Thursday, October 9, 2025

*Vài Vấn Đề Trong Đạo Phật.


*Vấn Đề I: Hai Bài Kinh.

Qua hai bài Kinh ấy, chúng ta có thể hiểu rằng: Đức Phật sau khi giác ngộ đã “Ngộ” được rất nhiều vấn đề trong đời sống cũng như vũ trụ; tuy nhiên, Ngài chỉ đề cập cho mọi người những gì là cần thiết chứ không thuyết tất cả những gì Ngài đã nhận, thấy, hiểu, biết; giống như Ngài đã so sánh “nắm lá trong tay” và lá ở trong rừng, hay có lúc Ngài lấy ví dụ khác là “đất trong móng tay so với đất bên ngoài đại địa”. Mặc dù nói thế, nhưng trong các bộ Kinh được sưu tập lại mà Ngài thuyết giảng suốt hơn 45 năm hành đạo trên thế gian, Ngài cho chúng ta biết rất nhiều điều xa lạ từ trong bản chất con người được cấu tạo từ đất, nước, gió, lửa; có cái Tâm giống như con vượn, con ngựa cho đến các thế giới của Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Câu Lưu Châu và ở trong vũ trụ có vô số thế giới, trong đó có thế giới giống như xoáy nước, giống như cây… ở trong phẩm Thế Giới Thành Tựu của Kinh Hoa Nghiêm…, hay các thế giới của Phật A Di Đà, Dược Sư Lưu Ly Quang, hoặc cõi của Bồ Tát Địa Tạng, hạnh nguyện của Ngài Quan Thế Âm… Muốn tìm lại Tâm phải thực hiện các bước giữ giới, thiền định thì mới có được Trí Tuệ. Từ cái “Tuệ” ấy, con người hay nói rộng ra là chúng sinh mới có thể hiểu được những gì mà Đức Phật đã chứng ngộ, thấy, biết. Chính vì thế mà Đức Phật đã đề cập đến bài Kinh thứ hai, cũng như Ngài tuyên bố với loài người sau nhiều năm thuyết giảng bằng câu “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”, hay “Hãy tự thấp đuốc lên mà đi” vì “không ai có thể chuộc tội, giải nghiệp cho ai” (ý trong Kinh Địa Tạng) mà phải chính mình giải tội cho mình! Bởi thế mà Ngài đúc kết lại tiến trình tu hành để đạt được mục đích “giải thoát” khỏi Vòng Luân Hồi trầm luân mà con người, hay mọi chúng sinh bị Nghiệp lôi cuốn vào trong đó, qua các bước của “Lục Độ Ba-La-Mật”: Bố Thí, Trì Giới, Tinh Tấn, Nhẫn Nhục, Thiền Định, Trí Huệ Ba La Mật.

Như trên đã nói: Sau thời gian 49 ngày nhất quyết Thiền Định, Thích Ca đạt được kết quả tu hành và nhận thức được nhiều vấn đề về chúng sinh và vũ trụ. Tuy nhiên, khi giảng giải, hướng dẫn cho chúng sinh đệ tử, Ngài không nói hết những gì Ngài nhận biết mà chỉ đề cập đến những vấn đề cần thiết cho con người, chỉ riêng con người, cách thực hiện theo những kinh nghiệm mà Ngài đã đi đến giải thoát, vì những điều khác không thích hợp cũng như không ích gì cho sự tu hành để giải thoát. Chính vì thế mà Ngài giảng ở bài Kinh thứ nhất, và khi có người gặn hỏi về các vấn đề khác quá xa xôi, không cần thiết Ngài đã đề cập đến bài Kinh thứ hai. Tại sao vậy? Vì những điều xa vời đó ngoài sự thiết yếu, đôi khi lại làm cho người mới thực hiện tu hành giải thoát, sẽ thêm nhiều rắc rối, nghĩ ngợi mà trở ngại đường tu. Và chúng ta cần nhớ lại rằng: Trong thời gian Ngài tìm học đạo, không phải chỉ có Ngài sử dụng đến Thiền Định, mà sự Thiền Định đã có trước khi Ngài thực hiện khá lâu, vì vào thời ấy Ngài đã đi học với nhiều vị thầy khác trong thời gian dài 6 năm. Tuy nhiên, với các vị thầy ấy Ngài không đạt được kết quả, cho nên Ngài mới quyết tâm “tu chết bỏ”. Trong 49 ngày Ngài đạt được kết quả, sau khi kiểm nghiệm nhiều lần, Ngài xác quyết kết quả ấy, thế là Ngài bắt đầu đi giảng giải, rao giảng cho người khác mà anh em Kiều Trần Như là năm người, hay đệ tử đầu tiên. Vậy vì sao Ngài không thuyết giảng tất cả những gì Ngài đã nhận biết? Nếu chúng ta thử nghĩ Ngài thuyết giảng mọi điều thì không biết đến bao giờ, mà chưa chắc những người nghe hiểu được hoặc tin hết những gì Ngài nói. Với những gì Ngài thuyết trong hơn 45 năm mà chúng ta vẫn còn lẩn quẩn trong sự nghiên cứu, tìm hiểu; bằng chứng là những Luận của người đời sau hãy còn tiếp tục xuất hiện và ra đời. Nhưng, nếu chúng ta quay lại câu “Thân người khó đặng, Phật pháp khó nghe” mà trong tiếng Hán Việt là “Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn” thì chúng ta không còn ngạc nhiên về điều ấy nữa. Nói đúng ra, hầu hết mọi tôn giáo đều đề cập đến vấn đề nhức nhối của con người là “Sau khi chết”. Con người rất muốn biết: Tại sao con người, mọi vật hiện hữu trên cuộc đời nầy? Hiện hữu để làm gì? Ai tạo ra mọi vật? Mọi vật tồn tại đến bao giờ? Và khi chết, biến mất sẽ về đâu? Sau đó sẽ như thế nào? Vả lại, trong cuộc sống của đời người với quá nhiều cay đắng, khổ đau; thêm nhiều bệnh tật cùng với thiên tai dồn dập xảy ra, khiến tính mạng không biết đến lúc nào bị mất đi, tài sản cũng không bền vững với bảo tố, lụt lội, giông lốc…đúng là cuộc đời là một bể khổ triền miên. Lại thêm tâm tính từng con người cũng khác nhau, người ta có thể chà đạp, lường lận lẫn nhau để đạt được lợi lộc, sung sướng; hoặc dùng bầy đàn, sức mạnh để tàn sát tranh giành lẫn nhau để đạt được những gì mà bầy đàn đó mong muốn. Quả thật một môi trường đầy mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ vân..vân… mà không hiểu con người được tạo ra chịu nhiều đau khổ để rồi chết không thôi sao? Tất cả những vấn đề đó luôn là vấn đề nan giải đối với con người, mà các tôn giáo khó giải thích ổn thỏa cho người đời. Vì thế, người ta “phải” nhờ đến một “Vị Sáng thế” tưởng tượng như vị Trời, hay God… nào đó để giải thích; và nương vào vị ấy để mang đến những “hình ảnh” tốt đẹp, sung sướng, hạnh phúc nhất mà trong cuộc đời nầy không hề có để an ủi, lôi cuốn, hấp dẫn con người tin vào; hay phấn đấu để đạt được cái lý tưởng ấy, dù chẳng biết những hình ảnh đó là có hoặc không, hay chỉ là tin cùng chỉ tin mà thôi? Tại sao vậy? Vì trong tất cả mọi tôn giáo đều đề cập những vấn đề sau khi con người đi vào cái chết; như vậy lấy cái điều gì để chứng minh sự thực của những điều mà các tôn giáo đã nêu ra? Hay tôn giáo chỉ nêu ra những hình ảnh, lý tưởng “tưởng tượng, không tưởng” cho người ta mơ ước, sống trong ảo mộng hòng đánh lừa con người trong một thế giới tâm linh, và người ta mơ, cứ mơ về những cảnh sung sướng, hạnh phúc hoàn hảo ở cái thế giới không đau khổ, hưởng mọi đều tốt lành mà thế giới nầy không bao giờ có! Thế giới ấy chỉ có trong lý tưởng của tôn giáo đó mà thôi! Hơn nữa, thực tế cuộc đời nầy có nhiều cái mà người ta không thể giải đáp: Tại sao có người thì quá sung sướng, hạnh phúc; lại có những người vô vùng đau khổ, từ đau khổ nầy đến đau khổ khác. Ngay cả đối với người cùng chung cha mẹ vẫn khác nhau, nhất là với những người sinh đôi cũng có nhiều cái khác nhau. Rồi trên trái đất nầy có nhiều giống người khác nhau về màu da, phong tục, cao thấp khác nhau. Vậy thì tại sao? Không lẽ cứ đổ thừa cho Ông Trời, Đấng Sáng Thế, God ban cho con người những cái khác nhau như thế! Đối với những con người sung sướng, được hưởng mọi thứ trong cuộc đời thì là do được ân sủng của Trời của Sáng Thế hay God; còn những người lãnh nhiều đau khổ, nghèo khổ cũng do Ông Trời ban cho, hành hạ họ như vậy? Té ra, Ông Trời chẳng là Đấng Thiện Lành, Công Bằng nào cả mà chỉ là một Đấng Bất Công, Tàn Nhẫn! Do đó, người ta có thể nghĩ rằng: Từ nơi không biết rõ vũ trụ, mọi vật, con người được hình thành như thế nào, cho nên nhiều dân tộc nghĩ đến những câu chuyện hoang đường để giải thích như là các câu chuyện vui chơi mà chúng ta thường gọi là “Chuyện thần thoại”. Không lẽ nhiều tôn giáo cũng tạo nên các câu chuyện như thế để lôi cuốn những con người theo vào tôn giáo của mình, mà chẳng biết là các nhân vật “Sáng Thế” đó có hay không? Và các tín đồ chỉ tin vào với Cái Đức Tin của mình! Đa số câu chuyện chỉ dựa vào “Mặt Trời” vì mỗi ngày khi mặt trời xuất hiện là một ngày mới bắt đầu, và với mặt trời mọi cuộc sống cũng được phát triển và tồn tại. Nhưng cũng với mặt trời mà người ta thấy nhiều thiên tai xảy ra từ trong thiên nhiên, thế là từ xưa mặt trời được xem là “Đấng Sáng Thế”, mọi câu chuyện được thêu dệt quanh mặt trời, đôi khi đi xa hơn người ta lại tưởng tượng mặt trời có cả một gia đình, hay một vương triều như trần gian con người đã có. Rồi đến ngày nay, khoa học tiến vào không gian phát hiện ra mặt trời chỉ là mặt trời, chứ không là Ông Trời hay Đấng Sáng Thế nào cả. Mặt Trời chỉ là một định tinh trong hệ thống Thái Dương Hệ cùng với rất nhiều Thái Dương Hệ khác trong một Thiên Hà nào đó, và nó hiện diện cùng với vô số Thiên Hà khác trong vũ trụ bao la!

Riêng trong Đạo Phật, Đức Phật đã dùng những cái mà mình đã “thấy biết” qua Phật Nhãn và Trí Huệ là kết quả đạt được trong đường tu, hành Thiền của mình để giảng lại cho mọi người biết, mà từ đó có thể tu hành để đạt được kết quả như Ngài, cho nên Ngài mới nói “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật đã thành”. Tại sao Ngài lại khẳng định như vậy? Vì Ngài cũng là một con người bình thường như bao nhiêu con người khác, nhưng Ngài đã thực hành một phương thức, một cách riêng để rồi Ngài đạt được kết quả khả quan, hiểu biết nhất khi Ngài đạt được mục đích cuối cùng của sự Giác Ngộ. Ngài thấy biết, hiểu thấu tất cả mọi sự việc từ nguồn gốc, diễn tiến, và sự tồn tại hay biến đi của chúng. Chúng có mất không? Điều ấy, khiến Đức Phật bỏ công ra đi thuyết giảng cho con người hiểu thấu mà chọn cho mình con đường để đi, suốt hơn 45 năm trong cuộc sống của Ngài. Nếu một khi chúng sinh thành Phật thì chúng sinh ấy sẽ thấy, biết được những điều trong vũ trụ như Ngài đã thấy, biết và trong Đạo Phật đã gọi là “Lậu Tận Thông”, một trong Lục Thần Thông mà người tu hành đạt được khi thành Bậc Giác Ngộ! Ngài có những Thần Thông như vậy, nhưng sao không thể giúp mọi chúng sinh tu được dễ dàng trong đường tu của họ hay “cứu rỗi” mọi người, mọi chúng sinh có tốt hơn không? Ý ấy, trong Kinh Địa Tạng có giải thích rõ hơn về Nghiệp Lực của từng con người như sau:

 

“Nghiệp lực rất lớn, có thể sánh với núi Tu Di, có thể sâu dường biển cả, có thể ngăn đạo thánh.

Vì thế chúng sanh chớ khinh điều quấy nhỏ mà cho là không tội, sau khi chết đều có quả báo dầu đến mảy mún đều phải chịu lấy.

Chí thân như cha với con, mỗi người cũng theo nghiệp của mình mà đi khác đường, dầu cho có gặp nhau cũng chẳng bằng lòng chịu khổ thay nhau”.

 

Nguyên Thảo,

10/10/2025.

 

 

Thursday, October 2, 2025

*Tại Sao Người Ta Thích Hối Lộ Và Tham Nhũng?

 

Nói về các chủ đề nầy trước tiên chúng ta nên nói về vấn đề hối lộ. Tại sao người ta cần phải hối lộ? Hối lộ có lẽ là một vấn đề nhức nhối trong xã hội, vì nó xảy ra rất tinh tế đôi khi người có chức quyền, hay thi hành luật pháp khó có thể lấy đó mà kết tội. Nó núp dưới những hình thức trá hình chẳng rõ ràng để gọi là phạm pháp. Sự hối lộ cần thiết được thực hiện khi mà người ta gặp trở ngại, khó khăn trong công việc; hoặc có chiều hướng phạm luật, phạm pháp. Có khi hối lộ được làm một thời gian trước khi mà người ta thực hành các phạm pháp nào đó, hầu trông chờ một sự giúp đỡ hay thông cảm về sau. Mức độ hối lộ sẽ tương ứng với công việc có thể phạm pháp hay “thông cảm” mà thông qua, duyệt qua cho đương sự; giả sử một chuyến xe đò hằng ngày đi trên đoạn đường nào đó, trên đó có nhiều trạm gác, xét hỏi xe phải dừng lại trong thời gian khá dài và phiền phức, người ta có thể bỏ vài chục đồng trong một tờ báo để qua trạm được dễ dàng, hơn là phải dừng lại với sự kiểm soát khá lâu. Một người giấy tờ không được “đúng” kẹp một số tiền đi với giấy tờ để được thông cảm mà thông qua, không bị bắt và rắc rối về bản thân. Hay muốn được đi qua một trạm, một chốt xem xét thủ tục gì đó mà không bị làm khó dễ thì số tiền kín đáo bên trong cũng là một giải pháp tốt. Đó là những vấn đề nhỏ nhoi mà người ta cần đến số tiền ít ỏi, để cung ứng cho người có thẩm quyền mà không phải bị khó khăn trong công việc. Nói tóm lại, hối lộ bao giờ cũng là do người cần được dễ dàng cho công việc mình sắp xảy ra đối với người có quyền chức, hay kẻ sẽ giúp đỡ gọi là đền ơn. Sự hối lộ tùy theo hoàn cảnh, mức độ, hay đẳng cấp mà tăng tiến cái giá trị của món đồ hối lộ, nó có thể là một chình rượu ngon, rượu thuốc quý đem bỏ trước nhà mà người được hối lộ không biết là của ai; hay là chiếc xe máy, đồ trang sức quý giá, hoặc các bao thư, thùng quà có mệnh giá khá cao. Đôi khi, các món hối lộ lại là vật liệu xây cất mà người được hối lộ để xây cái nhà biệt thự hay biệt phủ của mình coi như là quà tặng. Nó cũng có thể là khu đất hay vườn to lớn được trồng trọt gần đến ngày thu hoạch. Nhưng dễ dàng và gọn nhất vẫn là tiền, vàng, kim cương, là bao thư vì nó dễ cất dấu hoặc làm cho người được hối lộ muốn mua gì thì mua; đồng thời có thể tiêu tán đi nơi khác không có gì khó khăn mà lại kín đáo.

Đồ Ngông tôi nhớ ngày xưa có nhiều chuyện hối lộ rất là vui, như: Thằng bạn trốn lính, khi bị bố ráp nó chun vô trong lu đậy nắp lại, nhưng người đi xét cũng biết, đi lại gần dở nắp lu ra, nó vội đưa hai tay cầm tiền đưa lên trên đầu. Người đi xét lấy tiền, xong đậy nắp lại rồi đi ra. Nó hú hồn mới kể cái ngu của mình là chun vô lu trốn mà lại có đôi dép bên ngoài, đúng là “lạy ông tôi ở bụi nầy”! Sau nó đi lính, đứng gát mà từ xa có mấy thằng cỡi xe gắn máy chạy tới, gần tới lại rớt nón; họ quay lạy rồi chạy lui luôn, nó biết “đó là mấy thằng trốn lính”! Rồi có một lúc, Đồ Ngông tôi lại nghe kể: Ở một vùng hẻo lánh và khá mất an ninh nọ, có mấy ông làm ăn khá giỏi, ông thì về nông nghiệp, ông về lâm nghiệp, ông về xe cộ… Cứ mỗi lần lễ lộc hay ngày Tết thì mấy ông đó gom góp lại đến công quyền tổ chức mừng lễ, tất nhiên là sẽ có quà, hay bao thư gọi là quà, lì xì. Không những thế mà khi nào ông nầy đi, ông khác đến lại có tiệc mừng “tống cựu, nghinh tân”, cùng là mừng Tất Niên và cũng lại Tân Niên thật là vui vẻ.

Đó là chưa nói đến những vụ hối lộ to lớn hơn có thể khuynh đảo cả một nền kinh tế khi mà các con buôn cùng hùn tiền lại để nuôi những kẻ có thiên bẩm ngoại giao, có khả năng giao tiếp thu hút người tiếp cận; họ vừa tung tiền vừa thu hút, mua chuộc để câu kéo viên chức kinh tế để lấy tin tức. Chỉ cần biết kế hoạch về sau thế nào, thế là các kho hàng biến đi khá nhiều để sau đó tăng giá thì con buôn kiếm khá nhiều tiền, hay làm giàu bằng đầu cơ tích trữ; và có thể khuynh đảo cả một nền kinh tế của một quốc gia. Rồi tiến theo thời gian, người ta tung tiền để mua bãi, mua bến, tìm sự an toàn cho một chuyến đi; hay chi số tiền nhỏ nào đó cho chuyến buôn lậu nhỏ nhoi, để kiếm tiền cho cuộc sống đầy khó khăn. Nhưng ngộ nghĩnh nhất vẫn là chuyện quan chức hối lộ cho nhau. Chúng ta thử nghĩ hàng hóa không được lưu thông dễ dàng như trong một thị trường tự do. Cửa hàng mua được hàng ở một nơi xa, cần xe để chuyên chở. Họ không thể mướn xe ở đâu khác, đành phải đến giao thông vận tải. Nhưng giao thông vận tải không có xăng dầu, cần đến xăng dầu, nên đợi xăng dầu từ Chất đốt. Qua bao nhiêu thủ tục trong từng giai đoạn rất lâu, cho nên người cần phải cần đến sự giúp đỡ của kẻ khác; rồi cũng phải biết điều và biết được “thủ tục đầu tiên”. Cả một hệ thống chậm chạp tiến bước lên đàng! Mà mọi người dân đành chịu thiếu thốn, khổ đau! Thêm nữa mấy lúc gần đây, có lẽ những sự “hối lộ” đạt được kết quả khủng khiếp, mà người dân là những nạn nhân đau đớn nhất, và làm cho một đất nước suy đồi, suy sụp? Đó là chưa kể những sự hối lộ từ thế lực bên ngoài hay của nước ngoài nhằm thao túng, làm băng hoại một quốc gia để thôn tính dễ dàng quốc gia đó. Nếu những ai đã từng đọc các truyện Tàu như Tam Quốc, Đông Châu Lục Quốc… thì cũng từng thấy “chiến lược” ấy, dùng sự “hối lộ” để khuynh đảo quốc gia nhỏ, cuối cùng thanh toán khiến nước đó không còn hiện diện trên bản đồ nữa.

Nhiều người thắc mắc: “Tại sao người ta cần hối lộ?”, qua thời gian thì sự hối lộ chứng tỏ được nhiều nguyên nhân. Sự hối lộ nhỏ thì cần đến sự thông cảm, dễ dàng thông qua công việc nào đó không lớn lắm như ký dùm giấy tờ; hoặc ngó lơ, phớt lờ, thông cảm để người đi qua không bị sách hạch, làm khó dễ, gây mất nhiều thời gian. Khá hơn, thì không bị bắt vào tội vi phạm “lệnh cấm, pháp luật”. Lớn hơn nữa thì “mua đường, dẫn lối, ưu tiên, được quyền” trong một công việc, hay chương trình ích lợi nào đó. Hoặc lớn hơn nữa thì công việc, hay việc đó sẽ có ảnh hưởng đến tình trạng của đất nước, quốc gia. Tất nhiên sự hối lộ tùy theo mức độ mà “gíá trị hối lộ” phải được tăng tiến xứng đáng theo mức độ ấy. Cái châm ngôn của kẻ hối lộ giống như trong tục ngữ nước ta có câu “Bỏ con tép nhữ con tôm”, tức là chỉ bỏ ra miếng mồi cỏn con để thu về mối lợi lớn. Người ta kể lại rằng: Kẻ hối lộ rất kiên trì và mưu mô, họ hối lộ kẻ có quyền chức, có thẩm quyền để đạt được mục đích; đầu tiên là họ tiếp xúc với người có thẩm quyền, chức vụ. Nếu không có kết quả, thì họ tìm cơ hội sẽ tiếp xúc với người vợ để trao đổi vấn đề. Nếu khó khăn họ sẽ ân cần đến con cái, người nhà của quan chức để lấy tình cảm mà từ đó vươn lên kế hoạch lũng đoạn đến vợ đến chồng, người có thẩm quyền quan chức. Nếu không đạt được kết quả nữa thì họ sẽ tìm cách tìm đến cấp có thẩm quyền trên nữa để “bắn văng” người ngán đường làm ăn của họ. Như vậy, kẻ hối lộ vì “cái lợi lớn nhất định phải bỏ con tép dù bao lớn để đạt được con tôm vĩ đại” mà họ cần đến. Nều tiền (vàng, kim cương) ít không mua được thì phải cần đến rất nhiều tiền. Miễn là họ đạt được mục đích mới thôi!

Ngày xưa, trong chế độ quân chủ độc tài sự hối lộ dễ dàng hơn vì quan chức khó thay thế! Nhưng ngày nay ở các nước tự do quan chức dễ bị thay thế bỡi những kẻ có tài, đạo đức hơn; nếu không là mình, thì có người khác vào thế chỗ; mà khi “tay đã nhúng chàm” thì không nơi nào dám nhận vào để làm việc vì lý lịch đã có vết nhơ. Nhưng không những thế mà còn báo chí truyền thông tự do đôi khi moi móc ra công chúng, khiến người nhận hối lộ phải e dè. Hay ở các quốc gia có nhiều đảng phái thì người trong đảng phái khác theo dõi sẽ vạch trần, thì kẻ có chức quyền còn phải bảo vệ nhân cách mình lẫn uy tín đảng của họ. Còn ở các địa phương người ta có những cuộc bầu cử, chọn những người có khả năng, tài giỏi, uy tín từ các đảng phái, hay tự do, độc lập vào Hội Đồng Địa Phương. Hội đồng đó điều hành mọi kế hoạch của địa phương. Do đó mà sự “Hối Lộ” và “Đòi Hối Lộ” trở nên rất hạn chế ở các nơi hay quốc gia ấy, người dân cũng được an lòng không phải bị quấy nhiễu vì vấn đề “đòi hối lộ” khi có việc cần đến; đôi khi người đi xin lại được đối xử một cách rất ân cần vì tinh thần “được phục vụ cho người dân”, chứ không phải là hoạnh hoẹ, bức bách để kiếm tiền!

Nếu “hối lộ” là phương cách dùng “con tép” để lấy về “con tôm” thông qua những người có thẩm quyền mà vượt qua khó khăn, hạn chế, rào cản của pháp luật để đạt đến những nguồn lợi nào đó mà người hối lộ mong muốn. Còn người có thẩm quyền dùng quyền hạn của mình để giúp đỡ, che chở, bao che, giao cho người hối lộ cái nguồn lợi to lớn vượt ra ngoài pháp luật quy định, bằng những “đòi hỏi” món quà nào đó thích ứng thì ấy là “lạm dụng chức quyền để đòi hối lộ” vậy!

Còn “Tham Nhũng” thì như thế nào? Điều nầy cũng chẳng có gì khó hiểu. Nếu ai để ý đến tục ngữ ca dao của kho tàng văn chương bình dân của nước Việt tất sẽ biết, vì chẳng qua là “Mỡ treo trước miệng mèo”, hay “Chuột sa hủ nếp” mà vài người còn dí dỏm và tục hơn ví như là “Chó lọt cầu tiêu tha hồ ăn ngập mặt”. Đồ Ngông tôi chưa thấy mèo thích mỡ như thế nào, chứ ngày xưa người ta phải cất nồi thịt cho kỹ, chứ không mèo sẽ cạy nồi ăn mất thịt đi. Và lỡ có con chuột nào lọt vào hủ gạo hay nếp thì nó chẳng cần phải đi đâu nữa, cứ ở đó tha hồ mà ăn cho đến chết. Thì tham nhũng ở đây cũng giống vậy, họ đã lọt vào nơi đang giữ tiền, giữ ngân sách thì họ tha hồ tiêu xài, chi phí nếu không có kiểm soát, luật lệ. Tuy nhiên, dù cho có luật lệ, chế tài thì cũng có nhiều kẻ hở. Nương vào kẻ hở ấy, người ta vẫn có thể rút ruột ra ngoài vẫn được như không. Nhưng, cái điều quan trọng của vấn đề tham nhũng không phải đơn giản như mọi trường hợp thông thường, mà muốn tham nhũng phải là những quan chức. Nói đến hai chữ “Quan chức” tức là phải nói đến những người đang cầm quyền dù là lớn hay nhỏ. Họ đang phụ trách chức vụ ở một cơ quan, tổ chức chính phủ nào đó, nơi mà chính phủ cấp về một số ngân sách, phương tiện để họ thực hiện mọi nhu cầu vận hành hay phát triển của khu vực. Thế mà, ngân sách ấy được chi cho công việc ít tiền, ít vật liệu thì được kê khai lên gấp nhiều lần để rồi số tiền, vật liệu sẽ là của họ hay đám họ chia chác cho nhau. Nhiều lần tất sẽ được số tài sản lớn, dư sức để sống cuộc đờì vương giả, sung sướng cho cả gia đình. Nhưng, ít ai tự hỏi ngân sách ấy từ đâu mà có? Nó có phải là của chính phủ chăng? Đúng vậy, ngân sách ấy từ chính phủ phân bổ ra, nhưng chính phủ làm sao mà có? Chính phủ làm sao có tiền? Tiền ấy từ người dân đóng thuế mà nên! Như vậy, cái gì của chính phủ vẫn là từ nhân dân mà đóng góp, cùng với những tài nguyên quốc gia mà có. Cho nên các quan chức tham nhũng là “cướp” của người dân hay cướp đi tài sản của quốc gia, mà họ luôn nghĩ là chỉ lấy của chính phủ. Tội ấy sẽ được định như thế nào?

Tóm lại, làm quan chức có được rất nhiều lợi lộc như “một người làm quan cả họ được nhờ!”, có thể giúp được cả họ có công ăn việc làm, hay đưa người trong họ lên giữ chức nầy hay chức kia. Người dân nào cần đến sự giúp đỡ có thể đòi hối lộ, nếu họ không hối lộ cho mình. Đôi khi mình còn dùng đến quyền lực để làm khó dễ để người dân phải cung phụng, lo lót; nếu không người dân ấy sẽ bị trù dập, làm khó khăn mọi điều. Đã vậy, còn có nhiều cách để đục khoét ngân sách chính phủ giao cho; hoặc sử dụng quyền hạn của mình để trao công việc quan trọng cho những người thân tín, đàn em làm để được chia chác, đền ơn hậu hĩnh. Thế cho nên người ta tung tiền ra mua quan chức, càng ngày càng cao chẳng phải là để cống hiến cho quốc gia, tổ quốc mà thực ra là chỉ để làm giàu, “cướp” của người dân và bòn rút ngân sách, tài nguyên của đất nước mà thôi! Còn “lãng phí” là do sự ngu dốt, không định lượng được kế hoạch làm ra, tốn nhiều tiền ngân sách mà không được ích lợi gì nhiều, có khi phải bỏ không, không sử dụng được. Nhưng tiền ấy là do người dân đóng góp mà nên, thế là dân chúng phải è cổ ra mà chịu đựng! Nghĩ nơi xứ người, những người có khả năng phải vận động tranh cử để ra làm quan. Được bầu vào hội đồng rồi thì đóng góp công sức giúp đỡ cho khu vực của mình. Với ngân sách thì phân chia từng phần để phụng sự cho cộng đồng về những nhu cầu cần thiết, chứ đâu có để cho bầy chuột ngậm nhấm dần mòn, làm giàu cho chính họ. Ôi! Nghĩ lại cũng thật là oái oăm cho cuộc đời!

 

Đồ Ngông,

13/09/2025.