Thursday, October 9, 2025

*Vài Vấn Đề Trong Đạo Phật.


*Vấn Đề I: Hai Bài Kinh.

Qua hai bài Kinh ấy, chúng ta có thể hiểu rằng: Đức Phật sau khi giác ngộ đã “Ngộ” được rất nhiều vấn đề trong đời sống cũng như vũ trụ; tuy nhiên, Ngài chỉ đề cập cho mọi người những gì là cần thiết chứ không thuyết tất cả những gì Ngài đã nhận, thấy, hiểu, biết; giống như Ngài đã so sánh “nắm lá trong tay” và lá ở trong rừng, hay có lúc Ngài lấy ví dụ khác là “đất trong móng tay so với đất bên ngoài đại địa”. Mặc dù nói thế, nhưng trong các bộ Kinh được sưu tập lại mà Ngài thuyết giảng suốt hơn 45 năm hành đạo trên thế gian, Ngài cho chúng ta biết rất nhiều điều xa lạ từ trong bản chất con người được cấu tạo từ đất, nước, gió, lửa; có cái Tâm giống như con vượn, con ngựa cho đến các thế giới của Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Câu Lưu Châu và ở trong vũ trụ có vô số thế giới, trong đó có thế giới giống như xoáy nước, giống như cây… ở trong phẩm Thế Giới Thành Tựu của Kinh Hoa Nghiêm…, hay các thế giới của Phật A Di Đà, Dược Sư Lưu Ly Quang, hoặc cõi của Bồ Tát Địa Tạng, hạnh nguyện của Ngài Quan Thế Âm… Muốn tìm lại Tâm phải thực hiện các bước giữ giới, thiền định thì mới có được Trí Tuệ. Từ cái “Tuệ” ấy, con người hay nói rộng ra là chúng sinh mới có thể hiểu được những gì mà Đức Phật đã chứng ngộ, thấy, biết. Chính vì thế mà Đức Phật đã đề cập đến bài Kinh thứ hai, cũng như Ngài tuyên bố với loài người sau nhiều năm thuyết giảng bằng câu “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”, hay “Hãy tự thấp đuốc lên mà đi” vì “không ai có thể chuộc tội, giải nghiệp cho ai” (ý trong Kinh Địa Tạng) mà phải chính mình giải tội cho mình! Bởi thế mà Ngài đúc kết lại tiến trình tu hành để đạt được mục đích “giải thoát” khỏi Vòng Luân Hồi trầm luân mà con người, hay mọi chúng sinh bị Nghiệp lôi cuốn vào trong đó, qua các bước của “Lục Độ Ba-La-Mật”: Bố Thí, Trì Giới, Tinh Tấn, Nhẫn Nhục, Thiền Định, Trí Huệ Ba La Mật.

Như trên đã nói: Sau thời gian 49 ngày nhất quyết Thiền Định, Thích Ca đạt được kết quả tu hành và nhận thức được nhiều vấn đề về chúng sinh và vũ trụ. Tuy nhiên, khi giảng giải, hướng dẫn cho chúng sinh đệ tử, Ngài không nói hết những gì Ngài nhận biết mà chỉ đề cập đến những vấn đề cần thiết cho con người, chỉ riêng con người, cách thực hiện theo những kinh nghiệm mà Ngài đã đi đến giải thoát, vì những điều khác không thích hợp cũng như không ích gì cho sự tu hành để giải thoát. Chính vì thế mà Ngài giảng ở bài Kinh thứ nhất, và khi có người gặn hỏi về các vấn đề khác quá xa xôi, không cần thiết Ngài đã đề cập đến bài Kinh thứ hai. Tại sao vậy? Vì những điều xa vời đó ngoài sự thiết yếu, đôi khi lại làm cho người mới thực hiện tu hành giải thoát, sẽ thêm nhiều rắc rối, nghĩ ngợi mà trở ngại đường tu. Và chúng ta cần nhớ lại rằng: Trong thời gian Ngài tìm học đạo, không phải chỉ có Ngài sử dụng đến Thiền Định, mà sự Thiền Định đã có trước khi Ngài thực hiện khá lâu, vì vào thời ấy Ngài đã đi học với nhiều vị thầy khác trong thời gian dài 6 năm. Tuy nhiên, với các vị thầy ấy Ngài không đạt được kết quả, cho nên Ngài mới quyết tâm “tu chết bỏ”. Trong 49 ngày Ngài đạt được kết quả, sau khi kiểm nghiệm nhiều lần, Ngài xác quyết kết quả ấy, thế là Ngài bắt đầu đi giảng giải, rao giảng cho người khác mà anh em Kiều Trần Như là năm người, hay đệ tử đầu tiên. Vậy vì sao Ngài không thuyết giảng tất cả những gì Ngài đã nhận biết? Nếu chúng ta thử nghĩ Ngài thuyết giảng mọi điều thì không biết đến bao giờ, mà chưa chắc những người nghe hiểu được hoặc tin hết những gì Ngài nói. Với những gì Ngài thuyết trong hơn 45 năm mà chúng ta vẫn còn lẩn quẩn trong sự nghiên cứu, tìm hiểu; bằng chứng là những Luận của người đời sau hãy còn tiếp tục xuất hiện và ra đời. Nhưng, nếu chúng ta quay lại câu “Thân người khó đặng, Phật pháp khó nghe” mà trong tiếng Hán Việt là “Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn” thì chúng ta không còn ngạc nhiên về điều ấy nữa. Nói đúng ra, hầu hết mọi tôn giáo đều đề cập đến vấn đề nhức nhối của con người là “Sau khi chết”. Con người rất muốn biết: Tại sao con người, mọi vật hiện hữu trên cuộc đời nầy? Hiện hữu để làm gì? Ai tạo ra mọi vật? Mọi vật tồn tại đến bao giờ? Và khi chết, biến mất sẽ về đâu? Sau đó sẽ như thế nào? Vả lại, trong cuộc sống của đời người với quá nhiều cay đắng, khổ đau; thêm nhiều bệnh tật cùng với thiên tai dồn dập xảy ra, khiến tính mạng không biết đến lúc nào bị mất đi, tài sản cũng không bền vững với bảo tố, lụt lội, giông lốc…đúng là cuộc đời là một bể khổ triền miên. Lại thêm tâm tính từng con người cũng khác nhau, người ta có thể chà đạp, lường lận lẫn nhau để đạt được lợi lộc, sung sướng; hoặc dùng bầy đàn, sức mạnh để tàn sát tranh giành lẫn nhau để đạt được những gì mà bầy đàn đó mong muốn. Quả thật một môi trường đầy mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ vân..vân… mà không hiểu con người được tạo ra chịu nhiều đau khổ để rồi chết không thôi sao? Tất cả những vấn đề đó luôn là vấn đề nan giải đối với con người, mà các tôn giáo khó giải thích ổn thỏa cho người đời. Vì thế, người ta “phải” nhờ đến một “Vị Sáng thế” tưởng tượng như vị Trời, hay God… nào đó để giải thích; và nương vào vị ấy để mang đến những “hình ảnh” tốt đẹp, sung sướng, hạnh phúc nhất mà trong cuộc đời nầy không hề có để an ủi, lôi cuốn, hấp dẫn con người tin vào; hay phấn đấu để đạt được cái lý tưởng ấy, dù chẳng biết những hình ảnh đó là có hoặc không, hay chỉ là tin cùng chỉ tin mà thôi? Tại sao vậy? Vì trong tất cả mọi tôn giáo đều đề cập những vấn đề sau khi con người đi vào cái chết; như vậy lấy cái điều gì để chứng minh sự thực của những điều mà các tôn giáo đã nêu ra? Hay tôn giáo chỉ nêu ra những hình ảnh, lý tưởng “tưởng tượng, không tưởng” cho người ta mơ ước, sống trong ảo mộng hòng đánh lừa con người trong một thế giới tâm linh, và người ta mơ, cứ mơ về những cảnh sung sướng, hạnh phúc hoàn hảo ở cái thế giới không đau khổ, hưởng mọi đều tốt lành mà thế giới nầy không bao giờ có! Thế giới ấy chỉ có trong lý tưởng của tôn giáo đó mà thôi! Hơn nữa, thực tế cuộc đời nầy có nhiều cái mà người ta không thể giải đáp: Tại sao có người thì quá sung sướng, hạnh phúc; lại có những người vô vùng đau khổ, từ đau khổ nầy đến đau khổ khác. Ngay cả đối với người cùng chung cha mẹ vẫn khác nhau, nhất là với những người sinh đôi cũng có nhiều cái khác nhau. Rồi trên trái đất nầy có nhiều giống người khác nhau về màu da, phong tục, cao thấp khác nhau. Vậy thì tại sao? Không lẽ cứ đổ thừa cho Ông Trời, Đấng Sáng Thế, God ban cho con người những cái khác nhau như thế! Đối với những con người sung sướng, được hưởng mọi thứ trong cuộc đời thì là do được ân sủng của Trời của Sáng Thế hay God; còn những người lãnh nhiều đau khổ, nghèo khổ cũng do Ông Trời ban cho, hành hạ họ như vậy? Té ra, Ông Trời chẳng là Đấng Thiện Lành, Công Bằng nào cả mà chỉ là một Đấng Bất Công, Tàn Nhẫn! Do đó, người ta có thể nghĩ rằng: Từ nơi không biết rõ vũ trụ, mọi vật, con người được hình thành như thế nào, cho nên nhiều dân tộc nghĩ đến những câu chuyện hoang đường để giải thích như là các câu chuyện vui chơi mà chúng ta thường gọi là “Chuyện thần thoại”. Không lẽ nhiều tôn giáo cũng tạo nên các câu chuyện như thế để lôi cuốn những con người theo vào tôn giáo của mình, mà chẳng biết là các nhân vật “Sáng Thế” đó có hay không? Và các tín đồ chỉ tin vào với Cái Đức Tin của mình! Đa số câu chuyện chỉ dựa vào “Mặt Trời” vì mỗi ngày khi mặt trời xuất hiện là một ngày mới bắt đầu, và với mặt trời mọi cuộc sống cũng được phát triển và tồn tại. Nhưng cũng với mặt trời mà người ta thấy nhiều thiên tai xảy ra từ trong thiên nhiên, thế là từ xưa mặt trời được xem là “Đấng Sáng Thế”, mọi câu chuyện được thêu dệt quanh mặt trời, đôi khi đi xa hơn người ta lại tưởng tượng mặt trời có cả một gia đình, hay một vương triều như trần gian con người đã có. Rồi đến ngày nay, khoa học tiến vào không gian phát hiện ra mặt trời chỉ là mặt trời, chứ không là Ông Trời hay Đấng Sáng Thế nào cả. Mặt Trời chỉ là một định tinh trong hệ thống Thái Dương Hệ cùng với rất nhiều Thái Dương Hệ khác trong một Thiên Hà nào đó, và nó hiện diện cùng với vô số Thiên Hà khác trong vũ trụ bao la!

Riêng trong Đạo Phật, Đức Phật đã dùng những cái mà mình đã “thấy biết” qua Phật Nhãn và Trí Huệ là kết quả đạt được trong đường tu, hành Thiền của mình để giảng lại cho mọi người biết, mà từ đó có thể tu hành để đạt được kết quả như Ngài, cho nên Ngài mới nói “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật đã thành”. Tại sao Ngài lại khẳng định như vậy? Vì Ngài cũng là một con người bình thường như bao nhiêu con người khác, nhưng Ngài đã thực hành một phương thức, một cách riêng để rồi Ngài đạt được kết quả khả quan, hiểu biết nhất khi Ngài đạt được mục đích cuối cùng của sự Giác Ngộ. Ngài thấy biết, hiểu thấu tất cả mọi sự việc từ nguồn gốc, diễn tiến, và sự tồn tại hay biến đi của chúng. Chúng có mất không? Điều ấy, khiến Đức Phật bỏ công ra đi thuyết giảng cho con người hiểu thấu mà chọn cho mình con đường để đi, suốt hơn 45 năm trong cuộc sống của Ngài. Nếu một khi chúng sinh thành Phật thì chúng sinh ấy sẽ thấy, biết được những điều trong vũ trụ như Ngài đã thấy, biết và trong Đạo Phật đã gọi là “Lậu Tận Thông”, một trong Lục Thần Thông mà người tu hành đạt được khi thành Bậc Giác Ngộ! Ngài có những Thần Thông như vậy, nhưng sao không thể giúp mọi chúng sinh tu được dễ dàng trong đường tu của họ hay “cứu rỗi” mọi người, mọi chúng sinh có tốt hơn không? Ý ấy, trong Kinh Địa Tạng có giải thích rõ hơn về Nghiệp Lực của từng con người như sau:

 

“Nghiệp lực rất lớn, có thể sánh với núi Tu Di, có thể sâu dường biển cả, có thể ngăn đạo thánh.

Vì thế chúng sanh chớ khinh điều quấy nhỏ mà cho là không tội, sau khi chết đều có quả báo dầu đến mảy mún đều phải chịu lấy.

Chí thân như cha với con, mỗi người cũng theo nghiệp của mình mà đi khác đường, dầu cho có gặp nhau cũng chẳng bằng lòng chịu khổ thay nhau”.

 

Nguyên Thảo,

10/10/2025.

 

 

No comments:

Post a Comment