Tuesday, April 5, 2016

*H.T Chữ Nghĩa 26: Hành Trình Của Thơ. (tt)




Ngày tôi quen và bắt đầu cảm động với vợ tôi, tôi có một bài thơ để tỏ nỗi lòng nhưng ngày ấy cũng là ngày tôi gởi luôn một bài “Giã Từ” vì về vai thứ tôi phải gọi “nàng” bằng “cô”. Từ đó tôi không hề nghĩ đến tình yêu ấy nữa. Nhưng chuyện đời dun rủi và “duyên nợ”, chúng tôi lại đến với nhau trong một dịp khác và các bậc trưởng thượng xét rằng mối thân thuộc đó không ràng buộc tôi và vợ tôi. Thế là chúng tôi lại lên xe hoa để làm lễ thành hôn vào năm 1970. Vì khoảng thời gian ấy vợ tôi dạy ở tận Bình Phục Nhứt thuộc quận Chợ Gạo, tỉnh Định Tường; còn tôi về Dầu Tiếng tỉnh Bình Dương nên hai vợ chồng một kẻ lên non, một người xuống đồng bằng để mỗi người lo hơn năm chục đứa con của mình và sống trong một mối tình của Lạc Long Quân, Âu Cơ hay kiểu hạnh phúc tháng 7 mưa ngâu của Ngưu lang, Chức Nữ. Những ngày trưa hè, nghe tiếng ve rộn rả và rừng cao su im ắng trong tiếng nẻ vỏ của trái cao su, lòng tôi có nhiều chơi vơi! Để thoát đi xúc động tôi có làm một số bài để “kỷ niệm về sau nầy” như cuộc hành trình của tình yêu. Nhưng ngày đi vượt biên tôi không đem theo cũng như ngày vợ con tôi đi doàn tụ cũng không biết để đem nên đành trả chúng lại cho thời gian trong quá khứ.
Thú thật, tôi không bao giờ nghĩ rằng mình có thể làm thơ mà chỉ là làm thơ “con cóc’ để vui chơi cho mình là chính và bạn bè thì thi thoảng thôi. Nhưng không ngờ đến một lúc nào đó tôi lại làm thơ và làm trong một tính cánh thật tình cờ và có sự kiện bên ngoài thúc đẩy. Ngày tôi quyết định làm thơ nhân khi đọc một bài thơ trên báo Nam Úc khi tác giả Cảm Tạ một người ơn đã trị bệnh. Tôi ngõ ý, thì anh Lộc chủ báo Nam Úc cũng khuyến khích tôi làm. Có chỗ dựa tôi làm một bài thơ đưa đến anh cùng những bài văn xuôi của tôi. Khi đưa tôi nói với anh: “Thấy được thì đăng, không thì thôi, đừng đăng đại người ta cười cho”. Anh mĩm cười nói: “Vui chơi mà”! Thế là từ đó tôi thường có một vài bài thơ gởi đến anh cho vui cũng như góp thêm hoa lá cành với tờ báo của anh, cũng là góp phần với những nhà thơ trước ở tại địa phương như Cổ Nguyệt, Cao Quỳnh Tuệ Lâm, Phương Hoài Sơn, Hoài Nam, Nguyễn Thủy Nam... và vài nhà thơ khác mà tôi chưa hề biết. Từ tháng 7 năm 2000 tôi có một vài bài thơ đưa đến anh Lộc với bút hiệu Nguyên Thảo chứ chưa là Đồ Ngông.
Mãi đến khi cuộc bút chiến gay gắt của hai nhóm trên hai tờ báo đến độ họ “chửi” nhau chứ không còn là bút chiến nữa kéo dài trong hàng tháng trời thì tôi mới tham gia vào để can ngăn. Thực sự thì tôi không biết rõ nguyên do như thế nào, nhưng tôi thấy điều làm của họ không ích lợi gì cho cộng đồng chung nhất là mình được đến đây chỉ là vì lý do tị nạn, cần một mảnh đất dung thân. Vả lại tôi thấy nhiều ngày mà những người có tiếng tăm, có vị thế, các hội đoàn mà chẳng ai dám can thiệp vào; đôi lúc có vài người khuyên răn, can thiệp thì họ lại moi móc thân thế, hay chửi thậm tệ cùng bêu xấu để không còn ai ngăn cản nữa. Tôi thấy một tình thế lạ lùng, nên đành thử xem sao. Một ngày nọ (ngày 28/04/2002) tôi liền bấm bụng viết bài “Uy lực của ngòi viết” để can ngăn bước tiến của họ lại. Trong bài văn xuôi ấy tôi chêm vào bài thơ mà tôi đã viết trước đó (vào ngày 09/04/2002):

Bắt Chước!
Bắt chước người, ta chửi cuộc đời
Ta nay hứng chí viết văn chơi,
Làm thơ moi móc đời nhiều xấu
Rồi chửi, rồi la đở hận đời!

Ta tiếc xưa kia học lỡ làng
Ngày nay ngu dốt làm dân gian,
Câu thơ, chữ nghĩa không sâu sắc
Chửi chẳng bằng ai, tức bẽ bàng!.

Phải trước ra đời đi "bán cá"
Học đòi sách vở của "hàng tôm",
Ngày nay võ miệng tha hồ chửi
Cho đám người gian "tịt" cái mồm.

Tôi làm bài thơ nầy lấy từ kinh nghiệm của “Thời con nít” khi tôi còn giữ em và coi nhà. Thuở ấy ba má tôi luôn bận rộn buôn bán và công việc làm nên tôi phải giữ em kiêm luôn coi chừng nhà. Vì vậy tôi không được đi đâu xa, mà chỉ chơi đánh sò, đánh đũa với đám con gái giữ em như tôi. Một hôm em của một đứa khóc mãi, nó dỗ không được; rồi nó bỗng dưng ngồi thừ ra mà khóc. Lạ thay, em nó lại ngưng khóc mà nhìn chị nó khóc. Từ triết lý ấy, bây giờ tôi lại áp dụng “chiêu nầy” để khiến họ phải bớt chửi lại. Thế là tôi bắt chước họ chửi, nhưng tôi sẽ lôi cuộc đời ra mà chửi bâng quơ để họ không có cớ gì để chửi vào tôi. Làm bài thơ ngông nghênh như vậy, mà can thiệp vào “chiến trường” nầy lại là một hành động ngông không thể tả, không khéo chúng lại “hè” nhau tấp nập chửi vào tôi không chừng. Tôi lưỡng lự đi tìm một cái bút hiệu để thích hợp trong hoàn cảnh nầy, cho nên cuối cùng tôi thấy bút hiệu “đồ ngông” là thích hợp hơn cả, nó vừa nói lên một tinh thần, hoàn cảnh lại là một bút hiệu sẽ bảo vệ được cho tôi trước sự tấn công hùng hỗ của người đối kháng: Vì tôi nhận là “đồ ngông nói bậy” mà họ chửi “đồ ngông” thì độc giả tự nhiên chửi họ là “đồ khùng” và tôi khỏi phải nói thêm gì nữa cả. Cái bút hiệu ấy cũng trùng hợp với tôi vì tôi vốn là “Thầy giáo” nói theo tiếng ngày xưa là “Ông đồ” thì “Ông đồ nầy ngông nghênh” hay “Đồ Ngông” cũng như những ông “Đồ Gàn”, “Đồ Nam” đã có từ trước hoặc có vị thế hơn thì “Tú Xương”, “Tú Kếu”, “Tú Xuất” vân vân... Hơn nữa, tôi nắm chắc một điều là họ sẽ không chửi tôi được vì tôi chỉ phân tích chuyện thôi chứ không trực tiếp chửi thì họ sẽ lấy cớ nào để chửi tôi.
Qua bài văn xuôi thứ hai: “Có con đường nào ta đi?” gởi cho cả hai tờ báo tôi đưa bài thơ đầy vẽ ngông hơn nữa, đó là bài:

Kẻ hiếp nàng Thơ!
Nàng Thơ than thở, dáng u sầu
Mắt ướt hoen mi, nhìn mãi đâu?
Yên lặng, chơi vơi mà chẳng nói
Eo sèo, lem luốt...Áo quần đâu?

Nàng bảo rằng: Nàng bị hiếp dâm
Đám người hung bạo đến âm thầm,
Ngôn từ, chữ nghĩa như dao mổ
Hăm dọa, bắt nàng để hiếp dâm.

Cái nhóm hung tàn đi hạ nhục
Hết người, sao lại đến nàng Thơ?
Văn chương, ý tưởng đầy thù hận
Hoen úa, nàng Thơ tự bấy giờ...!

Uổng công ăn học bấy lâu nay
Thơ văn, chữ nghĩa khó nghe thay
Đem ra ức hiếp người như thế!
Tội nghiệp nàng Thơ đến thế này..!
(12/04/02)

Và đến bài thứ ba: “Điều ‘Bất đắc dĩ’!” tôi lại đưa hai bài thơ khác vào bài văn xuôi:

Vịnh Kẻ Ngông
Thơ thẩn, long nhong một kẻ ngông
Lang thang, lếch thếch bước qua đồng
Đi rao thiên hạ: Đời nhiều xấu,
Kêu tặng cho người: Một chữ không.
Người thích?... Mấy ai ham thích mấy?
Kẻ ưa?... Chẳng để mắt thèm trông!
Đời ngông cứ muốn làm ngông mãi,
Ngông thế mà hay, cứ mãi ngông!
(21/4/02)

Kẻ Gây Rối!
Thiếu chi những kẻ chuyên gây rối
Cứ quậy, cứ la, cứ khuấy thối
Hôm nọ phanh ra chuyện nhỏ nầy,
Mai kia khui nút hầm cầu thối.
Bà con "ê mặt" đã từ lâu,
Sắc tộc "đau buồn" sáng đến tối.
Ăn nói làm sao với bạn Tây?
Dứt đi, xin bỏ đừng gây rối!
(1-4-02)

Sau ba bài trên, tôi công bố tôi không tham gia vào cuộc chửi lộn của hai phe nữa để tránh sự ồn ào cũng như bị lôi cuốn vào sự sôi động, nhưng tôi lại viết theo một cách khác, viết bên cạnh cuộc chửi lộn của họ và với những bài thơ cũng như những bài văn xuôi mà tôi đi bên cạnh họ để phân tích thói bỉ ổi của con người trong cuộc sống. Tức là những bài văn, bài thơ đều phản ánh lại những nét của con người. Trong khoảng 100 bài đầu tiên để đánh lừa những người quá khích tôi ngồi suy ngẫm những mẫu người trong xã hội để đúc kết thành những bài thơ để người đọc có thể thấy cái nét đặc biệt của từng mẫu người. Vì để tránh sự xung đột cho gia đình Né khi tôi bắt được tin người ta chuẩn bị tấn công vào gia đình Né như một lần đã có trên “Bản Tin Nông Gia” nên tôi gom góp những bài đầu tiên ấy để nhờ cơ sở Né ấn hành tập thơ Đồ Ngông 1 là tập đầu tiên. Kế đến nhà thơ Nguyễn Nhi cho ra mắt tập thơ Nguyễn Nhi và bà Nguyễn Nhi cũng cho ra mắt tập thơ Từ Thị Thu Trang. Thế là phong trào tính đánh phủ đầu gia đình Né dịu xuống và biến mất, không còn manh nha nữa.
Sau tôi đem tặng một số cho bạn bè nhằm mục đích họ có thể nói cho con cái biết mà để ý đến những mẫu người trong xã hội; nhưng tôi đã lầm người ta đọc xong lại tưởng tôi châm chọc về họ, cho nên tôi cũng có nhiều khó khăn. Kinh nghiệm lần ấy về sau (Thơ Đồ Ngông II) tôi không biếu cho ai nữa cả.
Tôi bắt đầu viết trên tập san “Né” của một gia đình gọi là gia đình Né là tập hợp những người nông dân vui chơi lập ra từ ngày 29/04/2002. Tôi không là thành viên Né, nhưng vì tập san nầy của những người làm nông nên tôi xin tham gia để viết chơi cho vui với tập thể nông gia, thế thôi! Trong bài đầu tiên: “Bài viết ra mắt” này tôi đưa vào văn xuôi bài thơ:

Thơ Ngông.

Ngồi buồn sắp chữ lại thành thơ
Ta gọi thơ ngông chửi cuộc đời
Moi móc kiếp người bao nếp xấu
Rao cho thiên hạ xúm coi chơi!

Ta ngông, ta thích làm thơ ngông
Ở cõi đời nầy cảnh trống không
Thấy đó, nhưng rồi đà mất đó
Đi về hai cõi "có" và "không"!

Lắm kẻ tranh giành "đá" lẫn nhau
Tiền tài, danh vọng,..."sướng" hay "sầu"?
Bao nhiêu mánh lới "lừa" nhau mãi
Lôi cuốn cùng nhau ở cuộc chơi.

Từ đó, tôi đi theo sát từng giai đoạn, từng sự sôi động mà tôi có những bài thơ thích ứng với tình hình, tôi viết “Chuyện Tào Lao Thế Sự” lẫn làm thơ mà người quá khích không thể lấy đó để chửi tôi được hoặc lôi kéo tôi vào cuộc chơi. Còn người được bênh vực thì chê tôi viết không vào đâu cả, thật là yếu xìu. Nhưng tôi chỉ có một mình, không ai đồng hành cũng như không thế lực nào đứng sau lưng tôi cả, nên tôi phải biết cái vị thế cũng như thân phận của mình, vì thế cái hướng đi đó là cái hướng duy nhất mà tôi phải đi.
Thế mà thấm thoát tôi cũng đã có hơn 250 bài thơ trong cuộc can thiệp ấy để rồi tiếp theo nhân chuyến du lịch xuyên Việt vào năm 2008. Tôi khởi đầu cho những bài thơ “Du lịch” gọi là “Thơ Đó, Thơ Đây”!

Nguyên Thảo,
25/03/2016.


No comments:

Post a Comment