Sunday, January 18, 2015

*Quê Ngoại.


(Thân Tặng: Gia đình Lê Văn Chánh- CHS k.4)



Tôi về quê ngoại từ lúc còn thật nhỏ nên những kỷ niệm chỉ còn là mang máng, không liên tục; nhưng đối với thuở tuổi thơ của tôi như vậy cũng là quý lắm rồi! Chúng là những hành trang mà tôi đã đem theo cho đến bây giờ để lâu lâu ngồi nhớ lại một vùng quê trước kia có tên gọi là Vĩnh Trường. Và nay nó được mang tên chung là Tân Vĩnh Hiệp cho các xã Tân Hóa Khánh, Vĩnh Tờng cùng Tân Hiệp Xã. Có thể trong tương lai nó sẽ còn thay đổi rất nhiều theo thời gian cùng với sự phát triển liên tục cận kề của một thành phố mới.

Quả thật, chiến tranh đã làm cho con người không thể sống được yên ổn chút nào. Bọn Tây đi b thường xuyên, chúng trấn áp lực lượng kháng chiến chống lại chúng để giành độc lập cho đt nước. Chúng bắt ngưi, đt nhà, cướp của, hãm hiếp … khiến người dân phải bỏ dần làng mạc đi tản cư đến nơi khác sinh sống. Ở ấp Phưc Lương, nơi quê nội tôi cũng không thể tránh khỏi tình trạng ấy, khiến một đêm cả nhà chất lên xe trâu mà tản cư. Vừa ra khỏi nhà không bao xa, có một bóng trắng giống như con heo t bên nây đưng băng qua bên kia làm cho bà út tôi phải van vái đ đi êm xuôi. Sau giây phút ấy tôi đi vào cơn ngủ nên không biết gì nữa. Thế là hôm sau tôi được sống và lớn lên trên quê ngoại trong vài năm để rồi lại tiếp tục tản cư thêm một lần nữa và chọn xứ chợ làm nơi cư trú tc là Tân Phưc Khánh hay thường gọi là Tân Khánh về sau nầy!

Tôi theo ba má về quê ngoại Vĩnh Trường có lẽ lúc ba bốn tuổi gì đó mà tôi không nh được. Tôi chỉ nhớ lúc đầu ba má tôi tá túc vào nhà của bà Ngoại. Rồi sau đó, ba má tôi cất nhà tranh vách đất khoảng giữa đường từ nhà Cậu Hai đi vào nhà bà Ngoại. Và từ đó, ba má tôi bt đầu làm gò với phần đất mà ông bà ngoại chia phần cho má tôi cùng Dì Tư và Dì Năm ở trong bìa rừng, đường vô Tân An. Lúc ấy ba tôi có nhờ chú Ba Nức ở phụ giúp các công việc và đón (chăn, gi) trâu. Chú Ba thương tôi lắm, chú thường dẫn hay cõng tôi đi chơi và hái trái gì có ba khía bện lại để làm cho tôi những chiếc ghế nhỏ xinh xinh, hoặc lấy những lá dừa đan thành con cào cào có râu và có cọng dừa để quây quây, hoặc những bông cỏ gấu kết lại thành ổ tò vò. Chú Ba ở với ba tôi cũng khá lâu, khi chú bắt đầu lớn chú đi theo Việt Minh khiến tôi lại buồn và nhớ chú nhiều. Lâu sau, ba tôi cần chú Chang thay chú ba, nhưng rồi chú Chang ở cũng chẳng lâu và bỏ đi nữa. Từ đó hình như ba tôi không còn giữ trâu để làm, lúc ấy tôi nhớ là nhà không còn xe và trâu. Ba tôi sau khoảng tỉa đu trong đất rừng xong, ông đi mua tre và tm vong đ đo đòn gánh và làm gờng ngủ để bán cho những ai cần đến. Ba tôi rất có khiếu về đan đát, ông đan rế (rế là dụng cụ để lót nồi, chảo), đan toi (hình dáng giống như con vt đ đựng cá) rất đẹp, nhất là ông đo đòn gánh không những đẹp mà lại gánh rất êm vai, không bị cấn đau khi cần gánh lâu. Tôi không nhớ hồi tôi về nhà Bà Ngoại, Cậu Sáu có ở nhà hay không, sau nầy tôi nghe ba tôi nói Cậu Sáu lúc ấy đi theo Việt Minh và gặp mợ sáu ở trong Tân An. Có một lần tôi theo má vào trong Tân An ghé nhà mợ sáu. Chỉ một lần đó thôi! MSáu tôi sau khi sanh anh Đức thì bị bệnh mất. Ngày Bà Ngoại vào trong Tân An bồng anh Đức về nuôi, tôi đứng ở cửa sau ngó Bà Ngoại bồng anh Đc đang khóc cùng đường (khóc không ngớt, khóc dài theo đường đi).

Những ngày tôi bị bệnh má tôi đón xe ngựa của Ông Út Bẹt đ lên nhà Thương Thí (bệnh viện Thủ Dầu Một) ở dốc nhà thương khám bệnh và chích thuốc, lúc ấy không biết tôi có lì không mà khi chích thuốc, tôi không khóc, ông y tá bảo "thằng nầy lì thiệt, không khóc he!". Có hôm má tôi dẫn tôi xuống chợ Thủ, vào tiệm chụp hình để chụp tấm hình hai má con. Lúc ấy tôi khóc rất nhiều, cái đầu lại có đội cái bánh tiêu (cái bêrê) của lính commando Pháp mà ba tôi không biết kiếm ở đâu đã cho tôi đội. Hình ấy đến trước khi ba tôi mất cách nay hai năm ông còn giữ mà em trai tôi cứ ngỡ là hình của nó chụp với má tôi! Với cái bêrê nầy về sau khi lính đóng đn Tân Khánh đi b lên Vĩnh trưng đã lấy mất của tôi, khiến cho tôi phải khóc vài ngày, tôi nhớ đến cái chóp nho nhỏ trên đỉnh mũ mà tôi hay mân mê hoặc cầm nó để cho cái nón xoay vòng vòng. Ðường lên Thủ phải đi qua sân bay, lên Bình Thoại, Phú Hòa rồi đến ngã ba cây sao quỳ. Thuở ấy đường còn nhiều vắng vẻ, riêng ở Bình Thoại còn có những hàng cao su của sở Con Rồng, đường râm mát, hình như lúc ấy xe bò không được đi trên đường cái trải nhựa mà đi bng đưng đất ở hai bên đường. Còn từ Phú Hòa ra tỉnh thì hai bên là rừng chồi hoang vắng. Ở ngã ba cây sao quỳ đến nhà thương là nghĩa đa đầy gò mã, mà dưới trũng là những thửa ruộng không được mầu mỡ cho lắm!

Những đêm mưa ở quê ngoại, tôi được nghe tiếng uềnh oang của ễnh ương kêu lên nghe mà phát sợ, nhất là ở phía sau nhà của bà ngoại có cái trũng chứa đy nước lại sát hàng rào, nơi ếch nhái ễnh ương nhảy ra tha hồ mà la lối ỏm tỏi. Tôi thấy hình dáng con ễnh ương mà ghê quá: Da nó bóng láng, lại có hai sọc vàng ở hai bên hông. Hoặc đu mùa đi theo my người lớn hơn để "xắn" dế cơm, tức là con dế cơm khi gáy nó thưng ra đứng gần miệng hang, mình soi đèn thấy nó thì dùng dao xắn chặn đường nó chun xuống hang để bắt, nếu xắn trật hang thì phải đào hoặc đớc vào hang khiến dế ngộp, bò ra mà mình bắt. Rút ruột dế cơm rồi bỏ hột đậu phọng vào đem chiên ăn thật là béo; hoặc có những lúc bắt cóc đem về nấu cháo cóc rất ngọt! Lại có những ngày đi theo anh chị con cậu hai đi "câu" cắc ké (dùng cây dài giống như cn câu, đầu có cái vòng khi gặp cắc ké thì mình hút gió để nó lắng nghe, rồi vòng cái vòng qua cổ nó, giật ngang mạnh để vòng xiết cổ nó rồi bắt), hoặc đi ngoài đng hái trái sim, hay trái mua ăn đến tím ngắt cái lưỡi!

Tôi đã có lần theo má đi với mợ Ba về nhà má của mợ ở bên Phú Hữu. Ðưng đi lúc ấy tôi cảm thấy thật là dài, vì còn nhỏ, thấp nên lại thấy cánh đồng ở sân bay và đồng Bàu Bèo thật là rộng lớn và mênh mông. Thuở đó trên đường còn một số ít cây cao su để trú nắng trong những lúc nắng gắt hay trú chân. Cánh đồng nầy rộng lắm, từ bên nây là xã Vĩnh Trường, bên kia là rìa xã Phú Hữu, An Mỹ chạy dài tuốt vô Phú Trung, Phú Chánh. Ðường từ Phú Chánh chạy về Vĩnh Trường có cái bàu lớn nhiều bèo, có lẽ từ đó có cái tên Bàu Bèo mà ngưi ta có khi nói không đúng lắm trở thành Bà Bèo; nhưng Bà Bèo hay Bàu Bèo gì thì cũng trở thành một cái tên quen thuộc. Bây giờ cánh đồng ấy đã trở thành một phần của khu phố mới và xóm trên của Vĩnh Trưng đã trở thành “phưng”. Cánh đồng nầy đầy lúa gò vào mùa mưa vi nước thật nhiều. Những lúc mưa ln nưc đổ về vùng thấp đu sân bay nơi có lồ ồ và nhập lại với dòng suối con đổ qua Bình Hòa, Tân Khánh ra bưng (cánh đồng) đ đi vào suối cái, ra cầu Bà Kiên ở Tân Ba và nhập vào dòng Đồng Nai. Vào mùa nắng người ta tỉa đậu, trồng đu đủa, khổ qua, bí, dưa, củ cải trắng… nói chung là hoa màu đ tăng thêm thu nhập nên cuộc sống của người dân ở Vĩnh Trường cũng khá là bận rộn, và chính vì vậy mà ngưi dân chơn cht cũng như bao nhiêu vùng mà người nông dân tối ngày chỉ biết lam lụ với công việc đồng áng. Ngày đu tiên đi với thằng Tong lên An Mỹ trình giấy chuyển trường từ Tân Uyên về An Mỹ, ngày ấy mưa thật lớn nước chảy lênh láng trên đường, khiến tôi không thấy được ống cống bên lề đưng nên đã đun xe đạp xuống bìa cống, té ướt hết quần áo. Thằng To ở đàng xa kêu tôi lấy quần áo nó thay. Tôi thấy không cần thiết nên không mượn quần áo của nó. Từ đó tôi mới thật sự biết thằng To, còn trước kia chỉ nghe tên mà không biết nó. Trong hai năm trên An Mỹ tôi với thằng To rất gần nhau vì hoàn cảnh hai đứa tương đối giống nhau.

Nhà của Bà Ngoại tôi thuộc xómới, gần xã Tân Khánh hơn. Từ đây băng qua hai gò mã rồi đi vào xóm dọc suối, qua suối là vào địa phận của xã Tân Phưc Khánh. Ngưi ta đi chợ bằng con đường tắt nầy cho gần, đối với ngưi đi bộ, gánh gánh. Nếu đi bằng xe thì đi con đường qua ngã đình Vĩnh Trường nối với đưng đi Tân Uyên ở ngã ba gọi là ngã ba Vĩnh Trường, sau nầy gọi là ngã ba cây gòn (vì ngày trước ở đây có trồng cây gòn thật lớn). Nhà Bà Ngoại tôi cũng như bao nhiêu nhà Vĩnh Trường chung quanh đều có vuông tre bao bọc, nhà cũng có thể trồng thêm tầm vong hoặc trúc để khi cần có thể sử dụng mà khỏi phải đi kiếm, hay mua. Chung quanh nhà trồng cây ăn trái như mít, ổi, vú sữa, khế, bưởi, cam, quit, chuối... Cách kiến trúc nhà cửa gần như là mô hình chung và từ đó cũng là căn bn để tôi thu thập và viết nên bài “nhà ba gian, hai chái” trước kia. Ngoài những vuông tre, Vĩnh Trường còn có những con đường chạy dọc theo các hàng tre từ đầu sân bay chạy dọc xuống Vĩnh Trưng xóm dưới, chạy bọc vòng vô mãi tới Tân An mà người ta có thể đánh xe ngựa hay xe bò đi thoải mái vào thuở ấy. Những con đưng đi vào xóm chun vào giữa hai hàng tre mát rưi, nhưng thỉnh thoảng làm cho người ta nhức nhối vì dậm phải gai tre. Ðường nhiều bụi vào mùa nắng nhưng cũng rất lầy lội vào mùa mưa! Cũng trên nhng con đường nầy lần đầu tiên tôi mới biết cây cà rem khi đòi má mua cho khi nghe những tiếng chuông leng keng và tiếng rao “cà rem đây năm cắc một cây, đng hai cây, cà rem đây”!

Ngày còn ở quê ngoại, ba tôi cũng thường hay tập đn độc huyền, ông có chỉ cho tôi nhưng tôi vốn thật là ngu hay vì còn nhỏ mà không học đưc. Nhưng có lẽ do tôi ngu thì hơn, vì nhiều đêm ba tôi chỉ cho tôi tập đếm số, thế mà tôi không đếm được, có khi tôi đếm đến chín mà không biết đến sốời. Bị ăn đòn tôi khóc tức tưởi, rồi ông không thèm dạy tôi nữa, lúc ấy tôi đã năm tuổi rồi còn gì. Có đêm đang ngủ ba tôi vực dậy, đem tôi b lên xe đạp chạy băng đồng, gò mã để chạy vì cưp. Người ta chạy khắp đồng giữa đêm khuya. Cậu Ba tôi ngày xưa cũng bp đánh mà bệnh chết. Quả thật lòng dạ con người, làm không muốn làm cứ muốn trộm cướp của ngưi ta mà ăn, bất chấp tàn sát cả mạng người! Chắc ông Trời không có nhân từ, thương ngưi như vy đâu!

Vĩnh Trường thì tre, tầm vong thật là nhiều! Nhà nào cũng có, nơi nào cũng có vì tàng tre và tầm vong cản đưc lượng gió rất lớn trong những ngày mưa bão, bảo vệ được cây trái nhà cửa ở phía trong vuông. Mùa nắng thì lại được mát bỡi màu xanh của tàng. Ðưng đi không quanh co lắm vì chạy theo bìa vuông. Tôi rất thích đi trên nhng con đường ấy vì có vẻ nên thơ và râm mát. Với những hàng tre như vậy khiến tôi luôn nhớ đến Vĩnh Trường dù tôi đã xa Vĩnh Trường thật là lâu. Tôi lại nhớ đến mùa chim dòng dọc làm ổ trên những cành tre. Ổ dòng dọc thật là đẹp, có thể nói loài chim dòng dọc là loài có khả năng kết tổ đẹp nhất từ trước tới nay mà tôi biết. Tổ treo lủng lẳng trên cành tre, miệng ởi đ tránh mưa ướt, phía trong có chỗ trũng đ chim đẻ trứng, nở con con, tổ có bờ đ chim đứng. Những ngày gió to cũng có nhiều con chim con bị văng rớt xuống đất, chết đi. Đâu đâu cũng thấy ổ chim dòng dọc. Tiếng kêu ríu rít tối ngày! Sau nầy, theo chiến sự càng ngày càng tăng, tre bị xe ủi ủi sạch đi nhiu nơi, khiến Vĩnh Trường bị khác đi, nắng chói nhiều hơn và quang cảnh cũng khác đi nhiều, nhất là trong việc thực thi "Hiệp đnh đình chiến tái lập hòa bình" khiến Vĩnh Trường còn tang thương hơn vì bom đạn cày nát từ xóm dưi cho đến xóm trên vào mùa hè đỏ lửa năm 1973.

Tôi rời quê ngoại từ năm tôi bảy tuổi và về xóm chợ Tân Khánh để cuộc sống đưc tương đối yên ổn hơn, nhưng không vì vậy mà tôi không về Vĩnh Trường. Tôi thỉnh thoảng thường theo chúng bạn lội khắp các cánh đồng hay gò mã trên Vĩnh Trưng để vạch đá, đất cục hay đào đường bờ mà bắt những con dế mèn về đá chơi. Hay những khu rừng chồi với nhiều trái cơm rượu, trái sim, trái giấy, trái cò ke, trái táo gai… Từ ruộng bìa suối lên Bình Hòa để bắt cá lia thia, tắm ở những hầm đt sét nưc đục ngầu, hoặc lội rừng chồi từ bìa Hố Khởi Hóa Nhựt lên đình Vĩnh Trường thả dọc lên đường vào Tân An, và lại băng ruộng gò qua Hóa Nhựt mà trở về.

Nhưng hình ảnh khiến tôi không thể mờ phai và âm thanh vẫn còn văng vng bên tai tôi như thuở tôi còn ấu thơ là cái hình dáng ôm ốm, dong dõng cao cao, mắt hơi mờ: "Nào đó bây, thằng Thạch hả, lợi gần cho bà coi coi!.. Ra hái ổi ăn đi con!" của bà ngoại tôi. Tiếng nói ấy đã đi xa và thật xa tự lâu lắm rồi! Mà nay thỉnh thoảng tôi vẫn thường nghe văng vẳng và hãy còn có nhiều ngẩn ngơ!




Nguyên Thảo,

13/11/2014.

No comments:

Post a Comment