẻ ấy cao hay
thấp, hay trung bình? Kẻ ấy đen hay trắng, thuộc dòng Sát lợi hay bà la môn,
hay cư sĩ, hay thợ thuyền? Kẻ ấy ở phương Ðông, phương Tây, phương Nam hay phương
Bắc? Tại sao lại lấy tên bắn vào ta? Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho
ta biết cây cung làm bằng loại cây Tát la hay loại cây Ða la, hay loại cây Xí
la ương quật lê?
Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết loại gân quấn cây cung làm bằng
gân trâu, gân dê hay gân mèo?
Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết mũi tên làm bằng xương trắng,
đen hay là nâu?
Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết dây cung làm bằng gân trâu hay
gân dê hay gân mèo?
Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết mũi tên làm bằng cây Xá la hay
cây tre, hay cây La nga lê?
Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết gân của cây cung ấy là gân
trâu, gân dê hay gân mèo dùng để quấn nó?
Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết cái lông vũ gắn sau mũi tên là
của chim Khổng tước hay của chim Thương hạc, hay của chim Thứu?
Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết sắt mà bịt đầu mũi tên là Bà
ta, hay Bà la, hay Na la, hay Già la bệ?
Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, điều cần yếu cho ta biết người thợ làm mũi tên
sắt ấy họ gì, tên gì, hình dáng ra sao, cao thấp hay trung bình? Kẻ ấy đen hay
trắng, ở phương Ðông, phương Tây, phương Nam hay phương Bắc?
Nhưng người ấy chưa kịp biết gì cả, nửa chừng thì nó đã chết mất rồi. Cũng vậy,
nếu có kẻ ngu si nghĩ rằng “Ta sẽ không theo đức Thế Tôn để tu Phạm hạnh, nếu
đức Thế Tôn nói với ta rằng: Ðây là chơn thật, ngoài ra là ngu si”. Người ngu
si ấy chưa biết được gì, dù thế gian có hữu thường, thì nửa chừng đã chết mất
rồi, vì có tà kiến này. Cũng vậy, kẻ ấy sẽ theo ta tu Phạm hạnh nếu “thế gian
là vô thường, cho đến không có mạng chung”, đây là tà kiến, y cũng sẽ theo ta
tu Phạm hạnh, “thế gian là hữu thường” có tà kiến này kẻ ấy không nên theo ta
để tu Phạm hạnh. Cũng như vậy, “thế gian là vô thường, cho đến không có mạng
chung”, có tà kiến này không nên theo ta tu Phạm hạnh. Không có tà kiến này
“thế gian là hữu thường” cũng nên theo ta mà tu học Phạm hạnh. Không có tà kiến
này “thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung”, cũng nên theo ta mà
tu học Phạm hạnh. Không có tà kiến “thế gian là hữu thường” không nên theo ta
mà tu học Phạm hạnh. Không có tà kiến này “Như vậy, thế gian là vô thường, cho
đến không có mạng chung”, không nên theo ta mà tu học Phạm hạnh.
Dù thế gian có hữu thường đi nữa thì vẫn có sanh, già, bệnh, chết, có ưu sầu
khóc lóc không vui. Như vậy, khối đại khổ ấm này tập khởi. Cũng vậy, cho dù thế
gian có vô thường, cho đến không có mạng chung thì vẫn có sanh, già, bệnh,
chết, cho đến khối đại khổ ấm này tập khởi. Dù “thế gian có hữu thường”, điều
đó ta không nói. Cũng vậy, “thế gian là vô thường, cho đến mạng chung”, điều đó
ta cũng không nói. Vì sao ta lại không nói? Vì điều đó chẳng đúng nghĩa, cũng
là phi pháp, chẳng phải là Phạm hạnh, không thành thần thông, không đưa đến chí
đạo, không tương ưng với Niết bàn, cho nên ta không nói.
Vậy vấn đề gì ta một mực nói? Ta một mực nói đến: “Ðây là khổ”, ta một mực nói:
“Ðây là khổ tập, khổ tận, trụ xứ”. Vì sao vậy? Ta một mực nói những vấn đề ấy
là vì nó là nghĩa, là pháp, được thần thông, tu hành Phạm hạnh cho đến Ðẳng
đạo, cùng tương ưng với Niết bàn, cho nên ta một mực nói đến. Những điều ta
không nói đến thì nên bỏ đi, còn những điều ta nói đến thì nên thọ trì.
Ðức Phật nói như vậy, các Tỳ kheo nghe Thế Tôn nói xong, hoan hỷ vui mừng.
No comments:
Post a Comment