*Vấn Đề I:
Hai Bài Kinh.
Qua hai bài Kinh ấy, chúng ta có thể hiểu
rằng: Đức Phật sau khi giác ngộ đã “Ngộ” được rất nhiều vấn đề trong đời sống cũng
như vũ trụ; tuy nhiên, Ngài chỉ đề cập cho mọi người những gì là cần thiết chứ
không thuyết tất cả những gì Ngài đã nhận, thấy, hiểu, biết; giống như Ngài đã
so sánh “nắm lá trong tay” và lá ở trong rừng, hay có lúc Ngài lấy ví dụ khác là
“đất trong móng tay so với đất bên ngoài đại địa”. Mặc dù nói thế, nhưng trong
các bộ Kinh được sưu tập lại mà Ngài thuyết giảng suốt hơn 45 năm hành đạo trên
thế gian, Ngài cho chúng ta biết rất nhiều điều xa lạ từ trong bản chất con người
được cấu tạo từ đất, nước, gió, lửa; có cái Tâm giống như con vượn, con ngựa
cho đến các thế giới của Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Câu Lưu Châu
và ở trong vũ trụ có vô số thế giới, trong đó có thế giới giống như xoáy nước,
giống như cây… ở trong phẩm Thế Giới Thành Tựu của Kinh Hoa Nghiêm…, hay các thế
giới của Phật A Di Đà, Dược Sư Lưu Ly Quang, hoặc cõi của Bồ Tát Địa Tạng, hạnh
nguyện của Ngài Quan Thế Âm… Muốn tìm lại Tâm phải thực hiện các bước giữ giới,
thiền định thì mới có được Trí Tuệ. Từ cái “Tuệ” ấy, con người hay nói rộng ra
là chúng sinh mới có thể hiểu được những gì mà Đức Phật đã chứng ngộ, thấy, biết.
Chính vì thế mà Đức Phật đã đề cập đến bài Kinh thứ hai, cũng như Ngài tuyên bố
với loài người sau nhiều năm thuyết giảng bằng câu “Ta là Phật đã thành, chúng
sinh là Phật sẽ thành”, hay “Hãy tự thấp đuốc lên mà đi” vì “không ai có thể
chuộc tội, giải nghiệp cho ai” (ý trong Kinh Địa Tạng) mà phải chính mình giải
tội cho mình! Bởi thế mà Ngài đúc kết lại tiến trình tu hành để đạt được mục đích
“giải thoát” khỏi Vòng Luân Hồi trầm luân mà con người, hay mọi chúng sinh bị
Nghiệp lôi cuốn vào trong đó, qua các bước của “Lục Độ Ba-La-Mật”: Bố Thí, Trì
Giới, Tinh Tấn, Nhẫn Nhục, Thiền Định, Trí Huệ Ba La Mật.
Như trên đã nói: Sau thời gian 49 ngày
nhất quyết Thiền Định, Thích Ca đạt được kết quả tu hành và nhận thức được nhiều
vấn đề về chúng sinh và vũ trụ. Tuy nhiên, khi giảng giải, hướng dẫn cho chúng
sinh đệ tử, Ngài không nói hết những gì Ngài nhận biết mà chỉ đề cập đến những
vấn đề cần thiết cho con người, chỉ riêng con người, cách thực hiện theo những
kinh nghiệm mà Ngài đã đi đến giải thoát, vì những điều khác không thích hợp cũng
như không ích gì cho sự tu hành để giải thoát. Chính vì thế mà Ngài giảng ở bài
Kinh thứ nhất, và khi có người gặn hỏi về các vấn đề khác quá xa xôi, không cần
thiết Ngài đã đề cập đến bài Kinh thứ hai. Tại sao vậy? Vì những điều xa vời đó
ngoài sự thiết yếu, đôi khi lại làm cho người mới thực hiện tu hành giải thoát,
sẽ thêm nhiều rắc rối, nghĩ ngợi mà trở ngại đường tu. Và chúng ta cần nhớ lại
rằng: Trong thời gian Ngài tìm học đạo, không phải chỉ có Ngài sử dụng đến Thiền
Định, mà sự Thiền Định đã có trước khi Ngài thực hiện khá lâu, vì vào thời ấy
Ngài đã đi học với nhiều vị thầy khác trong thời gian dài 6 năm. Tuy nhiên, với
các vị thầy ấy Ngài không đạt được kết quả, cho nên Ngài mới quyết tâm “tu chết
bỏ”. Trong 49 ngày Ngài đạt được kết quả, sau khi kiểm nghiệm nhiều lần, Ngài xác
quyết kết quả ấy, thế là Ngài bắt đầu đi giảng giải, rao giảng cho người khác mà
anh em Kiều Trần Như là năm người, hay đệ tử đầu tiên. Vậy vì sao Ngài không
thuyết giảng tất cả những gì Ngài đã nhận biết? Nếu chúng ta thử nghĩ Ngài thuyết
giảng mọi điều thì không biết đến bao giờ, mà chưa chắc những người nghe hiểu được
hoặc tin hết những gì Ngài nói. Với những gì Ngài thuyết trong hơn 45 năm mà chúng
ta vẫn còn lẩn quẩn trong sự nghiên cứu, tìm hiểu; bằng chứng là những Luận của
người đời sau hãy còn tiếp tục xuất hiện và ra đời. Nhưng, nếu chúng ta quay lại
câu “Thân người khó đặng, Phật pháp khó nghe” mà trong tiếng Hán Việt là “Nhân thân
nan đắc, Phật pháp nan văn” thì chúng ta không còn ngạc nhiên về điều ấy nữa. Nói
đúng ra, hầu hết mọi tôn giáo đều đề cập đến vấn đề nhức nhối của con người là “Sau
khi chết”. Con người rất muốn biết: Tại sao con người, mọi vật hiện hữu trên cuộc
đời nầy? Hiện hữu để làm gì? Ai tạo ra mọi vật? Mọi vật tồn tại đến bao giờ? Và
khi chết, biến mất sẽ về đâu? Sau đó sẽ như thế nào? Vả lại, trong cuộc sống của
đời người với quá nhiều cay đắng, khổ đau; thêm nhiều bệnh tật cùng với thiên
tai dồn dập xảy ra, khiến tính mạng không biết đến lúc nào bị mất đi, tài sản cũng
không bền vững với bảo tố, lụt lội, giông lốc…đúng là cuộc đời là một bể khổ
triền miên. Lại thêm tâm tính từng con người cũng khác nhau, người ta có thể chà
đạp, lường lận lẫn nhau để đạt được lợi lộc, sung sướng; hoặc dùng bầy đàn, sức
mạnh để tàn sát tranh giành lẫn nhau để đạt được những gì mà bầy đàn đó mong muốn.
Quả thật một môi trường đầy mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ vân..vân… mà không hiểu
con người được tạo ra chịu nhiều đau khổ để rồi chết không thôi sao? Tất cả những
vấn đề đó luôn là vấn đề nan giải đối với con người, mà các tôn giáo khó giải
thích ổn thỏa cho người đời. Vì thế, người ta “phải” nhờ đến một “Vị Sáng thế” tưởng
tượng như vị Trời, hay God… nào đó để giải thích; và nương vào vị ấy để mang đến
những “hình ảnh” tốt đẹp, sung sướng, hạnh phúc nhất mà trong cuộc đời nầy không
hề có để an ủi, lôi cuốn, hấp dẫn con người tin vào; hay phấn đấu để đạt được cái
lý tưởng ấy, dù chẳng biết những hình ảnh đó là có hoặc không, hay chỉ là tin cùng
chỉ tin mà thôi? Tại sao vậy? Vì trong tất cả mọi tôn giáo đều đề cập những vấn
đề sau khi con người đi vào cái chết; như vậy lấy cái điều gì để chứng minh sự
thực của những điều mà các tôn giáo đã nêu ra? Hay tôn giáo chỉ nêu ra những hình
ảnh, lý tưởng “tưởng tượng, không tưởng” cho người ta mơ ước, sống trong ảo mộng
hòng đánh lừa con người trong một thế giới tâm linh, và người ta mơ, cứ mơ về
những cảnh sung sướng, hạnh phúc hoàn hảo ở cái thế giới không đau khổ, hưởng mọi
đều tốt lành mà thế giới nầy không bao giờ có! Thế giới ấy chỉ có trong lý tưởng
của tôn giáo đó mà thôi! Hơn nữa, thực tế cuộc đời nầy có nhiều cái mà người ta
không thể giải đáp: Tại sao có người thì quá sung sướng, hạnh phúc; lại có những
người vô vùng đau khổ, từ đau khổ nầy đến đau khổ khác. Ngay cả đối với người cùng
chung cha mẹ vẫn khác nhau, nhất là với những người sinh đôi cũng có nhiều cái
khác nhau. Rồi trên trái đất nầy có nhiều giống người khác nhau về màu da,
phong tục, cao thấp khác nhau. Vậy thì tại sao? Không lẽ cứ đổ thừa cho Ông Trời,
Đấng Sáng Thế, God ban cho con người những cái khác nhau như thế! Đối với những
con người sung sướng, được hưởng mọi thứ trong cuộc đời thì là do được ân sủng
của Trời của Sáng Thế hay God; còn những người lãnh nhiều đau khổ, nghèo khổ cũng
do Ông Trời ban cho, hành hạ họ như vậy? Té ra, Ông Trời chẳng là Đấng Thiện Lành,
Công Bằng nào cả mà chỉ là một Đấng Bất Công, Tàn Nhẫn! Do đó, người ta có thể
nghĩ rằng: Từ nơi không biết rõ vũ trụ, mọi vật, con người được hình thành như
thế nào, cho nên nhiều dân tộc nghĩ đến những câu chuyện hoang đường để giải thích
như là các câu chuyện vui chơi mà chúng ta thường gọi là “Chuyện thần thoại”.
Không lẽ nhiều tôn giáo cũng tạo nên các câu chuyện như thế để lôi cuốn những
con người theo vào tôn giáo của mình, mà chẳng biết là các nhân vật “Sáng Thế” đó
có hay không? Và các tín đồ chỉ tin vào với Cái Đức Tin của mình! Đa số câu
chuyện chỉ dựa vào “Mặt Trời” vì mỗi ngày khi mặt trời xuất hiện là một ngày mới
bắt đầu, và với mặt trời mọi cuộc sống cũng được phát triển và tồn tại. Nhưng cũng
với mặt trời mà người ta thấy nhiều thiên tai xảy ra từ trong thiên nhiên, thế
là từ xưa mặt trời được xem là “Đấng Sáng Thế”, mọi câu chuyện được thêu dệt
quanh mặt trời, đôi khi đi xa hơn người ta lại tưởng tượng mặt trời có cả một
gia đình, hay một vương triều như trần gian con người đã có. Rồi đến ngày nay,
khoa học tiến vào không gian phát hiện ra mặt trời chỉ là mặt trời, chứ không là
Ông Trời hay Đấng Sáng Thế nào cả. Mặt Trời chỉ là một định tinh trong hệ thống
Thái Dương Hệ cùng với rất nhiều Thái Dương Hệ khác trong một Thiên Hà nào đó,
và nó hiện diện cùng với vô số Thiên Hà khác trong vũ trụ bao la!
Riêng trong Đạo Phật, Đức Phật đã dùng những
cái mà mình đã “thấy biết” qua Phật Nhãn và Trí Huệ là kết quả đạt được trong đường
tu, hành Thiền của mình để giảng lại cho mọi người biết, mà từ đó có thể tu hành
để đạt được kết quả như Ngài, cho nên Ngài mới nói “Ta là Phật đã thành, chúng
sinh là Phật đã thành”. Tại sao Ngài lại khẳng định như vậy? Vì Ngài cũng là một
con người bình thường như bao nhiêu con người khác, nhưng Ngài đã thực hành một
phương thức, một cách riêng để rồi Ngài đạt được kết quả khả quan, hiểu biết nhất
khi Ngài đạt được mục đích cuối cùng của sự Giác Ngộ. Ngài thấy biết, hiểu thấu
tất cả mọi sự việc từ nguồn gốc, diễn tiến, và sự tồn tại hay biến đi của chúng.
Chúng có mất không? Điều ấy, khiến Đức Phật bỏ công ra đi thuyết giảng cho con
người hiểu thấu mà chọn cho mình con đường để đi, suốt hơn 45 năm trong cuộc sống
của Ngài. Nếu một khi chúng sinh thành Phật thì chúng sinh ấy sẽ thấy, biết được
những điều trong vũ trụ như Ngài đã thấy, biết và trong Đạo Phật đã gọi là “Lậu
Tận Thông”, một trong Lục Thần Thông mà người tu hành đạt được khi thành Bậc Giác
Ngộ! Ngài có những Thần Thông như vậy, nhưng sao không thể giúp mọi chúng sinh
tu được dễ dàng trong đường tu của họ hay “cứu rỗi” mọi người, mọi chúng sinh có
tốt hơn không? Ý ấy, trong Kinh Địa Tạng có giải thích rõ hơn về Nghiệp Lực của
từng con người như sau:
“Nghiệp lực rất lớn, có thể sánh với núi
Tu Di, có thể sâu dường biển cả, có thể ngăn đạo thánh.
Vì thế chúng sanh chớ khinh điều quấy nhỏ
mà cho là không tội, sau khi chết đều có quả báo dầu đến mảy mún đều phải chịu
lấy.
Chí thân như cha với con, mỗi người cũng
theo nghiệp của mình mà đi khác đường, dầu cho có gặp nhau cũng chẳng bằng lòng
chịu khổ thay nhau”.
Nguyên Thảo,
10/10/2025.
No comments:
Post a Comment