Monday, December 8, 2025

*Vấn Đề III: Đạo Phật Có Phải Là Câu Chuyện Thần Thoại?


Thú thật là tôi không nghiên cứu nhiều về Đạo Phật, nhất là trong thời gian trước kia, cái thời gian mà mình chưa bị “trí óc dồn ép” khiến phải suy nghĩ quá nhiều, thiếu điều quẫn trí. Không hiểu sao những chuyện buồn, và những sự việc không thuận lợi, chán nản dồn dập đưa tôi đến tình huống khá quẫn bách như thế. Người xưa nói “Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí”, điều ấy khá đúng với tôi vào thời kỳ đó. Từng bước tôi cố tìm cách tháo gỡ, nhưng sau khi tương đối ổn định, thì tình trạng sức khỏe không được tốt, tôi lại phải vào bệnh viện để giải phẩu ở xương sống, điều trị cho sự đau đớn chạy xuống tận bàn chân. Lúc nầy, tôi lại càng chán nản hơn, vì mình đảm trách công việc chính của nghề nông với nhiều công việc nặng nhọc, mà vợ không thể cáng đáng nỗi, còn mấy đứa con phải đi học. Thế là tôi nhất quyết bán đi cái khu vườn nhà nông mà hai vợ chồng đã tốn bao nhiêu công sức tạo nên. Ở vào tình cảnh đang chữa bệnh, bán đi cái công trình gầy dựng, vợ không đủ sức thay thế, con thì phải để cho chúng học, tôi lại lâm vào thế bế tắt, buồn hơn. Thế rồi, anh bạn nhà kế bên đến thăm lại nói chuyện về một nhà tu nổi đình nổi đám thời bấy giờ: Đó là bà Thanh Hải, người tự xưng là Vô Thượng Sư. Anh hỏi tôi. Tôi chưa nghe đến bà ấy bao giờ! Sau cùng, anh về nhà lấy tờ báo cũ có đăng bài “Âm thanh siêu thế giới” cho tôi. Sau khi đọc bài đó, tôi chỉ nhớ cái ý là “cái thai nằm trong nước mà vẫn sống”. Liên kết lại tôi thấy cũng có lý vì cái thai nằm trong bào thai đầy nước mà vẫn không bị ngộp thở; còn âm thanh siêu thế giới thì có những lần tôi cũng từng được nghe mà không để ý, vì lúc nhỏ khi tập lặn ở con suối nhỏ trong làng quê tôi có nghe, nhưng chỉ lấy làm lạ thôi. Rồi lúc đi dạy nơi xa, vào ban đêm thanh vắng tôi cũng lại nghe cái âm thanh vo ve ấy. Đến lúc nầy, sau khi đọc xong bài đăng trên báo đó, tối về tôi vận dụng tâm trí mình để tìm lại cái âm thanh mà tôi đã nghe ngày trước xem có giống cái âm thanh mà bà Thanh Hải nói hay không? Nó không khác mấy! Điều nầy, khiến tôi tò mò theo dõi. Rồi tôi lại cố nghe âm thanh bên lỗ tai trái có khác với âm thanh nghe được ở bên lỗ tai phải không? Có khác đôi chút, nhưng từ nghe bên nây xong lại nghe bên kia khiến cái chiều đi ngang lúc đầu, sau lại càng lúc càng thẳng đứng hơn, rồi chiều ấy đi lên đỉnh đầu vượt thoát ra không trung. Lấy làm lạ tôi cứ theo mãi, xem sự diễn tiến ấy đến đâu? Sự việc ngộ nghĩnh đó được tôi ghi lại trong bài “Sự huyền nhiệm của Tâm Linh” sau nhiều năm “lưỡng lự” không muốn viết; vì mình không xác quyết là nó có đúng hay không? Thế rồi, khi không viết thì không an lòng, trong lòng luôn có những thôi thúc, thúc giục lạ lùng. Cuối cùng tôi phải viết! Viết bài ấy ra, tôi như trút được cái “gánh nặng” mà mình phải cưu mang và cảm thấy nhẹ lòng!

Quên nói một điều là từ trước tôi chưa từng tìm hiểu vào Đạo Phật ngoài những kiến thức sơ sài được học trong trường, lẫn một lần khi vào năm học Lớp Nhứt (sau nầy là Lớp Năm, Tiểu học), lần ấy tôi theo Cô Út Sang, con út của Bà Hai chị Ông Nội, ra nhà Bà Tám ở An Sơn vài ngày, những ngày ấy tôi được đọc “ké” quyển truyện về cuộc đời Phật Thích Ca mà Bà Tám mướn về coi. Cuối quyển truyện có những chuyện kể gì đó mà đi trên không, tôi không nhớ rõ và các chuyện ấy cũng không hấp dẫn được tôi. Với Đạo Phật thì tôi chỉ biết có bao nhiêu đó thôi. Nhưng sau các biến cố vào giai đoạn khủng hoảng nhất tôi đã chiêm nghiệm được các điều kỳ quái! Không biết các điều ấy đúng hay sai và có phải là như vậy không? Sự thắc mắc mãi trong tâm hồn, cuối cùng tôi nghĩ: Điều mình cảm nhận nó giống như kết quả của một sự Thiền Định, mặc dù mình chưa học hay thực hành Thiền bao giờ. Vậy thì như thế nào? Nó có giống như Ngài Sĩ-Đạt-Ta khi quyết chí ngồi Thiền chăng? Thế rồi, tôi muốn đi tìm trong Kinh điển của Đạo Phật để xem coi có những điều mình đã cảm nhận và thấy như trong các giấc mơ màng ấy chăng? Nhưng muốn mượn Kinh điển về Đạo Phật thì phải vào chùa, nhưng từ trước tới giờ mình chưa vào chùa thì së hỏi mượn như thế nào? Cũng may, lúc ấy có người chị trước kia cũng không đi chùa, nhưng sau khi mẹ mất chị nhờ thầy trong chùa cúng thất tuần thì từ ấy chị vào chùa thường xuyên. Tôi theo chị tới chùa. Những ngày có thầy thuyết pháp chị cho tôi hay để tới nghe. Chị cũng thường cho tôi mượn các băng giảng của các thầy khác. Mỗi khi có thầy đề cập đến “Sự Giác Ngộ” tôi lại tò mò, hỏi xem coi sự giác ngộ như thế nào? Nhưng tất cả đều mông lung! Tức mình, tôi quyết chí đi tìm vào Kinh điển cho ra lẽ. Không những tôi tìm trong Kinh của Đạo Phật, tôi còn đi vào trong Kinh Thánh xem Đức Chúa ở trong đồng vắng trong 40 ngày làm cái gì, đã được cái gì và như thế nào? Vì tôi nghĩ với 40 ngày nhịn ăn, nhịn uống ấy không phải là ma quỷ khảo mà chính là Thiền Định, và tôi nhất quyết với thời gian ấy Đức Chúa Jesus mới khai mở tâm linh chứ không phải là được rửa tội ở dòng sông Jordan. Nhưng trong Kinh Thánh không đề cập rõ đến sự khai mở đó như thế nào? Tôi thất vọng! Đến một ngày khi đến chùa Quang Minh ở Melbourne (Úc Châu), tôi thỉnh được hai quyển: Đức Phật Và Phật Pháp của Nguyễn Kim Khánh dịch từ tác phẩm “The Buddha And His Teachings” của Hòa Thượng Narada Maha Thera; và quyển “Xuân Trong Cửa Thiền” số 4 của Hòa Thượng Thích Thanh Từ. Từ hai quyển sách ấy, tôi xem một quyển là để mình học, tìm hiểu vào căn bản của Đạo Phật; còn quyển sau để tôi tham khảo. Cũng may là trong quyển “Xuân trong cửa Thiền” 4 đó, có bài tự sự của Hòa Thượng Thích Thanh Từ về việc sau khi bạo bệnh, Ngài chán nản quyết “tu chết bỏ” ở một cái am nào đó trên Lâm Đồng. Theo Ngài cho biết, sau đó Ngài hiểu Đạo hơn. Ngài chỉ viết thế thôi! Nhưng trong tâm tư, tôi lại gắn liền sự khai ngộ của Ngài với việc tu chết bỏ của Đức Phật dưới cội Bồ Đề. Tại sao thế nhỉ? Theo tài liệu tôi đã được đọc thì Chúa Jesus với 40 ngày nhịn ăn, nhịn uống trong đồng vắng; Sĩ Đạt Ta mất 49 ngày dưới cội Bồ Đề; và Mohammed cũng thời gian tương tự ở núi Hira gần Mecca. Tại sao lạ vậy? Nhưng, ngoài những điều ấy ra, tôi không tìm được những gì tốt hơn về việc mình muốn tìm. Do vậy tôi phải đi tìm vào trong Kinh điển của Đạo Phật, mặc dù Kinh Phật rất là “tràng giang đại hải”. Cái khó của tôi là chưa hiểu gì về Đạo Phật, cộng với cái khó của Đạo Phật là danh từ và ngôn từ: Danh từ thì chuyên môn, từ ngữ Hán Việt đã khó mà lại thêm từ ngữ phiên âm từ chữ Phạn thì lại càng khó hiểu hơn. May mắn thêm lần nữa là Vị Hòa Thượng cùng quê lại tặng cho tôi bộ Phật Học Phổ Thông của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, gồm những giáo trình mà Ngài giảng dạy ở Trung Tâm Phật Học.

Từ đó, tôi phải dành thời gian để nghiền ngẫm, nghiên cứu, học hỏi nhiều hơn, trước khi bước vào đọc một bộ Kinh của Phật Giáo. Tuy nhiên, khi tìm hiểu đến phần về Kinh Lăng Nghiêm của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa đã giảng giải tôi có thể hiểu được nhiều hơn. Rồi đến Kinh Viên Giác và Kinh Kim Cang, tôi bắt đầu hiểu khá hơn về giáo lý Đạo Phật, nhất là tôi thấy một sự kết nối mật thiết trong các Kinh nầy để giải thích nhiều vấn đề trong giáo lý. Nhưng, đến phần về Duy Thức Học thì tôi không đủ trình độ để hiểu hết nội dung của nó, tuy vậy riêng phần cơ bản khiến tôi có thể hiểu sâu hơn về chuyện tâm lý của con người. Qua đó, tôi có thể hiểu qua những hành động từ thân, khẩu, ý mà con người tạo nghiệp như thế nào? Xong lại đến, từ tạo nghiệp kéo đến hệ quả “nhân, quả” để giải thích chuyện tái sinh, và mọi chuyện sẽ xảy ra trong những kiếp nào, bị xoay vòng trong sáu cõi Luân Hồi ra sao. Muốn thoát ra thì sẽ phải làm những gì khiến tôi quay lại Tứ Diệu Đế hay là Tứ Thánh Đế. Từ đó, tôi khởi đầu cho cuộc hành trình đi tìm hiểu vào Kinh điển, mục đích chính là tìm cho được “Sự khai ngộ” nó như thế nào?

Trước kia, khi đọc câu chuyện về cuộc đời của Đức Phật, ở phần cuối kể về những chuyện di chuyển trên bầu trời khiến cho tôi nghĩ đến các câu chuyện thần thoại, hay các câu chuyện thần tiên như bao nhiêu câu chuyện thần thoại của nhiều quốc gia khác. Rồi đến khi đọc vào vài bộ Kinh, khởi đầu ở mỗi bộ Kinh thường hay đề cập đến vô số Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Bồ Tát, Chư Thiên, Ma Vương,…từ các cõi, giới đến câu hội khiến người đọc không thể tưởng tượng nỗi, làm cho họ tưởng chừng như là những chuyện thần thoại, nhất là trong thời kỳ mà Phật Giáo biến mất ở Ấn Độ sau sự tàn phá của đạo quân Hồi Giáo xâm lược. Tuy vậy, khi đọc về Kinh Địa Tạng ở phẩm Thứ Ba: “Quán chúng sanh nghiệp duyên” có đoạn sau:

 

“Trong ngục có giường rộng khắp muôn dặm. Một người thọ tội thời tự thấy thân mình nằm đầy chật cả giường, đến nghìn muôn người thọ tội cũng đều tự thấy thân của mình nằm chật cả trên giường. Đó là do vì những tội nghiệp đã tạo ra nó cảm vời như thế”.

 

Hay trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, ở phẩm Đại Chúng Sở Vấn Thứ 17 có đoạn sau:

 

“Đức Thế Tôn muốn làm cho tất cả đại chúng mãn nguyện, mỗi mỗi lỗ chân lông trên thân Phật hóa thành vô lượng Phật mỗi Đức Phật đều có vô lượng Tỳ kheo Tăng. Chư Phật và Tỳ kheo Tăng nầy thị hiện thọ sự cúng dường của Đại chúng. Thích Ca Như Lai tự thọ phần của Thuần Đà dâng”.

 

Hay:

 

“Lúc bấy giờ rừng cây Ta La vốn hẹp nhỏ, do thần lực của Phật, khoảng không gian như mũi kim đều có vô lượng chư Phật Thế Tôn và quyến thuộc Bồ Tát đồng ngồi thọ thực. Những thức ăn cũng đồng không sai khác”.

 

Hoặc, ở một đoạn khác:

 

“Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: “Thế Tôn! Tôi đã thấy. Tôi thấy các Đức Như Lai đông vô lượng vô biên không thể tính đếm, lãnh thọ những thức uống ăn của đại chúng cúng dường. Lại thấy chư Phật thân rất cao lớn, mà chỗ ngồi chỉ choán khoảng bằng mũi kim. Chúng đông vi nhiễu không chướng ngại nhau”.

 

Khi thấy được những đoạn Kinh trên, tôi lại có những ý nghĩ khác mà không nghĩ các Kinh Phật là các chuyện thần thoại mà là ở vào một thế giới tâm linh mà chúng ta cần khám phá nhiều hơn, vì đối với thế giới địa ngục, chúng sinh “chiêu cảm” từ những tội chướng gây ra mà cảm thấy những hình phạt như vậy. Còn đối với trong thế giới của Phật thì do thần lực của Phật mà sinh ra những phép mầu mà ta đã thấy được các sự diễn tả để chứng minh; hay đúng hơn đó là thành quả “thấy, biết” của những con người, chúng sinh tu hành đạt đến sự Giác Ngộ nên có được như thế! Bởi vì các câu chuyện hay sự giáo hóa chúng sinh của Đức Phật mà chúng ta được nghe, được đọc, được học là những câu chuyện gần với thực tế, và đi sát vào đời sống con người chứ không là xa vời, vọng tưởng để chúng ta có thể liên hệ đến các câu chuyện thần thoại đã từng kể!

 

Nguyên Thảo,

09/12/2025.

 

  

Friday, December 5, 2025

*Lý Tưởng Và Thực Tế!

 

Ngày xưa, lúc còn ngồi trên ghế nhà trường, khi học về Kim Văn trong giờ Giảng Văn (Kim văn là giờ học về văn chương thời hiện đại như thơ mới, văn xuôi; khác với giờ Cổ Văn là học về văn chương thời trước như lối Thơ cổ, Đường luật, Thơ phú hay các tác giả xưa như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Thánh Tông, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Cao Bá Quát … chẳng hạn, hay các tác phẩm như Lục Vân Tiên, Truyện Kiều, Nhị Thập Tứ Hiếu,  Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm, Lục Súc Tranh Công…), thì Ông Thầy có cho học một bài luận lý về “Lý Tưởng”. Vì lâu quá tôi không rõ tác giả bài đó là ai, hay nhớ nội dung một cách rõ ràng; nhưng chỉ nhớ đại khái là bài ấy đề cập đến cái “lý tưởng” mà người nào đó đã ôm ấp. Lý tưởng là những gì mà mình mong muốn, ước mơ, hoài bão, theo đuổi để thực hiện trong tương lai cho một mục đích tốt đẹp trong cuộc đời; họ cố gắng thực hiện lý tưởng đó như cố biến “giấc mơ thành hiện thực”! Trong bài văn ấy, tác giả đã ví “Lý tưởng” như mặt trăng soi sáng trên bầu trời trong đêm tối, mà người mang lý tưởng phải nhắm vào đó mà tìm đường, vượt mọi chướng ngại để tiến tới, vượt lên nhằm đạt được mục đích sau cùng. Mục đích sau cùng ấy gọi là “Cứu cánh”! Giống như một đứa học trò có ước mơ trở thành một thầy thuốc giỏi để thi thố tài năng, giúp những người bệnh tật, xoa dịu những đau khổ về thân xác trong cuộc đời. Thế là với mơ ước đó, cậu học trò cố gắng học hành cho giỏi, cố vượt qua mọi kỳ thi để được vào trường thuốc. Sau nhiều năm trở thành một thầy thuốc, rồi với ước mơ cậu cố gắng mở lòng, nhẹ nhàng như một người mẹ đối với con cái chăm sóc cho bệnh nhân, cùng sự bền chí tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi nâng cao trình độ nghề nghiệp để đạt được kết quả tối ưu mà cậu đã mơ ước, mong muốn thực hiện những gì kết tinh trở thành lý tưởng. Ấy là con đường để thực hiện lý tưởng. Những phương tiện như sự giáo dục trong nhà trường, sự truyền đạt kiến thức của thầy cô, hay các phương tiện để học tập đều được tận dụng, sử dụng để làm bước tiến mà thực hiện được ước mơ của mình, biến giấc mơ thành hiện thực.

Lý tưởng có mặt trên nhiều phương diện kể cả thiện và ác, chứ không riêng về thiện không thôi; và nó cũng có nhiều cấp bậc từ lý tưởng của từng cá nhân, nhưng chúng cũng hiện diện ở trong nhiều nhóm dù nhỏ hay lớn, kể cả trên bình diện quốc tế. Đôi khi chúng cũng bị lợi dụng để biến thành những tai họa khôn lường vì mục đích không ngờ của chúng. Những người đã tìm cho mình được một lý tưởng để theo đuổi thì họ sẽ cố gắng bằng sức lực, khả năng, vận dụng kiến thức và tri thức, cố gắng thực hiện được ước mơ, đạt đến mục đích sau cùng hay đạt đến mức độ nhất định nào đó: Giống như những nhà khoa học chinh phục không gian, họ chinh phục từng bước từ hành tinh nầy đến hành tinh khác, tùy theo điều kiện khả năng của họ trong từng giai đoạn mà họ có thể làm được. Những nhà làm chính trị đứng ra điều hành, lãnh đạo đất nước mong làm cho đất nước được giàu mạnh, đời sống dân chúng được ấm no, hạnh phúc thì họ sẽ cống hiến hết mình với khả năng họ có được. Còn những nhà làm chính trị, lãnh đạo mà mục đích làm giàu, kiếm tiền, vinh thân phì gia, đem nguồn lợi đến cho dòng họ, thân thuộc, phe nhóm, bầy đàn thì đất nước sẽ nghèo đói, tan hoang, dân chúng sẽ lâm vào khốn khổ vô vàn; mà có thể họ sẽ vì lợi lộc mà bán rẽ đất nước cho ngoại bang không thương tiếc. Điều đó cho chúng ta thấy trên thực tế khi phong trào cách mạng chống tham nhũng ở các nước Sri Lanka, Nepal, Madagascar… của thế hệ GenZ đã thành công đến mức độ nào. Trong quá khứ lịch sử, những quốc gia nhược tiểu với lý tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã vùng lên với vũ trang thô sơ, cùng với tấm lòng yêu nước đánh đổ, quật ngã đế quốc thực dân hùng mạnh trong thế kỷ 20 để giành lại độc lập, tự do, giải phóng quê hương thoát vòng nô lệ. Lý tưởng tái lập lại đất nước khiến người Do Thái kiên trì trên cả hàng ngàn năm, và họ mạnh bạo để giữ vững đất nước ấy một cách không khoan nhượng trên nhiều mặt trận. Đó là những lý tưởng đã được ôm ấp trong phạm vi tương đối khá lớn. Còn những lý tưởng lớn hơn nữa khiến cho con người nhiều nơi trên thế giới có khi được thở phào nhẹ nhỏm, nhưng cũng không ít lý tưởng đem đến tai họa khôn lường: Như Lý tưởng hòa bình cho nhân loại với Liên Hiệp Quốc ra đời sau chiến tranh Thế giới lần thứ hai; bên cạnh đó lý tưởng thống trị một phần thế giới của Hitler, Mussolini, phát xít Nhật khiến bao nhiêu nước lầm than trong chiến tranh. Không những thế nếu xét về lịch sử những tư tưởng, lý tưởng đế quốc thời phong kiến đưa nhân loại vào hoàn cảnh chiến tranh tàn phá triền miên, ngoài những tai họa xảy ra từ thiên nhiên mà nhân loại phải hứng chịu. Có cái thứ lý tưởng khác mà ít người để ý đến, nhưng lại rất nguy hiểm và dễ xảy ra sự tranh chấp khủng khiếp, lâu dài nhất suốt thời gian lịch sử của con người. Đó là lý tưởng của những tôn giáo. Trong lý tưởng, tôn giáo là những sản phẩm của con người mang hình thức tâm linh, dễ thấm sâu vào tâm thức của những tín đồ. Tín đồ một khi tin theo một tôn giáo nào đó dễ sinh ra tâm tính sùng đạo, và dễ đi vào tình trạng cuồng tín, bảo vệ tôn giáo mình tới cùng và không thể chấp nhận những điều không đúng hay sai trái do đạo mình gây nên. Tôn giáo thuở khởi đầu có tính cách mang lại sự bình an trong tinh thần cho những người tin theo để được an ủi, hi vọng một đời sống tốt đẹp hơn sau khi mình đã chết so với cuộc đời thực tại đầy đau khổ, gian nan của thế gian nầy. Người ta thường nói: Những gì gắn liền với con người sẽ mang tính chất tranh giành, hơn thua, tranh đấu để giành phần thắng thống trị kẻ khác, thì trong tôn giáo dần dà phát triển theo chiều hướng đó. Giả sử một người có quyền lực tin tưởng vào tôn giáo nào đó thì sẽ bắt người khác phải theo, phục tùng những gì mình tin; cho nên trong lịch sử có nhiều vị hoàng đế bắt người dân trong phạm vi cai trị của mình phải theo cái tôn giáo mà mình đã theo. Đôi khi giết chết những người chống lại, theo nghĩa của câu “theo hoặc là chết”! Từ đó có những tôn giáo được sản sinh ra sau, rút kinh nghiệm nên khi bắt đầu phát sinh tôn giáo mới, mọi tín đồ phải ngồi trên mình ngựa mở những cuộc chiến tranh, chinh phục các nơi và bắt mọi người nơi đó phải theo đạo, và không bao giờ được bỏ hay từ chối. Lâu ngày với những quy luật được đặt ra, khiến kẻ mới theo phải tuân phục, sinh hoạt thì những kẻ bị bắt buộc ấy trở thành những con người thuần thục, giống như con người đã thuần hóa những con vật để phục vụ cho cuộc sống của mình. Do vậy, những cuộc chiến tranh về tôn giáo vẫn còn xảy ra cho đến tận ngày nay! Trên thế giới như nước Ấn Độ phải xé lẽ, phân hóa ra thành nhiều nước cũng vì lý tưởng của tôn giáo. Thuở đầu là Ấn Độ, rồi phân hóa thành Tây Hồi, Đông Hồi, Sri Lanka. Theo những người Ấn cho biết nó còn kể cả Bhutan, và Nepal. Nhưng ngày nay Tây Hồi trở thành Pakistan; Đông Hồi là Bangladesh. Trong khi đó, Trung Hoa vốn chỉ là một khu vực không lớn lắm và trải qua nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm với “lý tưởng thống nhất” mà trở thành nước lớn, lại sáp nhập thêm Mãn Châu, một phần Mông Cổ, rồi Tân Cương, Tây Tạng để trở thành Trung Hoa ngày nay. Đó là chưa kể đến tình trạng Đài Loan, vùng Biển Đông Việt Nam và Hoa Đông như là những vấn đề tranh chấp nóng bỏng của thế giới thời hiện đại. Nếu lý tưởng của những nhà khoa học là cống hiến cho nhân loại mà họ đã khám phá ra; thì những nhà kỹ thuật cố tìm những phương tiện giúp cho cuộc sống con người được tốt và hạnh phúc hơn. Với các nhà giáo dục ước mơ giúp thế hệ sau có được các kiến thức mới, hiệu quả hơn với kết quả tốt nhất. Những nhà làm chính trị muốn đem đến cho quốc gia sự tự do, hùng mạnh, vươn lên với các nước khác; nhất là sự giàu có, sung sướng, hạnh phúc cho người dân dưới sự lãnh đạo của mình. Nhưng cũng như các triều đại phong kiến khác đã từng có trong lịch sử: Ở giai đoạn đầu các nhà vua còn lo cho đất nước, thần dân. Về sau càng tệ dần, và các nhà vua lo thụ hưởng sự sung sướng, hạnh phúc cho chính mình; đôi khi họ càng trở nên tàn ác, đàn áp, ép bức người dân, bắt người dân sưu cao, thuế nặng để phục vụ cho vương triều. Thế cho nên mới có cuộc cách mạng của người dân nổi lên để lật đổ chế độ ấy và thành lập vương triều mới. Theo trào lưu đó, các triết gia cũng ngồi suy nghĩ để tạo nên triết thuyết mới. Trong thời cận đại, nẩy sinh một triết thuyết chính trị mà người ta xem như là ưu việt do kết tinh từ những triết lý chính trị và tư tưởng có trước để vạch ra một chế độ công bằng, bác ái, hạnh phúc, xây dựng một “thiên đường” cho loài người trên mặt đất. Thế nhưng, khi người ta thực hiện theo kế hoạch vạch ra ấy thì: Khốn nạn thay, đất nước nơi đó trở nên khó khăn, nghèo đói; người dân khốn khổ tìm cách trốn đi bằng mọi cách vì sự áp bức, xiết chặt đời sống không thương tiếc. Và với chế độ ấy chỉ những lãnh đạo, chính quyền là giàu có, vinh thân vì nạn tham nhũng, hối lộ tràn lan; làm cho người dân vừa nghèo đói, khó khăn mà phải hối lộ khắp các chỗ khi họ cần đến.

Vì vậy mà lý tưởng chỉ đơn thuần là lý tưởng, còn thực hiện thế nào là chuyện về sau! Lý tưởng có thể rất xa vời với thực tế. Đôi khi, người ta “ngụy biện” là “Cứu cánh biện minh cho phương tiện”, tức là dùng mọi biện pháp, phương cách tàn ác để đạt được mục đích sau cùng! Thế là cuộc đời lại càng đau khổ hơn!

 

Đồ Ngông,

06/12/2025.