Friday, November 22, 2013

*Con Bọ Hung!


*Thơ Đồ Ngông!       (tt)



*Tớ Được Làm Quan!

A ha! Tớ được làm quan
Từ nay tớ lại có người "nâng bi"
Những canh nhậu nhẹt đôi khi
Được người trang trải sướng vui thỏa lòng
Lớp quà, lớp biếu ước mong
Tiền vô tới tấp, thiếu nơi để dành!

Đồ Ngông,
20/11/2013.




*Con Bọ Hung!

Con bọ hung ở dơ
Đùn đống phân làm nhà
Dùng vật thải thối tha
Làm đồ ăn ngon miệng!

Con bọ hung có ích
Vì tiêu hủy đồ dơ
Giúp tẩy bớt cuộc đời
Cho đời thêm sạch sẽ!

Có những loài cao cả
Lại trên đỉnh suy tư
Xả thối cho cuộc đời
Bọ hung còn thứ hạng!

Đồ Ngông,
23/11/2013.

*Đồng Tính!


*Chuyện Tào Lao 2.         (tt)



Tôi không phải là thành viên của giới đồng tính, nhưng tôi nhất định bênh vực cho họ tới cùng. Tôi phản đối với tất cả những ai phản đối, ngăn cản họ ngay cả đối với Tổng thống Mỹ hay là với Giáo Hoàng. Tôi cho rằng những người đó chẳng hiểu gì đến con người, họ không hiểu được nỗi khổ của một con người bất bình thường mà trời sinh ra đã là như thế.!Tôi còn cho rằng những người ấy là “đã chống với Thượng Đế” khi đã phản đối với những điều mà Thượng Đế tạo ra!

Những con người đồng tính chính họ cũng chẳng muốn họ là như vậy! Họ là con người mà chẳng giống ai, thủ phạm của họ chính là Thượng Đế. Thượng Đế ác tâm tạo con người của họ. Thượng Đế sao không thấy họ buồn ủ rủ về con người, về những nhu cầu khác thường của họ. Biết đâu có nhiều đêm họ phải khóc thầm về những gì mà họ phải chịu đựng! Đối với một con người mơ ước, mong muốn mà không được đã là cảm thấy đã khổ trong khi họ phải làm những điều mà người khác thường hay chú ý theo dõi, đôi khi họ lại bị chế giễu nữa. Thượng Đế đã tạo ra mà Thượng Đế không nhìn thấy, thế mà con người mhìn thấy lại chẳng hề giúp đỡ họ mà lại còn ngăn cấm, chê bai hoặc làm khó khăn cho họ thêm lên. Tại sao một con người bình thường khi họ muốn một điều gì họ cố gắng đạt đến điều mong muốn; ai cản trở ngăn cấm họ quyết vượt qua cho được để đạt được ý nguyện, thế mà những con người kém may mắn lại không được toại nguyện theo những nhu cầu, ý muốn của mình mà lại bị xã hội bài bác? Tại sao người ta không oán trách Thượng Đế và cảm thông với họ?

Những người đồng tính không là con người ư? Họ không được quyền bình đẳng và mong muốn như con người khác ư? Con người ta có những nhu cầu tâm, sinh lý; người đồng tính cũng có những nhu cầu của họ, tại sao họ không được quyền thể hiện những nhu cầu của họ? Tại sao người ta lại nhân danh nầy nọ, nhất là nhân danh Thượng Đế để phủ nhận những gì mà Thượng Đế đã làm cho họ? Thật là một điều oái oăm lạ lùng nhất trong cuộc đời nầy! Họ chật vật đối với cuộc sống của chính mình, họ xoay sở những cần thiết nhu cầu của họ; họ phải âm thầm chịu đựng với những cay đắng cùng những chế giễu của cuộc đời. Họ cũng mong muốn nhiều thứ nhưng tất cả đều bị giới hạn trong giới tính mà họ phải cưu mang, thế những ai đã từng đứng ra để bênh vực cho họ? Hay là người ta không tán đồng một cuộc diễu hành của người đồng tính được tổ chức hàng năm ở tại một thành phố của quốc gia nào đó, hoặc người ta nhìn vào đó với một cảm giác vui vui, lạ lùng, quái đản đáng thương hại! Điều đó khiến chúng ta, những con người có nhiều may mắn hơn, cần phải suy nghĩ và thông cảm hơn nhiều và mong rằng những nhu cầu của họ cũng được chấp nhận như một thực tế không thể thiếu đối với cuộc đời của họ. Điều ấy cũng chẳng làm chết ai và tổn hại đến xã hội một cách nghiệm trọng nào!

 

Đồ Ngông,

10/11/2013.

Saturday, November 2, 2013

*Cách Mạng!


*Chuyện Tào Lao 2.          (tt)



Người ta thường nghĩ đến cái tư tưởng: “Thay cũ đổi mới mà cái mới tốt hơn cái cũ” mỗi khi đề cập đến Cách mạng. Cái cũ đã không hợp thời nữa, cái cũ bây giờ trở thành cái chướng ngại, gây bất lợi khó khăn hay càng ngày càng làm cho người ta trở nên túng bẩn nhiều hơn, hoặc cái cũ không đáp ứng được tình huống tiến bộ trong xã hội hiện tại nên nó cần có sự thay đổi. Sự thay đổi có thể là sửa chỉnh từ từ để đi đến hoàn thiện và tốt hơn như một sự tiệm tiến mà mọi người đều vui vẻ, thích thú, thoải mái. Cuộc cách mạng ấy dịu dàng, êm thắm như là không có gì xảy ra. Điều ấy rất cần thiết cho một cuộc cách mạng trong nội bộ hay cho một đường lối tiến bộ, nó không đưa đến một cuộc cách mạng mạnh bạo khác sẽ xảy ra trong tương lai. Với đường hướng ấy ai cũng sẽ thấy thích hợp và vừa lòng. Trong xã hội loài người có rất nhiều cuộc cách mạng từ cuộc cách mạng xã hội, nông nghiệp, kỹ nghệ kể cả tư tưởng, chính trị, triết học và tôn giáo nữa. Nhận định, sửa sai để tiến về cái tốt đẹp hơn, đó cũng đã làm một cuộc cách mạng, nhưng thói thường người ta lại không thích như vậy. Đầu óc, tư tưởng con người lúc nào cũng bảo thủ cứ nghĩ con đường của mình đang đi là đúng, cách hành xử của mình chọn là chính đáng, rồi khư khư ôm lấy con đường ấy mà không thấy nó đã gây ra biết bao nhiêu là khó khăn cho người khác. Điều đó trong Đạo Phật gọi là cái “Chấp Ngã”, cái ta và cái của ta nó quá nên quan trọng khiến cho ta mờ mắt mà không thấy được cái của người; biết cái của ta thích chứ không nghĩ đến cái của người thích; biết con đường của ta đi chứ không nghĩ đến con đường mà người cần đi, nên thường hay bắt buộc người khác đi con đường của mình và đôi lúc dùng đến những cách khống chế để người khác phải đi trên con đường mà mình muốn đi. Nếu có những sự chống đối mình lại dùng đến quyền lực, sức mạnh để khống chế hay là trấn áp để không còn ai can ngăn, phản kháng mình thực hiện con đường của mình mà không nghĩ đến tư tưởng “Nơi nào có áp bức là nơi đó có đấu tranh”. Chính vì thế mà từ xưa đến nay biết bao nhiêu cuộc cách mạng bạo lực đã xảy ra để lật đổ những cái cũ tàn bạo, lạc hậu ấy đi.

Đồ tôi nhớ đến thời còn bé đi theo những thằng lớn để chơi, nó cũng chia phe, chia đảng, mình đi theo một phe. Đôi lúc tụi lớn không thích lại hiềm khích nhau, khi mình bị thua yếu thế, tụi kia lại trấn áp mình, khiến mình không dám nói năng hay chống đối. Nếu chống đối nó nó sẽ dùng đến những hình thức đánh đập, hăm dọa, nó bảo nếu mình chống đối nó nó sẽ đập mình cho đến khi không còn chống đối nữa mới thôi, nhất là làm cho mình èo uột khó nuôi. Điều ấy trong thời gian chiến tranh hay hòa bình Đồ tôi cũng được chứng kiến khá nhiều, chỉ tội cho những thằng nhỏ và bé như Đồ tôi, cứ lẳng lặng âm thầm, nhịn nhục mà chịu đựng. Thì tôi nghĩ người dân trong những chế độ lạc hậu, độc đoán cũng giống như Đồ tôi trong thời con nít vậy. Họ cũng phải từng chịu đựng mọi hậu quả không tốt mà người lãnh đạo thiếu sáng suốt hoặc lãnh đạo theo một con đường thiếu chính xác, khôn ngoan đã làm khổ cho họ, và khiến cho đất nước trở nên lầm than, không những chẳng đi lên mà lại còn đi ngược trở về phía sau so với thế giới bên ngoài. Trong lịch sử xã hội không thiếu những chế độ trong thời phong kiến với những vị vua lo hưởng thụ ăn chơi khiến cho triều đại sa đọa làm cho người dân khốn khổ, sưu cao thuế nặng để làm nguồn tài chánh cho vua quan sống xa hoa, phung phí. Và nói chung, trong xã hội nào cũng vậy, chính quyền cần có nguồn tài chánh chi phí cho mọi phương diện cho đất nước vẫn bằng buôn bán những tài nguyên của quốc gia hay bằng thuế thu nhập từ dân chúng. Nếu sử dụng được tốt thì đem đến lợi lộc cho đất nước dân chúng, còn sử dụng xấu xa cho mục đích cá nhân hay bè lủ thì khiến quần chúng phải lầm than và đất nước lâm vào cảnh nợ nần, tạo gánh nặng cho những thế hệ sau phải trả. Do đó làm cuộc cách mạng trong nội bộ cũng không phải là dễ dàng, còn nếu không thì những yếu tố đó ngấm ngầm là tác nhân cho những cuộc cách mạng bạo lực về sau.

 

Đồ Ngông,

20/10/2013.

*Cao Su.



Tôi có duyên với cây cao su không biết tự bao giờ, nhưng mỗi lần thấy cây cao su là tự nhiên tôi cảm thấy trong lòng hơi vui vui với một màu xanh mát. Cây cao su theo từng giai đoạn tôi lớn lên cho đến ngày tôi rời xa quê hương. Điều đó cũng không có gì là lạ lắm vì tôi được sinh ra trên vùng đất của miền Đông phía nam, nơi vùng đất tương đối khô ráo mà người Pháp thực dân đã khởi đầu lập những đồn điền cao su trong thời kỳ Pháp đô hộ. Sau hiệp định Genève 1954, thực dân Pháp cuốn gói về nước thì những đồn điền cao su ở vùng của tôi không được toàn vẹn như xưa. Người ta đã phá đi nhiều khu cao su để chiếm cứ lấy đất đai trồng hoa màu vào mùa mưa, hay đào những giếng lấy nước mà trồng thêm vào mùa nắng. Đường về quê nội của tôi thì băng qua Gò sở là nơi đánh dấu sở cao su ngày xưa. Lúc tôi biết thì người ta đã phá lần những cây cao su ở đó để trồng đậu phọng, hay thuốc lá, đậu đủa hay vài thứ hoa màu khác. Dần dà những cây cao su cuối cùng cũng được đốn đi và cung ứng cho việc bếp núc trong nhà. Theo đó thì những vườn cao su ở Hóa Nhựt hay khu sở Con Rồng ở trên sân bay nằm trải từ Hòa Thạnh, Bình Quới, Bình Thoại, chạy dài ở giữa các xã Phú Hữu, An Mỹ, Vĩnh Trường vào tận trong xã Phú Chánh cũng cùng chung số phận. Sở Con Rồng chắc cũng khá lớn vì có cả sân bay để máy bay lên xuống mà sau nầy ba tôi hay kể là tụi Nhựt lùn khi chiếm Việt Nam đã bắt dân “làm xâu” (bị bắt buộc đi làm mà không trả tiền công) ở trên sân bay. Lúc tôi lớn thêm chút nữa thì những nơi nầy chỉ còn một số cây cao su loe hoe, riêng ngoài Bình Thoại, Hòa Thạnh thì hai bên đường cao su còn khá nhiều, đường đi mát rượi, xe bò thì đi hai bên đường mà không được chạy trên lộ, rồi trong thời gian sau những cây cao su cuối cùng cũng không còn nữa.

Từ đó, tôi ít khi được nhìn thấy cây cao su trong nhiều năm dài để rồi một ngày nọ tôi đi lên Tân Uyên dự thi vào lớp Đệ Thất của Trường Trung học Phước Thành của tỉnh Phước Thành. Tỉnh Phước Thành là tỉnh mới thành lập, nên trường Trung học nầy được mở trễ sau ngày tựu trường của năm học cả mấy tháng trời! Trên đường lên Tân Uyên tôi phải cỡi xe đạp chạy theo các anh Năm, Huệ, Son, chị Mướp, chị Thay… vượt lên những dốc dài Hố Khởi của ấp Hóa Nhựt, dốc dài Tân Hội rồi qua Tân Long đến cầu Hố Cao, lên dốc dài Hố Cao tôi lại được thấy đồn điền cao su Sở số 10 mà trong đó có trại cùi Bến Sắn, và đi thêm nữa về phía bên tay trái là Sở 49. Trời xế nắng làm trái cao su nẻ vỏ nghe tiếng nổ nho nhỏ và hạt rơi trên mặt đất. Đó là lần đầu tiên mà tôi nghe được tiếng trái cao su nổ tách làm hột văng ra. Rồi chúng tôi qua đoạn đường rừng chồi đến khúc quanh cua Bình Chánh để xe đổ dốc đồi ra ngã ba Bình Hóa và xuôi theo tỉnh lộ 16 mà về Tân Uyên.

Tôi lên Tân Uyên học khi được trúng tuyển cùng với hơn mưòi người cùng học chung lớp Nhứt ở trường Tân Phước Khánh trước kia. Nhưng vì tôi nhỏ con và không đủ sức để cỡi xe đạp đi về mỗi ngày nên ba tôi tìm nơi trọ cho tôi ở lại trên đó cùng với ba người bạn nữa. Chúng tôi ở nhà của bà út Nghệ, mà người ta thường nói trại ra là Ngậy để tỏ vẻ kính trọng bà. Bà cho chúng tôi ở không không lấy tiền. Chúng tôi tự lo nấu nướng và đi quơ hay mua củi về chụm.

Vì trong thời gian chiến tranh cho nên chúng tôi cũng chẳng đi đâu xa. Quanh quẩn chung quanh khu vực đó và lo chuyện học hành. Trường lúc nầy chỉ có một lớp Đệ Thất khoảng 60 đứa với ba thầy: Thầy Trần Văn Khánh, thầy Tạ Kim Anh và ông Tổng Giám Thị Mã Sấm dạy Pháp Văn. Lớp mượn cơ sở của trường Tiểu học Uyên Hưng. Đến năm sau trường có hai lớp Đệ Thất và một lớp Đệ Lục. Năm nầy chúng tôi được tập luyện đi diễn hành ráo riết để một ngày kia những xe GMC quân đội chở chúng tôi cùng nhiều đoàn thể, tổ chức về trên Phú Giáo dự lễ khánh thành tỉnh lỵ mới có tên là Phước Vĩnh. Xe chạy theo tỉnh lộ 16 qua các đồn điền cao su ngút ngàn. Có nhiều sở được đánh dấu bằng số thứ tự xen lẫn với những sở tư nhân nhỏ. Trong các sở ấy nổi tiếng là sở cao su Phước Hòa và những sở của ông Nguyễn Đình Quát.

Ở nhà của bà Út có vợ chồng Bác sáu Bùng cùng hai vợ chồng cô út đều là phu cạo mủ ở sở Kẹc-Bay, đây chắc là tên tiếng Pháp nhưng không biết chữ viết nó ra sao mà chỉ nghe nói là như vậy. Tôi và bạn bè có một ngày đi theo hai bác và cô dượng cho biết cạo mủ như thế nào. Chúng tôi thức sớm và cỡi xe đạp cùng đi.

Khi đi trời hãy còn tối thui, cho nên đến đoạn đường không biết mình đạp như thế nào mà nghe nặng chịch, đứng lên đạp mà xe vẫn hãy chạy chậm. Một lúc mọi người xuống xe, dẫn xe đạp đi. Tôi vừa bước xuống xe thì bị lật té ngang. Dắt xe một đoạn thì lên xe đạp đi tiếp. Không bao lâu đến sở. Chúng tôi đi theo bác Sáu, ông vừa cạo vừa phân tích cho chúng tôi, cạo thế nào và cạo phạm vào sâu ra sao thì cây bị hư lâu lành. Chúng tôi đi trong ánh đuốc và từ cây cao su nầy sang cây cao su khác. Đến gần sáng thì bác Sáu đã cạo xong. Mỗi người phu cạo mủ có hai lô, ngày nay cạo lô nầy, ngày mai cạo lô khác cứ thay phiên như vậy cho đến mùa cao su thay lá thì nghỉ một thời gian đợi chờ cao su tốt trở lại và vào một mùa thu hoạch khác.

Nghỉ ngơi xong, một buổi sáng trong đồn điền bắt đầu. Những tia nắng đầu tiên của mặt trời mọc xuyên qua những cành lá cao su thật là thú vị xen lẫn tiếng các loại chim rừng kêu với những âm thanh, giọng hát khác nhau rất vui tai cùng cái khí hậu ẩm ướt, trong lành của một buổi sương mai sớm. Bác Sáu dẫn chúng tôi đi trút mủ. Mủ cao su trắng tinh chảy vào trong những chén sành treo ở cuối rãnh, bác chỉ cầm chén trút mủ vào trong những thùng tròn bằng thiếc treo hai bên ba-ga xe. Khi nắng lên nhiều, những tiếng trái cao su nẻ võ, hột văng xuống đất, tiếng nẻ võ và tiếng hạt rơi xuống đất nghe hơi não lòng. Bác bắt đầu từ cây khởi đầu đầu tiên, lần lượt cho đến cây cuối cùng. Mỗi lần trút chén xong, bác nắm sợi dây mủ còn đọng, khô ráo trên rãnh rồi bỏ vào túi đeo bên hông. Cứ vậy cho đến hết. Xong rồi, đợi chờ xe cam nhông trần thu mủ đến bỏ lên xe chở về nhà máy cán mủ.

Chúng tôi cũng được tập tành qua giai đoạn cán mủ trong nhà máy. Những miếng mủ lấy lên từ những hầm chế biến được chạy qua những dàn cán hẹp dần cho đến dàn ống cán cuối cùng có hình gai để ép tấm mủ thành như hình dáng nó có trước khi đưa vào nhà xông hay đem phơi và sau đó đóng thành những bành hình vuông đưa ra thị trường và chế biến thành những thành phẩm.

Đó là một ngày mà lần đầu tiên chúng tôi đi theo bác Sáu để thử tập tành về cái nghề mà nhiều người đã sinh sống và nhiều người đã phải “đi phu từ Bắc vào Nam”. Cái chỗ mà tôi té lúc đêm khuya chính là cái dốc cao, hơi đứng có tên là dốc Bà Nghĩa, nơi mà lúc chiến tranh ác liệt sau nầy thường là địa điểm giựt mìn, đụng độ giữa hai bên, tất nhiên là có nhiều người chết. Dốc Bà Nghĩa cũng là nơi mà trong truyện “Cọp Ba Móng” tức là con cọp dữ, khôn ngoan tránh bẫy, một bàn chân chỉ có ba móng đã gây nhiều tai họa đến cho dân chúng ở vùng lân cận nầy đã có lần xuất hiện về đây.

Trong những ngày đi học trên Tân Uyên, với ba năm đầu tôi ở trọ ở nhà của Bà Út Nghệ thì tôi hay đạp xe đạp đi lên vào sáng thứ hai và về nhà vào trưa thứ bảy. Sáng thứ hai tôi thường vào Tân Hội ghé nhà thằng Lực mà đi với nó, có những ngày trời có trăng tôi không biết giờ giấc nên vào đến nhà Lực rất sớm và phải đợi tới giờ mới đi. Có một lúc nọ, vì còn trong thời gian nghỉ lễ nên tôi đạp xe đạp đi trước và vào trong sở 49 ngủ ở nhà ông Năm, ông đã nhiều lần đã giúp cho tôi vải để may quần áo mặc dù gia đình tôi không có dòng họ với ông. Trong vài ngày ở đây tôi cũng đã được thực tập một lần nữa về cách cán mủ. Nước mủ thải ra chứa các hố bên ngoài thật là hôi. Lúc ấy tôi mới biết tại sao đi bên ngoài đường gần nơi nhà máy mủ của sở thật là thúi!

Tôi tưởng chỉ có sở cao su 49 ở khu vực nầy thôi, không ngờ, bên trong kế đó lại có sở cao su Bác Vật nữa. Trong một lần đi học về, tôi theo bạn bè cỡi xe đạp chạy luồn vào bên trong vì đoạn đường từ sở 49 đến ngã ba Bình Chánh không đi được do những cây sao dọc đường bị mấy ông trong rừng cưa ngã nằm chắn ngang đường để cản trở sự đi lại của bên ngoài. Đường đi học càng ngày càng trở nên khó khăn vì các cầu, các đoạn đường thường hay bị đào, đắp mô, đốt cháy nên chúng tôi phải khéo léo cỡi, dắt hay vác xe đạp đi qua.

Tôi còn được một lần để gắn liền với một sở cao su nữa trong thời gian bốn năm học ở Tân Uyên. Vốn là lúc gần Tết năm ấy, bác Sáu con bà Út được giao trông coi văn phòng sở ở gần Đất Cuốc. Bác rủ tôi với Long đi với Bác vào ngủ trong ấy. Chúng tôi cỡi xe đạp chạy vòng qua quận về ngã ba Tân Hòa, Tân Tịch rồi quẹo trái. Chạy hồi lâu, đã đến văn phòng. Sau khi cất xe đạp, lo chỗ ngủ xong xuôi, bác Sáu dẫn tôi và Long đi vòng quanh. Đi đến bìa ruộng thì thấy bên kia cánh đồng không rộng lắm, những xe bò mà người ta chất đầy vật liệu nhà cửa để dời nhà theo sách lược “dồn dân lập ấp” đang tung bụi mù mà đánh đi. Sau nầy tôi mới biết đó là vùng Thường Lang, Đất Cuốc của vùng chiến khu D.

Bẵng đi thời gian dài khi tôi chuyển về học ở trường An Mỹ, Trịnh Hoài Đức hay Sài Gòn, tôi chỉ thấy những vườn cao su nho nhỏ không gây được những niềm nhớ trong tôi. Nhưng khi tôi ra trường bắt đầu cho nghề nghiệp của mình, tôi đi theo Tâm lên Bình Long, An Lộc để một mai tôi phải chọn về Bình Long thì cũng chẳng ngỡ ngàng. Tâm đưa tôi lên Bến Cát, Lai Khê qua Bàu Bàng, Chơn Thành và tiến về An Lộc. Trong thời gian ấy, công ty thầu RMK của Mỹ đang làm con đường xa lộ đi lên Bình Long. Chúng tôi đi qua những đồn điền cao su ngút ngàn, nhưng cao su chỉ còn sâu vào trong khoảng 200 mét từ hai bên đường. Khi về Tâm kêu tôi lái Honda. Với mùa mưa đường trơn trợt tôi đã quăng hai đứa trên đường trong vườn cao su. Đó là kỷ niệm khiến tôi nhớ nhứt đối với đồn điền cao su!

Tôi không về Bình Long vì thứ hạng của tôi hãy còn về được Bình Dương. Tôi chọn về Bình Dương còn trước một hai người. Nhưng Sự Vụ Lệnh của tôi bị trường Sư Phạm giữ lại vì lý do sức khỏe, đợi bệnh của tôi lành thì sẽ phát cho tôi. Cuối tháng 12, tôi cũng nắm được giấy tờ từ Ty Tiểu Học Bình Dương để về Dầu Tiếng mà tên lúc đó là Trị Tâm.

Dầu Tiếng không những nổi tiếng bằng cây dầu mà còn là nơi đóng bản doanh của sở cao su: Đồn điền Michelin. Tôi không biết đồn điền Michelin có bao nhiêu đồn điền tất cả, nhưng số làng thì thuở tôi lên có nghe nói hơn số hai mươi mấy; nhưng vì chiến tranh, an ninh chỉ cho phép tôi biết đến ấp 5 hay làng hai. Lúc đó tôi mới thực sự biết đến đồn điền Michelin, chứ trước đó chỉ biết cái vỏ xe hơi Michelin mà thôi!

Trước khi chúng tôi đến Dầu Tiếng thì phải qua khu vực đồn điền Bến Củi của tỉnh Tây Ninh (vì trong thời gian chiến tranh ấy đường từ Dầu Tiếng về Bình Dương bị cắt đứt ở vùng Tam Giác Sắt mà Bến Súc là tâm điểm). Khu vực đồn điền Bến Củi cũng bị ủi sạch cao su hai bên đường như đường lên Bình Long, chắc có lẽ bên quân đội sợ bên trong rừng phục kích hay đặt mìn dọc đường. Cái không khí trong lành, bóng râm dịu mát, hay những luồng lá bay xạc xào trên đường không có nữa. Băng qua con đường đất đỏ được đổ cao trên cánh đồng để chạy về cầu sắt bắt qua sông Dầu Tiếng (tức đầu nguồn sông Sài Gòn) thì chúng tôi đến Bo (có thể do chữ (Port) của tiếng Pháp) hay là trụ sở của đồn điền Michelin. Đi qua ngã ba Ba-rắc và về chợ Dầu Tiếng. Chúng tôi ở trọ tại dãy phố trước rạp hát cũ Dầu Tiếng, nằm sát vòng rào của trụ sở quận.

Ở Dầu Tiếng hai năm tôi lại kết thân với cao su, nhất là năm thứ hai khi Trường Sơ Cấp Ấp 2 Định Thành tạm thời được dời về dãy phòng trống của Trường Trung Học Tỉnh Hạt Trị Tâm. Những buổi trưa hè, ngồi trong lớp với không khí oi bức nghe ve sầu kêu vang rân ngoài vườn cao su ở phía sau, thỉnh thoảng những trái cao su nẻ vỏ “tách tách” rồi tiếng hột cao su rơi trên những lá cao su khô và đâu đó có tiếng một vài cành khô gãy rơi xuống đất khiến cho lòng tôi lại nhớ miên man, và những nỗi buồn vô cớ xen vào; từ ấy tôi lại bắt đầu bằng những vần thơ cho một vùng kỷ niệm.

Dầu Tiếng đối với tôi có thật nhiều điều đáng nhớ, nơi cũng có vài hình bóng của quá khứ khó quên! Bây giờ tôi đã biết mùa thu, mùa thu lá rụng đầy giống như lá cao su bay bay vào những ngày cuối năm, bay trơ trụi chừa những cành cây như những bộ xương đưa lên khung trời bảng lảng và rồi nó ra đầy lá non, một màu xanh mơ mộng, với những chùm lá còn búp đầy sức sống trong đó mà tôi, Ẩn, Văn, Vui đã được chiêm ngưỡng giữa những hàng cao su thẳng tắp của đồn điền cao su bên Bến Củi vào ngày đi đường tắt từ Khiêm Hanh qua Bến Củi để về Dầu Tiếng sau những ngày nghỉ Tết và trở về nhiệm sở của một năm nào!

 

Nguyên Thảo,

15/09/2013.

*Quốc Lộ 13.


*Thơ Về Bình Dương!       (tt)



*Cầu Phú Cường.

 

Chiếc cầu đã bắt qua sông

Khiến người chẳng phải ngóng trông đợi đò

Nhưng mà lại chạy vòng vo

Khiến người cũng phải gọi đò, đợi mong!

 

Đồ Ngông,

20/04/12.

 

 

 

*Ngã Ba Lò Chén.         (Thị xã Phú Cường)

 

Ngã Ba ở chỗ lưng đồi

Vừa khi đổ dốc chạy về Nghĩa Phương

Chạy qua những phố những phường

Đầy đầy chén bát, ồn ào dĩa khua

Vui vầy kẻ bán người mua

Đúng khu lò chén, tiếng “khua” có thừa!

 

Đồ Ngông,

21/04/12.

 

 

 

*Quốc Lộ 13.

 

Bình Dương có lộ mười ba

Đi qua Thị xã, đi về Lộc Ninh

Trong thời tàn khốc chiến tranh

Nhiều nơi chiến tích, nhiều nơi xác người!

 

Đồ Ngông,

22/04/12.

 

 

 

*Bưng Cầu!

 

Tay “bưng” lấy rổ mãng “cầu”

Lên Tương Bình Hiệp mà rao bán hàng

Nếu nào ai chẳng chịu sang

Thì xin trao đổi sơn mài được không?

 

Đồ Ngông,

22/04/12.