*Vấn Đề II: Vũ Trụ
Và Chúng Sinh!
Tại sao ở đây, chúng ta bàn về
hai chữ “chúng sinh”? Chúng sinh là từ ngữ mà Đức Phật đề cập đến, và cũng là đặc
trưng của Đạo Phật khi nói tới mọi loài hay mọi vật có sự sống, ngay như cây cỏ,
chiếc lá, côn trùng ngoài những vật vô tri. Chúng sinh hiện diện trong cõi đời,
trong không gian với hình thể mà ta có thể thấy bằng mắt, hay quá nhỏ phải xem
bằng kính hiển vi; hoặc bằng “không hình thể” ta không thể thấy mà chỉ nghĩ đến
thế giới của họ như chúng sinh ở cõi Trời, cõi ATuLa, Ngạ Quỷ, Địa Ngục qua những
điều Đức Phật thuyết giảng, vì chúng ta không thấy họ được bằng mắt thịt trần đời.
Đức Phật thấy họ vì Đức Phật nhìn họ qua Phật Nhãn, sau khi Ngài đã “giác ngộ”
tức là thành Phật! Vậy thì, trong Đạo Phật chứng minh là không phải chỉ có loài
người, súc vật không thôi mà còn coi mọi loài cây cỏ ngay cả những chiếc lá cũng
đều là chúng sinh vì chúng vẫn có đời sống, có sinh lão bệnh tử. Một cách tổng
quát, Đức Phật cho chúng ta biết trong thiên nhiên có chúng sinh với “Sinh, lão,
bệnh, tử”; vật chất thì “Sinh, trụ, dị diệt”; và hiện tượng thì “Thành, trụ, hoại,
không” để chỉ đến mọi điều hiện diện trong vũ trụ. Đồng thời, Ngài cũng đề cập đến
những thế giới có hình sắc mà được gọi là “Sắc giới” (nơi chúng sinh đã ly dục,
hình dáng và cảnh sắc đều được trang nghiêm, thanh tịnh), hay những chúng sinh
trong cõi không có hình thể “Vô sắc giới” (chúng sinh ở đây không có hình thể,
sắc uẩn, chỉ còn Thọ, Tưởng, Hành, Thức bốn ấm vi tế nên còn gọi là Tinh thần
giới); hoặc những chúng sinh có hình sắc nhưng còn cần đến nhu cầu tình cảm,
nhiễm năm thứ dục lạc về: Tài, sắc, danh, thực, thùy nên gọi là Dục giới tạo nên
ba cõi gọi là Tam Giới hiện diện trong cõi Ta Bà đầy đau khổ nầy.
Đó là những điều đại khái mà chúng ta đi
tìm hiểu tổng quát, sau đây chúng ta đi vào bộ Kinh Lăng Nghiêm để xem Đức Phật
giải thích về con người (hay chúng sinh) và vũ trụ như thế nào! (Kinh Lăng Nghiêm
do Hòa Thượng Thích Thiện Hoa dịch, trong bộ sách Phật Học Phổ Thông):
Đầu tiên hết, chúng ta sẽ quay trở lại
xem con người, chúng sinh phát sinh từ đâu, và tại sao lại đến đây trong cõi Diêm
Phù Đề đầy đau khổ nầy. Con người, chúng sinh vốn dĩ không có hình sắc mà chỉ là
Tâm Thức của mình ở trong cõi yên tịnh với biết bao nhiêu Tâm Thức của nhiều chúng
sinh khác. Nhưng do vì “sự không biết” hay còn ngu muội (Vô Minh) mà mọi Tâm Thức
ấy rời cõi yên bình để bước vào vòng xoay của cuộc đời trần tục nầy với mọi sự
tranh đấu, lường lận, gian manh của một thế giới rối loạn, ít vui, nhiều đau khổ.
Và với những “hành động” Sát, Đạo, Dâm, Vọng do những tính tình, khí chất từ
Tham, Sân, Si mà sinh ra qua Thân, Khẩu, Ý khiến con người, chúng sinh tạo thành
“Nghiệp”, chính cái “Nghiệp” nầy lôi cuốn chúng sinh phải bị lâm vào một cái vòng
“Tái Sinh” ở kiếp sau để đòi, trả nợ mình đã gieo với những chúng sinh khác
trong nhiều kiếp trước, mà Đức Phật cho biết đó là “Vòng Luân Hồi”! Mọi con người,
chúng sinh mà chúng ta gặp gỡ, tiếp xúc, quan hệ trong một kiếp nào đó đều là “Duyên
nợ” để được trả hoặc đòi nợ đã có trong nhiều tiền kiếp. Và mọi việc xảy ra
trong đời, nó được diễn tiến từ sự kiện nầy đến sự kiện khác, chẳng qua là do các
món nợ, ân tình kết nối lại thành chuỗi mà danh từ “Duyên Khởi” (sự kiện khởi đầu)
và tiếp nối nhau, việc xảy ra trước là nguyên nhân cho sự kiện sau cứ tiếp nối
cho đến dứt, rồi sự kiện khác tiếp xảy ra sau, đó là “Trùng Trùng Duyên Khởi”
cho đến khi chấm dứt cuộc đời thì thôi. Cho nên cuộc sống hiện tại là “Trả Nhân”
trong kiếp trước, hay nói cách khác là “Nhận Quả” ở kiếp nầy; nhưng những hành
vi trong kiếp nầy sẽ là “Nhân” của những kiếp sau. Do tùy những nhân nào nẫy mầm
trong kiếp tới sẽ định hướng chúng sinh đó sẽ đi về giới nào trong sáu cõi của
Vòng Luân Hồi như cõì: “Trời, Người, Atula, Ngạ Quỷ, Súc Sinh và Địa Ngục”. Đó
là những điều cơ bản để chúng ta có thể hiểu dễ dàng hơn khi đi vào Kinh Lăng
Nghiêm như chúng tôi đã trình bày ở trên.
Trong Kinh Lăng Nghiêm có đoạn:
“Các ông nên biết: Đất, nước, gió, lửa,
hư không, cái thấy và thức tâm gọi chung là 7 đại, tánh của nó đều là chơn tâm
viên mãn khắp giáp tất cả, vốn không sanh diệt. Các ông vì mê muội nên không biết”.
Đó là điểm khởi đầu mà Đức Phật cho biết
về nguồn gốc của muôn việc trong vũ trụ và thế giới, ấy là sự hòa hợp, cái
chung, không phân biệt khắp nơi và nó cũng chẳng sanh ra mà cũng chẳng mất, và Đức
Phật ở đây cũng không nói xa hơn nữa. Điều ấy khiến cho chúng ta nhớ đến cái giáo
thuyết Dịch Lý bên Trung Hoa: Khởi đầu vũ trụ là một khối hỗn mang, sau do biến
động mà sinh ra “Nhất âm, nhất dương” và trở thành “chi vị đạo”, rồi từ đó mới “lưỡng
nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quai sinh vạn vật”. Hay trong
khoa học cho là “Khối tinh vân” trong vận động của nó đã sinh ra Thái Dương Hệ
và Thiên Hà. Hoặc trong sự phát triển của tế bào cũng là sự phân đôi. Cái phôi
của bào thai cứ phân đôi mãi để trở thành thai nhi trong cơ thể của người mẹ rồi
đợi ngày được sinh nở trở thành con người, chào đời cho một cuộc sống mới. Nhưng
trong Đạo Phật còn cho chúng ta biết “Đất, nước, gió, lửa” tạo nên vật chất, thân
thể con người, sinh vật; “Thức tâm” để nói lên cái nồng cốt, cốt lõi tinh thần
của chúng sinh; và cùng “Cái thấy” ở chỗ khác Đức Phật nói rõ hơn là:
“Thấy, nghe, hay, biết sáu giác quan
kể là một, cùng với hư không và bốn đại, thành ra sáu đại, tánh nó viên dung vốn
không lay động, đồng một thể chơn tâm, không sanh không diệt, thế gian vì mê lầm
không biết sanh tâm phân biệt, chấp cho nhân duyên sanh, hoặc tự nhiên có, đều
không đúng cả”
mà
khi hình sắc con người, chúng sinh thành hình chúng được hiện diện qua các giác
quan (lục căn) và nhận thức (lục thức) của những giác quan nầy. Còn tất cả đều
nương tựa vào hư không và thân xác được tăng trưởng, lớn lên cũng là nhờ từ hư
không mà nên. Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, tập 2 trang 247 có ghi:
“Phật tánh của chúng sanh chẳng hư,
chẳng hoại, chẳng bị kéo, bị bắt, chẳng bị trói, bị buộc. Như trong chúng sanh
có hư không, vì tất cả chúng sanh đều có hư không chẳng chướng ngại, chúng sanh
đều chẳng tự thấy mình có hư không này. Giả sử nếu chúng sanh chẳng có hư không
thời không có những sự đến, đi, đứng, ngồi, nằm, chẳng sống chẳng lớn. Do nghĩa
này nên trong kinh ta nói tất cả chúng sanh đều có hư không giới, hư không giới
đây gọi là hư không. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy”.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật cho chúng
ta biết hai điều cơ bản: Chơn Tâm và Vọng Tâm: Chơn Tâm là căn bản của Bồ Đề,
Niết Bàn tức là sự Giác Ngộ; còn Vọng Tâm là căn bản của Sinh tử luân hồi. Nếu
người tu hành lấy Vọng Tâm làm căn bản thì không bao giờ giải thoát được mà còn
giống như “nhận giặc làm con” chỉ phá hoại đến gia sản của mình chứ không lợi lộc
gì cả; hay “nấu cát làm cơm” thì không bao giờ có được là cơm. Nhưng điều quan
trọng nhất là: “Ai tu nấy chứng, không thể thay thế cho nhau được”!
Và sau đó, Đức Phật giải thích “Chơn Tâm”
như sau:
“Tất cả các cảnh vật sum la vạn tượng
trong thế gian nầy, đều ở trong chơn tâm; chơn tâm bao trùm khắp giáp cả mười
phương thế giới”;
Và:
“Chơn Tâm nhiệm mầu vắng lặng mà thường
sáng suốt chiếu soi” (Tánh giác diệu minh. bản giác minh diệu)
Từ cái “Chơn Tâm” nầy, Đức Phật đưa chúng
ta đến cái giải thích toàn bộ sự hình thành vũ trụ như thế nào? Điều nầy được
chứng minh qua đoạn Kinh sau:
“Từ một thể chơn tâm không khác, vì vọng
niệm phân biệt có năng sở, bỉ thử sai khác, nên hiện ra có hư không và thế giới.
Nhơn có hư không thế giới nên mới có chúng sanh. Đã có thế giới và chúng sanh lăng
xăng đối đãi nhau, nên khởi lên vô số vọng tưởng phân biệt: Tốt xấu, phải, chẳng
v..v…Vì thế mà sanh ra đủ các phiền não trần lao nhiễm ô. Cái có hình tướng và
sanh diệt là thế giới, cái không hình tướng và yên tịnh là hư không; khác với hư
không thế giới là chúng sanh vậy”.
Hay:
“Này ông Phú Lâu Na, thế giới, chúng
sanh và nghiệp quả ba món điên đảo tương tục nầy đều ở trong Chơn Tâm, vì Vô
Minh vọng động sanh ra “năng phân biệt” và “sở phân biệt” tương đối, nên vọng
thấy có sơn hà đại địa, thế giới và chúng sanh, rồi tiếp tục sanh hóa, vô cùng
hư vọng”.
Và một điều khác nữa, cũng góp phần tạo
nên cái thế giới vũ trụ nầy mà Đức Phật đã nêu lên như sau:
“Tùy theo tâm của chúng sanh tạo nghiệp
và phân biệt như thế nào, thì có ứng hiện ra như thế nấy”.
hoặc:
“Vốn sẵn thanh tịnh khắp giáp cả pháp
giới, tùy tâm của chúng sanh phân biệt như thế nào, thì nó ứng hiện như thế ấy”.
Đó là sự thành hình vũ trụ, thế giới kể cả chúng
sinh mà theo như Đức Phật đã chỉ rõ cho chúng ta biết khi những lời Ngài thuyết
giảng được thu thập, gom góp lại trong bộ Kinh gọi là Kinh Lăng Nghiêm, Ngài không
nói xa hơn nữa ngoài cái Chơn Tâm khắp cả Pháp Giới. Cái Chơn Tâm ấy rất nhiệm
mầu, vắng lặng và thường sáng suốt chiếu soi (Tánh giác diệu minh, bản giác
minh diệu). Nhưng do vì Vô Minh mà “vọng niệm phân biệt” sinh khởi, từ đó mới có
hư không, thế giới và chúng sinh, mọi cảnh sum la vạn tượng trong thế gian, vũ
trụ nầy đều tùy theo “tâm của chúng sinh tạo nghiệp và vọng tưởng, phân biệt như
thế nào” thì những “ứng hiện” sẽ hiện ra như thế đấy. Và mọi sự biến đổi cũng từ
đó mà ra!
Nguyên Thảo,
3/11/2025.
No comments:
Post a Comment