Sunday, November 2, 2025

*Vài Vấn Đề Trong Đạo Phật. (tt)

 

*Vấn Đề II: Vũ Trụ Và Chúng Sinh!


Tại sao ở đây, chúng ta bàn về hai chữ “chúng sinh”? Chúng sinh là từ ngữ mà Đức Phật đề cập đến, và cũng là đặc trưng của Đạo Phật khi nói tới mọi loài hay mọi vật có sự sống, ngay như cây cỏ, chiếc lá, côn trùng ngoài những vật vô tri. Chúng sinh hiện diện trong cõi đời, trong không gian với hình thể mà ta có thể thấy bằng mắt, hay quá nhỏ phải xem bằng kính hiển vi; hoặc bằng “không hình thể” ta không thể thấy mà chỉ nghĩ đến thế giới của họ như chúng sinh ở cõi Trời, cõi ATuLa, Ngạ Quỷ, Địa Ngục qua những điều Đức Phật thuyết giảng, vì chúng ta không thấy họ được bằng mắt thịt trần đời. Đức Phật thấy họ vì Đức Phật nhìn họ qua Phật Nhãn, sau khi Ngài đã “giác ngộ” tức là thành Phật! Vậy thì, trong Đạo Phật chứng minh là không phải chỉ có loài người, súc vật không thôi mà còn coi mọi loài cây cỏ ngay cả những chiếc lá cũng đều là chúng sinh vì chúng vẫn có đời sống, có sinh lão bệnh tử. Một cách tổng quát, Đức Phật cho chúng ta biết trong thiên nhiên có chúng sinh với “Sinh, lão, bệnh, tử”; vật chất thì “Sinh, trụ, dị diệt”; và hiện tượng thì “Thành, trụ, hoại, không” để chỉ đến mọi điều hiện diện trong vũ trụ. Đồng thời, Ngài cũng đề cập đến những thế giới có hình sắc mà được gọi là “Sắc giới” (nơi chúng sinh đã ly dục, hình dáng và cảnh sắc đều được trang nghiêm, thanh tịnh), hay những chúng sinh trong cõi không có hình thể “Vô sắc giới” (chúng sinh ở đây không có hình thể, sắc uẩn, chỉ còn Thọ, Tưởng, Hành, Thức bốn ấm vi tế nên còn gọi là Tinh thần giới); hoặc những chúng sinh có hình sắc nhưng còn cần đến nhu cầu tình cảm, nhiễm năm thứ dục lạc về: Tài, sắc, danh, thực, thùy nên gọi là Dục giới tạo nên ba cõi gọi là Tam Giới hiện diện trong cõi Ta Bà đầy đau khổ nầy.  

Đó là những điều đại khái mà chúng ta đi tìm hiểu tổng quát, sau đây chúng ta đi vào bộ Kinh Lăng Nghiêm để xem Đức Phật giải thích về con người (hay chúng sinh) và vũ trụ như thế nào! (Kinh Lăng Nghiêm do Hòa Thượng Thích Thiện Hoa dịch, trong bộ sách Phật Học Phổ Thông):

Đầu tiên hết, chúng ta sẽ quay trở lại xem con người, chúng sinh phát sinh từ đâu, và tại sao lại đến đây trong cõi Diêm Phù Đề đầy đau khổ nầy. Con người, chúng sinh vốn dĩ không có hình sắc mà chỉ là Tâm Thức của mình ở trong cõi yên tịnh với biết bao nhiêu Tâm Thức của nhiều chúng sinh khác. Nhưng do vì “sự không biết” hay còn ngu muội (Vô Minh) mà mọi Tâm Thức ấy rời cõi yên bình để bước vào vòng xoay của cuộc đời trần tục nầy với mọi sự tranh đấu, lường lận, gian manh của một thế giới rối loạn, ít vui, nhiều đau khổ. Và với những “hành động” Sát, Đạo, Dâm, Vọng do những tính tình, khí chất từ Tham, Sân, Si mà sinh ra qua Thân, Khẩu, Ý khiến con người, chúng sinh tạo thành “Nghiệp”, chính cái “Nghiệp” nầy lôi cuốn chúng sinh phải bị lâm vào một cái vòng “Tái Sinh” ở kiếp sau để đòi, trả nợ mình đã gieo với những chúng sinh khác trong nhiều kiếp trước, mà Đức Phật cho biết đó là “Vòng Luân Hồi”! Mọi con người, chúng sinh mà chúng ta gặp gỡ, tiếp xúc, quan hệ trong một kiếp nào đó đều là “Duyên nợ” để được trả hoặc đòi nợ đã có trong nhiều tiền kiếp. Và mọi việc xảy ra trong đời, nó được diễn tiến từ sự kiện nầy đến sự kiện khác, chẳng qua là do các món nợ, ân tình kết nối lại thành chuỗi mà danh từ “Duyên Khởi” (sự kiện khởi đầu) và tiếp nối nhau, việc xảy ra trước là nguyên nhân cho sự kiện sau cứ tiếp nối cho đến dứt, rồi sự kiện khác tiếp xảy ra sau, đó là “Trùng Trùng Duyên Khởi” cho đến khi chấm dứt cuộc đời thì thôi. Cho nên cuộc sống hiện tại là “Trả Nhân” trong kiếp trước, hay nói cách khác là “Nhận Quả” ở kiếp nầy; nhưng những hành vi trong kiếp nầy sẽ là “Nhân” của những kiếp sau. Do tùy những nhân nào nẫy mầm trong kiếp tới sẽ định hướng chúng sinh đó sẽ đi về giới nào trong sáu cõi của Vòng Luân Hồi như cõì: “Trời, Người, Atula, Ngạ Quỷ, Súc Sinh và Địa Ngục”. Đó là những điều cơ bản để chúng ta có thể hiểu dễ dàng hơn khi đi vào Kinh Lăng Nghiêm như chúng tôi đã trình bày ở trên.

Trong Kinh Lăng Nghiêm có đoạn:

 

“Các ông nên biết: Đất, nước, gió, lửa, hư không, cái thấy và thức tâm gọi chung là 7 đại, tánh của nó đều là chơn tâm viên mãn khắp giáp tất cả, vốn không sanh diệt. Các ông vì mê muội nên không biết”.

 

Đó là điểm khởi đầu mà Đức Phật cho biết về nguồn gốc của muôn việc trong vũ trụ và thế giới, ấy là sự hòa hợp, cái chung, không phân biệt khắp nơi và nó cũng chẳng sanh ra mà cũng chẳng mất, và Đức Phật ở đây cũng không nói xa hơn nữa. Điều ấy khiến cho chúng ta nhớ đến cái giáo thuyết Dịch Lý bên Trung Hoa: Khởi đầu vũ trụ là một khối hỗn mang, sau do biến động mà sinh ra “Nhất âm, nhất dương” và trở thành “chi vị đạo”, rồi từ đó mới “lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quai sinh vạn vật”. Hay trong khoa học cho là “Khối tinh vân” trong vận động của nó đã sinh ra Thái Dương Hệ và Thiên Hà. Hoặc trong sự phát triển của tế bào cũng là sự phân đôi. Cái phôi của bào thai cứ phân đôi mãi để trở thành thai nhi trong cơ thể của người mẹ rồi đợi ngày được sinh nở trở thành con người, chào đời cho một cuộc sống mới. Nhưng trong Đạo Phật còn cho chúng ta biết “Đất, nước, gió, lửa” tạo nên vật chất, thân thể con người, sinh vật; “Thức tâm” để nói lên cái nồng cốt, cốt lõi tinh thần của chúng sinh; và cùng “Cái thấy” ở chỗ khác Đức Phật nói rõ hơn là:

 

“Thấy, nghe, hay, biết sáu giác quan kể là một, cùng với hư không và bốn đại, thành ra sáu đại, tánh nó viên dung vốn không lay động, đồng một thể chơn tâm, không sanh không diệt, thế gian vì mê lầm không biết sanh tâm phân biệt, chấp cho nhân duyên sanh, hoặc tự nhiên có, đều không đúng cả”

 

 mà khi hình sắc con người, chúng sinh thành hình chúng được hiện diện qua các giác quan (lục căn) và nhận thức (lục thức) của những giác quan nầy. Còn tất cả đều nương tựa vào hư không và thân xác được tăng trưởng, lớn lên cũng là nhờ từ hư không mà nên. Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, tập 2 trang 247 có ghi:

 

“Phật tánh của chúng sanh chẳng hư, chẳng hoại, chẳng bị kéo, bị bắt, chẳng bị trói, bị buộc. Như trong chúng sanh có hư không, vì tất cả chúng sanh đều có hư không chẳng chướng ngại, chúng sanh đều chẳng tự thấy mình có hư không này. Giả sử nếu chúng sanh chẳng có hư không thời không có những sự đến, đi, đứng, ngồi, nằm, chẳng sống chẳng lớn. Do nghĩa này nên trong kinh ta nói tất cả chúng sanh đều có hư không giới, hư không giới đây gọi là hư không. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy”.

 

Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật cho chúng ta biết hai điều cơ bản: Chơn Tâm và Vọng Tâm: Chơn Tâm là căn bản của Bồ Đề, Niết Bàn tức là sự Giác Ngộ; còn Vọng Tâm là căn bản của Sinh tử luân hồi. Nếu người tu hành lấy Vọng Tâm làm căn bản thì không bao giờ giải thoát được mà còn giống như “nhận giặc làm con” chỉ phá hoại đến gia sản của mình chứ không lợi lộc gì cả; hay “nấu cát làm cơm” thì không bao giờ có được là cơm. Nhưng điều quan trọng nhất là: “Ai tu nấy chứng, không thể thay thế cho nhau được”!

Và sau đó, Đức Phật giải thích “Chơn Tâm” như sau:

 

“Tất cả các cảnh vật sum la vạn tượng trong thế gian nầy, đều ở trong chơn tâm; chơn tâm bao trùm khắp giáp cả mười phương thế giới”;

Và:

“Chơn Tâm nhiệm mầu vắng lặng mà thường sáng suốt chiếu soi” (Tánh giác diệu minh. bản giác minh diệu)

 

Từ cái “Chơn Tâm” nầy, Đức Phật đưa chúng ta đến cái giải thích toàn bộ sự hình thành vũ trụ như thế nào? Điều nầy được chứng minh qua đoạn Kinh sau:

 

“Từ một thể chơn tâm không khác, vì vọng niệm phân biệt có năng sở, bỉ thử sai khác, nên hiện ra có hư không và thế giới. Nhơn có hư không thế giới nên mới có chúng sanh. Đã có thế giới và chúng sanh lăng xăng đối đãi nhau, nên khởi lên vô số vọng tưởng phân biệt: Tốt xấu, phải, chẳng v..v…Vì thế mà sanh ra đủ các phiền não trần lao nhiễm ô. Cái có hình tướng và sanh diệt là thế giới, cái không hình tướng và yên tịnh là hư không; khác với hư không thế giới là chúng sanh vậy”.

 

Hay:

 

“Này ông Phú Lâu Na, thế giới, chúng sanh và nghiệp quả ba món điên đảo tương tục nầy đều ở trong Chơn Tâm, vì Vô Minh vọng động sanh ra “năng phân biệt” và “sở phân biệt” tương đối, nên vọng thấy có sơn hà đại địa, thế giới và chúng sanh, rồi tiếp tục sanh hóa, vô cùng hư vọng”.

 

Và một điều khác nữa, cũng góp phần tạo nên cái thế giới vũ trụ nầy mà Đức Phật đã nêu lên như sau:

 

“Tùy theo tâm của chúng sanh tạo nghiệp và phân biệt như thế nào, thì có ứng hiện ra như thế nấy”.

 

hoặc:

 

“Vốn sẵn thanh tịnh khắp giáp cả pháp giới, tùy tâm của chúng sanh phân biệt như thế nào, thì nó ứng hiện như thế ấy”.

Đó là sự thành hình vũ trụ, thế giới kể cả chúng sinh mà theo như Đức Phật đã chỉ rõ cho chúng ta biết khi những lời Ngài thuyết giảng được thu thập, gom góp lại trong bộ Kinh gọi là Kinh Lăng Nghiêm, Ngài không nói xa hơn nữa ngoài cái Chơn Tâm khắp cả Pháp Giới. Cái Chơn Tâm ấy rất nhiệm mầu, vắng lặng và thường sáng suốt chiếu soi (Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu). Nhưng do vì Vô Minh mà “vọng niệm phân biệt” sinh khởi, từ đó mới có hư không, thế giới và chúng sinh, mọi cảnh sum la vạn tượng trong thế gian, vũ trụ nầy đều tùy theo “tâm của chúng sinh tạo nghiệp và vọng tưởng, phân biệt như thế nào” thì những “ứng hiện” sẽ hiện ra như thế đấy. Và mọi sự biến đổi cũng từ đó mà ra!

 

Nguyên Thảo,

3/11/2025.

 


Saturday, November 1, 2025

*Đào Tạo Nhân Tài Để Làm Gì?


“Nhân Tài” là gì? Có phải chăng là những người có tài năng, những khả năng giỏi có thể giúp ích cho cuộc sống của mình, mang lại lợi ích cho gia đình, vợ con, dòng họ trong tương lai; và với tài năng ấy có thể cống hiến, đóng góp cho sự tiến bộ, giàu mạnh của đất nước; góp phần làm cho đồng bào được sung túc, hạnh phúc; hay xa hơn nữa là đem thành quả, tri thức tới cùng nhân loại? Nếu là như thế thì nhân tài rất là có ích cho xã hội và đất nước! Thế thì chúng ta và đất nước chào đón họ như thế nào cho xứng đáng?

Tất nhiên, nhân tài không dễ gì kiếm được! Nếu nhân tài dễ đào tạo, kiếm được thì nhân tài đâu cần phải săn đón, trọng vọng. Một đất nước có nhiều nhân tài thì quả là có phúc. Học giỏi, nhiều văn bằng chưa hẳn là người đã có tài. Số nhân tài trong học thuật không nhiều, nếu không là hiếm có. Trên thế giới, giống dân có nhiều nhân tài phải nói là người Do Thái, có lẽ điều đó không mấy ai phủ nhận. Họ đã đóng góp nhiều công sức, trí tuệ cho nhân loại, kiến thức của họ được giữ gìn, tiếp nối để học tập và phát triển.

Nhân tài có thể họ là những thiên tài, được thụ hưởng từ trong bản chất con người của họ, nhưng đa số được phát triển từ trong trường học. Với thiên tư đã thông minh, tiếp thu các kiến thức học được từ trong trường học, sách vở nhanh chóng họ dần trở nên có tài năng, cái khả năng càng ngày càng được sáng chói và đưa đến những thành quả, sáng kiến, phát minh được phát tiết. Thế là họ trở thành thiên tài.

Nói như thế, nhân tài là tự trong thiên tư đã có mầm mống để phát khởi, giống như những hạt nhân có mầm sống rất mạnh, nhưng hạt nhân đó cần có nhiều yếu tố khác để kích thích trở nên nẩy mầm mạnh hơn như điều kiện đất tốt, độ ẩm hay thời tiết thích hợp. Thì nhân tài cũng như thế, chương trình giáo dục tốt khiến học sinh dễ dàng nhận thức, nội dung giảng dạy cần được tuyển chọn có chất lượng, thích hợp từng lứa tuổi, nhất là phương pháp giáo dục để truyền thụ một cách tối ưu cho học sinh tiếp thụ có kết quả. Những phương cách dễ dãi trong giáo dục như nâng đỡ thành phần được ưu đãi; cho kết quả tốt cho những nhóm cần thiết mà không có chất lượng, thì chỉ là những cuộc nâng đỡ để giết hại tương lai của đất nước. Nếu những thành phần đó một mai lên lãnh đạo, cầm quyền thì giống như đưa những người ngu dốt hướng dẫn cho cả dân tộc đi vào chỗ diệt vong. Họ sẽ phá tan nát với những kế hoạch, chương trình ngù ngờ, lãng phí ngân quỹ và tài nguyên của quốc gia… thì làm sao đất nước có thể tiến lên sự hưng thịnh được, đúng như người xưa đã nói: “Làm thầy thuốc mà sai lầm chỉ hại có một người, làm chính trị sai lầm thì hại cho một nước, làm giáo dục sai lầm sẽ hại cho muôn đời”! Quả thật là như vậy! Nếu chúng ta bỏ ra một chút thì giờ suy nghĩ kỹ hơn thì điều ấy không sai!

Giả sử vì lý do cần thiết nền giáo dục ưu tiên, dễ dãi cho số học sinh nào đó; hay vì nhu cầu cân nhắc mà học sinh được nâng lên trong nhiều năm, trong khi số học sinh thời kỳ đó thiếu chất lượng, không đủ khả năng; thì một mai khi họ ra hướng dẫn cho thế hệ sau, hay họ được cất nhắc lên hàng lãnh đạo thì bạn sẽ nghĩ kết quả đạt được sẽ đi về đâu. Như trong thời chúng tôi nền giáo dục trong trường hãy còn kỹ lưỡng, chú trọng về chất lượng, mặc dù thua với những thế hệ trước; nhưng trình độ khi ra ngoài chúng tôi vẫn khá hơn không đến đỗi ngớ ngẩn về kiến thức. Sau đó vài năm, thế hệ sau chất lượng học sinh khá kém do tình hình chiến tranh cũng như nhu cầu cấp thiết, nên những người được tuyển chọn vào làm giáo viên để dạy cho học trò có người viết chữ trên bảng đã xấu mà kiến thức cũng tệ; như vậy bạn phải nghĩ thế nào? Thế cho nên chất lượng về giáo dục càng ngày càng phải nâng cao, chương trình cần chọn lọc tốt hơn thì giáo dục, trường học mới đạt kết quả cao được. Có như vậy học sinh mới có thể được kích thích những tài năng tiềm ẩn trong con người của chúng, thì chúng mới có thể trở thành nhân tài trong tương lai.

Bất cứ môt học sinh nào khi bước vào trường học cũng đều nghĩ mình học để “biết chữ và có được một số kiến thức” nào đó cho cuộc đời. Học lên khá hơn một chút, thì mong mình đủ điều kiện để theo học đạt được trình độ nào đó, có thể kiếm được một công việc làm thích hợp cho mai sau để nuôi bản thân và gia đình. Với điều kiện cao hơn nữa, đi vào đại học sinh viên chọn ngành mong mình được tốt nghiệp, có nhiều tài năng để đem đến cho chính mình một cuộc sống tốt đẹp; đồng thời thi thố tài năng, đóng góp cho xã hội hay đất nước được tiến triển hơn. Với đầy lý tưởng, nuôi tham vọng, khát vọng trở thành những tài năng, sinh viên học tập, hăng say với nhiều hoài bão về tương lai cho mình và đất nước. Họ hăng hái “lên đường” với hành trang như thế đó. Nhưng để trở thành nhân tài không phải dễ mà ai cũng làm được; do vậy số nhân tài thực sự rất hiếm, và nhân tài có được môi trường hoạt động hay không là một chuyện khác. Những người may mắn thì nhanh được người biết tới mà sử dụng; còn nhiều người phải chịu thử thách trong thời gian nào đó dù ngắn hay dài. Ở những chế độ trọng người tài thì người ta cố tìm người tài đức mà đưa vào các vị trí thích hợp; đồng thời tạo điều kiện, môi trường giúp họ hoạt động hữu hiệu, thi thố tài năng để giúp cho người dân lẫn đất nước với số lương hậu hĩnh, ưu đãi. Đối với những chế độ theo quan điểm riêng, thì người tài vẫn không được sử dụng dù họ có tài năng đến đâu đi nữa; mà chế độ ấy chỉ sử dụng, tin tưởng vào những người của họ dù người của họ không có tài năng gì cả. Tất nhiên, nếu như thế thì chúng ta cũng đoán được kết quả sẽ ra sao? Không những thế, đôi khi nhiều người tài giỏi từ bên ngoài về cũng không được trọng dụng, vì những người đó là những người không đáng được họ tin tưởng. Trên thế giới nầy chẳng thiếu gì những chế độ như vậy, cho nên những người tài phải đến những nơi khác để được trọng dụng và thi thố tài năng. Quả thực là tiếc cho một đất nước nào đó vì cái chế độ quan điểm mà người tài phải lưu vong và mai một; nhân tài phải rời đi nơi khác để tìm cho mình một môi trường làm việc. Muốn phục vụ cho đất nước mà cũng không xong! Như thế thì đào tạo nhân tài để làm gì? Và người ta học để trở thành nhân tài để làm chi? Nhân tài không bằng một con người kém năng, thiếu trí của những con ông cháu cha. Học để tốn hao bao tiền của, công sức mà không hề được chú trọng, sử dụng. Vậy học để làm gì? Đồng thời, buồn cho một đất nước không bao giờ ngóc đầu lên nỗi vì những con người lãnh đạo thủ cựu, cố thủ cái quan điểm lỗi thời; hay cho một chủ nghĩa không tưởng nào đó khó thực hiện trong một thế giới con người đầy tham, sân, si; lớn hiếp bé, mạnh hiếp yếu; người quyền lực luôn có chiều hướng áp bức kẻ bị cai trị, với nhiều gian tham, đầy tham nhũng ở cõi đời nầy! Cho nên, đất nước không tiến lên được hoặc trở nên suy kém và mất nước chẳng phải là do thiếu người tài giỏi, mà do ở những kẻ lãnh đạo quá tồi vì không học được câu “Dụng nhân như dụng mộc” lẫn “Hạnh phúc cho nhân dân là gốc, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động phục vụ trong lý tưởng của mình”!

 

Đồ Ngông,

2/11/2025.