Tuesday, December 12, 2017

*Đường Đến Băng Hà. (7)



Tôi và anh Thới vẫn thức dậy từ lúc 6 giờ và đến 7 giờ 15 thì hẹn anh chị Hiệp cùng quý bà đi ăn sáng, mặc dù “morning call” là lúc 7 giờ 30. Và đến 9 giờ 30 cả đoàn lên xe buýt để bắt đầu cho chuyến “City Tour” trước khi rời Vancouver gần tuần lễ để đi lên vùng “Băng hà” của Alaska. Chính vì vậy mà tôi muốn nhấn mạnh đến “Sông Băng” trong tựa đề “Đường Đến Băng Hà” cho chuyến đi nầy.
Cuộc hành trình bắt đầu là chợ Granville, chúng tôi đến đó không bao lâu sau vì không xa lắm. Mọi người được tự do đi vào chợ và chỉ cần nhớ giờ giấc và địa điểm tập hợp lại thôi.
Granville Market là ngôi chợ trong nhà lồng tức là chợ ở trong kiến trúc được che mái và các cửa được kín để tránh những thời tiết nóng lạnh. Theo người ta ước tính có khoảng 275 doanh nghiệp hành nghề tại đây, trong đó có 50 doanh nghiệp thường trực; còn lại phần lớn là những người bán từng ngày trên những quầy hàng cùng những người bán hàng hóa tự làm hay các hàng hóa nghệ thuật mà họ làm ra. Do đó từ các gian hàng hoa cho đến bánh mì, trái cây, tranh ảnh, hàng thủ công, bánh mứt và đồ ăn uống. Tôi cũng thích quay cái cảnh sinh hoạt trong chợ nầy để làm kỷ niệm. Khi tôi chú ý quay cách người ta đổ bánh gọi là “crêpes” thì bà khách hàng người Tây hỏi tôi: “Mầy muốn học làm hả?”. Tôi chỉ cười mà không trả lời. Chắc bả thấy tôi đội cái mũ ấm của đội banh “Port Adelaide” ở Nam Úc nên bả lại hỏi: “Mầy từ Nam Úc tới à!”, tôi gật đầu và bả cho biết bả ở vùng phía Nam của Adelaide gần Đại học Flinder. Mẫu đối thoại ngắn được thành hình: Bả là người sanh đẻ ở Vancouver nầy nhưng có chồng về Nam Úc và nay bả về thăm gia đình. Bả lại hỏi tôi đi với ai và dự định đi ở đâu trong thời gian bao lâu. Rồi bả dẫn con gái đi và tôi cứ lang thang từ chỗ nầy sang chỗ khác để dòm, để ngó, để quay phim. Kể ra cũng vui vì gặp “đồng hương” trên xứ người dù đó là sắc dân nào!
Trước kia vùng Granville Island là khu công nghiệp gồm các xưởng đúc gang thép, lò sát sinh và nhà máy cưa, nhưng từ những năm 1970 với sự phát triển đô thị nên chợ Granville đã thành hình và buôn bán nhiều thứ hàng hóa nhất là chợ nông sản tươi của những nhà nông trồng trọt đem đến, hoặc những hàng thủ công do chính người bán sản xuất từ hàng tiêu dùng như xà bông, phó mát, mật ong… đến những hàng nghệ thuật như khung hình, tranh ảnh, túi xách… Đi vòng trong chợ một hồi, bọn chúng tôi bảy người kéo nhau ra ngoài nhìn tàu thuyền, sông nước và cùng nhau chụp một bôi hình làm kỷ niệm. Thời tiết hôm nay có mưa bay bay, trời nhiều mây và khá lạnh, cho nên hình chắc là thiếu sáng, không rõ lắm! Nhưng cũng không sao, về rồi chỉnh lại cho khá hơn. Do trời mưa, hơi lạnh nên các hàng quán bên ngoài thưa khách, và người lai vãng cũng không nhiều. Gần đến giờ lên xe, chúng tôi phải thả lần ra phía trước và đi ra ngoài.
Đoàn về khu Chinatown. Đây là khu buôn bán sầm uất của người Hoa định cư ở Vancouver. Dọc theo khu vực có những trụ cao màu đỏ treo hình con Panda và tượng con rồng vàng như để đánh dấu cho du khách biết. Vincent đưa chúng tôi đến cổng Chinatown và xem ngôi nhà hẹp mà bề ngang của nó chỉ khoảng chừng 1.7m còn tồn tại đến ngày nay ở ngay góc đường. Tất nhiên là những cơ sở doanh nghiệp hay buôn bán ở đây đều có đề bảng bằng chữ Tàu vì nó là khu phố Tàu mà!
Chinatown nầy là khu phố Tàu lớn thứ ba của vùng Bắc Mỹ, nó được thành hình và mở rộng nhanh chóng sau khi đường sắt xuyên lục địa của Canada hoàn thành vì những người Hoa (khoảng 17,000) nhập cư lao động từ những năm cuối 1800 để xây dựng đường sắt đã ở lại và làm việc trong các ngành nghề khác cùng xây dựng thành một cộng đồng quanh các khu nhà họ đã sống. Và khoảng cuối những năm 1980 làn sóng nhập cư khác của người Hoa từ Đài Loan và Hồng Kông đã tạo nên một khu mới gọi là “Golden Village” ở khu Richmond nâng số người Hoa ở Vancouver lên khoảng 300,000 vào những năm giữa 1990.
Sau đó, Vincent đưa đoàn về Gastown xem cái đồng hồ hơi nước ở góc đường Cambie và Water Street.
Dong ho hoi nuoc.

Đây cũng là một nơi thu hút du khách đến thăm miền Vancouver của Canada. Chúng tôi đến đó vào khoảng 11 giờ 50 cho nên phải đứng chờ. Đến hơn 11 giờ 58 phút thì đồng hồ mới khởi phun khói và đến đúng 12 giờ thì khói phun lên thổi vào những ống bằng đồng phía trên tạo nên những âm thanh thích thú, cả ba lần tức là 12 tiếng, rồi sau đó phói phun vào ống chính giữa giống như âm thanh xe lửa hơi nước ngày xưa bắt đầu chuyển bánh vậy.
Đồng hồ nầy là chiếc đồng hồ hơi nước đầu tiên của nhà chế tạo đồng hồ Raymond Saunders được làm vào năm 1977 với mục đích để trưng bày giờ giấc với bốn mặt bốn bên và báo phút cứ mỗi 15 phút và ống chính giữa để báo giờ. Nó được vận hành do một máy hơi nước và những môtơ điện. Xong, chúng tôi được những giây phút thoải mái trong tiệm bán quần áo và đồ lưu niệm ở góc đường bên kia: Shop Delané. Tôi cần mua thêm một áo ấm khoát ngoài! Xem ra cũng đẹp mà giá tương đối, lại cũng là một kỷ niệm đối với Canada.
Từ giả Gastown chúng tôi lại về khu vực khai mạc Thế Vận Hội Mùa Đông năm 2010 ở gần bờ vịnh để biết nơi đã xảy ra sự kiện lớn, và chiêm ngưỡng những công trình xây dựng quanh kiến trúc đuốc Thế Vận. Kế đó là hình tượng con cá voi “Osca”. Dưới kia là vịnh với những bãi bến của những chiếc “thủy phi cơ” phục vụ cho du khách muốn nhìn Thành phố Vancouver từ trên cao.
Thanh Pho North Vancouver.

Ở đó chụp hình, tham quan đến 1 giờ thì Vincent đưa chúng tôi về Công viên Stanley (Stanley Park). Khu vực đầu tiên mà chúng tôi đổ vào đó là vườn Totem. Nơi nầy người ta trưng bày những thân cây được khắc đẽo những hình tượng thú, chim hoặc người được sơn màu sặc sỡ nối tiếp lên nhau theo chiều cao. Mỗi trụ có chiều cao khác nhau. Đó là nét đặc điểm của người da đỏ bản địa cũng mang tính chất “Thần linh” của họ.
Cong Vien Totem Poles.

Công viên nầy được xem là khu bảo tồn xanh tươi của Thành phố Vancouver, chiếm diện tích khoảng 400 mẫu. Ban đầu là căn cứ của Hải quân Hoàng Gia được chính phủ Anh trao trả cho Thành phố năm 1888 được đặt theo tên của Bá tước Staley of Preston, Thủ Hiến của Canada vào thời điểm công viên được khai trương. Công viên được bao quanh bởi vịnh Vancouver Habour và vịnh English. Bao quanh công viên là con đường Seawall dài 22km, người ta có thể đi xe đạp, đi bộ, chạy bộ cho các hoạt động thể dục hoặc tới công viên nầy nhằm mục đích tham quan, giải trí hoặc nghỉ ngơi, du ngoạn.
Tôi thả ra phía sau vườn Totem để ngắm nhìn ra bờ vịnh để thấy cây cầu Lions Gate Bridge ở phía đàng xa kia, rồi quay cảnh West và North Vancouver.
Lên xe giã từ Công viên Stanley đoàn băng qua cầu Lions Gate sang bờ bên kia là vùng West Vancouver để đi đến cầu treo Capilano.

Nguyên Thảo,
12/11/2017.



*Khi Hoa Anh Đào Nở. (11)



Chúng tôi được “free day” ngay ngày Chủ Nhật, cho nên tha hồ ngủ để bù lại những ngày tranh thủ, vội vàng với giờ giấc di chuyển trong các cuộc đi. Dù là nói vậy, chứ vợ chồng tôi vẫn thức dậy từ sớm vì đã quen giấc, nhưng chỉ nằm “nướng” thêm thôi. Chẳng có gì phải vội vàng hôm nay!
Mở màn cửa sổ, ánh nắng mặt trời đã lên trên các tòa cao ốc, mà đường phố vẫn chìm trong bóng râm của sáng sớm và Thành phố chợt vừa thức dậy trong một ngày mới. Tôi thích thú lấy máy quay cái cảnh Thành phố đầy cao ốc trong buổi hừng đông. Sau đó thì có phone cùng rủ nhau đi ăn sáng, và đoàn lại gặp nhau ở phòng ăn điểm tâm. Từng nhóm lại làm kế hoạch riêng cho ngày hôm nay. Nhưng ở nơi lạ hoắc như thế nầy thì biết đi đâu bây giờ! Và hỏi ai đây? Jennifer thì bữa nay chẳng đến, vì cô cũng được “free day” luôn! Lửng chửng lừng chừng rồi cũng phải bàn tính thôi, không lẽ lại về phòng ăn mì gói và ngủ cho đã!
Khách sạn Tokyo Dome nầy nằm trong phạm vi của khu phức hợp giải trí Tokyo Dome City và kế bên sân vận động, lại gần với 3 ga tàu  và tàu điện ngầm có thể đi đến nhiều địa điểm du lịch rất thuận tiện. Nhưng theo ý kiến chung thì đa số muốn hôm nay đi đến các chợ để tìm mua vài chút đồ để làm kỷ niệm. Thế là cả nhóm lại tìm đường đi ra ngoài theo bản đồ. Nhưng chưa đến giờ mở cửa, nên dù rất nhiều cửa hàng ở đây mà chúng tôi phải đi ra đường kiếm trạm xe buýt để đi. Theo mấy bậc thang đi xuống phía dưới thì gió lạnh, mạnh mẽ thổi đến khiến nhiều người thối chí, bèn trở lên dự tính đi về khách sạn. Đi lên nửa chừng thì lạc mất mấy bà chỉ còn Anh chị Đệ, tôi và anh Nhi. Ngồi đợi hồi lâu chẳng thấy mấy người ấy đâu, tôi và anh Nhi quay lại kiếm nhưng họ đâu mất cả rồi! Đợi thêm hồi lâu, chẳng thấy ai đến cả, chúng tôi phải lần về khách sạn rồi sẽ tính sau. Bây giờ các gian hàng bắt đầu mở cửa và đoàn người nối đuôi nhau xếp hàng thật là dài ở ngoài để vào trong Dome. Tôi và anh Nhi cứ thắc mắc, hôm nay trong đó có cái gì mà người ta xếp hàng để mua vé càng ngày càng đông như vậy. Càng lúc hàng càng được nối dài thêm ra. Về đến phòng tiếp tân chúng tôi ngồi bàn tính hồi lâu, anh Đệ đến quầy tiếp tân nói chuyện với mấy người nhân viên để hỏi thăm tin tức và nhờ họ chỉ chợ ở đâu. Cuối cùng, có nhân viên biết tiếng Hoa anh Đệ hỏi chuyện dễ dàng và anh ta chỉ đường đi. Tuy nhiên khu đó khá xa nên chúng tôi đón xe Taxi để đi. Tài xế Taxi không biết tiếng Anh nên anh nhân viên khách sạn phải nói dùm địa điểm.
Thế rồi bốn chúng tôi (anh chị Đệ, anh Nhi và tôi) đến khu vực “Shopping” nào đó mà chúng tôi cũng chẳng biết vì không biết địa chỉ và cũng chẳng định hướng được nơi nào. Cứ theo dòng người đi vào “shopping” thôi. Thì ra nơi đây là trung tâm mua bán các hàng hiệu và sang trọng, nhưng dù gì chúng tôi cũng chỉ muốn đi để tham quan sự tình! Cái muốn của chúng tôi là đến khu vực thương mại của giới bình dân để xem người ta buôn bán ra sao, nhưng bây giờ thì đã lộn rồi. Không xem được chỗ của “đại chúng” thì mình xem nơi của giới thượng lưu vậy! Sự mua bán trong những năm sau nầy, sau các thời gian khủng hoảng kinh tế trên thế giới thì chắc nơi nào buôn bán cũng gặp nhiều khó khăn giống như nhau. Hàng quán không nhiều khách, chi phí cửa hàng mắc thì nhiều cửa hàng phải đành đóng cửa! Cái khủng hoảng kinh tế cũng do nơi nhiều nền kinh tế trở nên phát triển và sản xuất ra nhiều hàng hóa nên không có thị trường để tiêu thụ, nên nhiều nước khuyến khích dân chúng sử dụng hàng hóa nội địa kể cả xe gắn máy và xe hơi sản xuất trong nước. Tuy nhiên sự cạnh tranh giữa các quốc gia về giá cả, mẫu mã đã làm nhiều nơi điêu đứng.
Tôi nhớ lại những năm 90 của thế kỷ trước, khi hàng may từ Trung Quốc nhập vào xứ Úc đã làm cho ngành may mặc trên xứ Úc tàn lụi và nhân công ngành nầy phải nghỉ hoặc chuyển sang nghề khác; sự kiện ấy kéo theo ngành ủi, kinh doanh máy may, dụng cụ cũng họa lây. Dần các ngành kỹ nghệ khác cũng dần đổ vào đầu tư ở Trung Quốc vì nơi đây có nhân công rẻ và là một thị trường lớn. Tôi lại nhớ đến hãng Coca Cola khi bắt đầu đầu tư ở Trung Quốc thì người ta kể rằng: Chỉ cần mỗi người Trung Quốc uống một lon Coca mỗi năm, thì một năm hãng cũng bán được trên một tỉ lon, thị trường ấy hấp dẫn các nhà tư bản đến để đầu tư. Điều ấy không chỉ riêng xứ Úc mà cả Mỹ, Đức, Châu Âu cũng vậy; nền kinh tế của Trung Quốc bắt đầu phát triển vượt bực để trở thành nền kinh tế thứ hai trên thế giới, và rồi với tham vọng “bá chủ” nên sự phát triển về quân sự được thúc đẩy mạnh. Cho nên những biến chuyển trên thế giới ngày nay, nhất là ở Biển Đông sẽ là một điều tất yếu. Việt Nam có đứng vững hay không chắc là điều phải nói là khó khăn, nhất là sau mấy mươi năm kinh tế bị “bóp nghẹt” khựng lại của những thời xưa cũ, bao cấp; và với kiểu “làm, rồi sai, rồi sửa” để rồi “nới lỏng” cho người ta thở. Mấy mươi năm “lãng phí " đó, thế giới bên ngoài đã đi đến tận nơi đâu đâu rồi! Mà ta vẫn còn mơ tưởng đến một xã hội “siêu việt”!
Chúng tôi lòng vòng trong trung tâm cả gần hai tiếng đồng hồ, nhưng anh chị Đệ chỉ mua được chút ít đồ. Còn tôi và anh Nhi không có mấy bà đi theo ở đây nên chẳng biết gì để mua mà chỉ là “just looking”. Rồi thả dọc theo mấy đường phố gần đây, cái lạ là không thấy có thùng rác công cộng mà đường phố vẫn sạch sẽ, ai ngờ đâu rằng người Nhật không xả rác mà rác được bỏ vào trong túi hoặc bịch đem theo để đem về bỏ rác trong thùng rác ở nhà. Điều nầy chắc chắn dân Nhật được giáo dục rất kỹ lưỡng trong trường học từ thuở ấu thơ. Trông người ta lại ngẫm đến ta!
Chúng tôi chỉ đi thêm một vài đoạn đường thì thấy “cũng vậy thôi”, cho nên thôi đành quay trở lại để đón taxi đi về. Trong lúc đó, có một đoàn xe màu đen không biết là của lực lượng nào có cờ Nhật, phát loa vang rân, chạy trên đường phố giống như trong “tình trạng báo động” của thời kỳ chiến tranh, coi cũng có khí thế lắm! Lâu lắm rồi tôi mới được nghe giống như vầy!
Điều lạ là taxi ngừng cho khách lên ở góc đường chứ không tắp vào lề như ta thường thấy. Chiếc taxi đưa chúng tôi về khách sạn với số tiền mắc hơn bận đi chút ít, chắc họ quay lại với đoạn đường vòng hơn.
Đến hơn nửa buổi chiều thì mấy bà mới về: Thì ra, chúng tôi lạc nhau do mấy bà gặp một người đàn ông Nhật tốt bụng, biết tiếng Anh, hướng dẫn mấy bà đi đến trạm xe điện để chỉ mấy bà đi đến khu chợ bình dân như mấy bà muốn. Anh ta rất tốt, dẫn vào chỉ cách mua vé còn dặn dò đi cách mấy trạm thì xuống và đi hướng nào, theo đường số mấy. Rồi anh ta từ giã để đi, thế nhưng không xa anh ta lại quay lại dặn dò thêm một lần nữa. Thế là mấy bà đã đạt được điều mình muốn, còn nhóm chúng tôi thì không, nhưng ít ra học được vài điều khác lạ trên xứ người!
Nghĩ ra mình già cũng dở, đoàn đã để chúng tôi ở tại cái trung tâm giải trí phức hợp Tokyo Dome City Attractions nầy với bao nhiêu là cửa hàng ăn uống, vui chơi giải trí kể cả các spa, onsen thư giãn, những trò vui chơi cảm giác mạnh như “roller coaster” hay vòng quay lên cao “Ferris Wheel”, thế mà chúng tôi lại không tận hưởng mà lại tìm đi đâu đâu. Cái sân vận động Tokyo Dome là cái nơi lừng danh mà chúng tôi lại chẳng tha thiết.
Tokyo Dome là một sân vận động của vùng Bunkyo, Tokyo được xây dựng từ 16/04/1985 cho đến 17/03/1988 mới được khánh thành nó có đến 4, 5 chục ngàn chỗ ngồi. Sân có tên “The Big Egg” hay còn gọi là “Tokyo Big Egg” với nóc là mái vòm có cấu trúc là chất đàn hồi, đệm không khí được nâng lên với áp lực nhỏ từ bên trong của sân vận động. Nơi đây là sân nhà của Đội Bóng Chày Yomiuri Giants, còn là nơi được tổ chức các buổi Hoà Nhạc, Bóng chày, Chơi banh kiểu Mỹ, Đô Vật, hay Đấu Võ Kickboxing.
Đã vậy, sân nầy cũng đã từng đón những ca sĩ lừng danh của thế giới cho những buổi trình diễn của họ ở đây như Mariah Carey, Janet Jackson, Bon Jovi, Kylie Minogue, Britney Spears, Madonna, Taylor Swift, Michael Jackson, Celine Dion… Cùng những ban nhạc tiếng tăm của Nhật cũng như các nước khác như L’Arc-en-ciel, U2, Guns N’ Roses, The Rolling Stones,… đã trình diễn dưới mái vòm của vận động trường.
Đã thế, vùng chung quanh nầy được gọi là Tokyo Dome City có 6 khu: LaQua zone, Viking zone, Geopolis zone, MagicQuest, Splash Garden và Parachute zone. Chúng có những trò chơi mạnh mẽ, có trò chơi nhẹ nhàng như bowling, roller skate; Có suối nước nóng, có onsen mà nguồn nước từ độ sâu 1,700m của lòng đất, có roller coaster (xe chạy trên đường sắt trên cao), có bánh xe quay lớn (Ferris wheel).
Bên kia cái vận động trường “nhà vòm” lại là khu vườn Koishikawa Korakuen có quá trình lịch sử từ những năm đầu của Thời Kỳ Edo là năm 1629 do lãnh chúa Yorifusa Mito xây dựng. Tên tiếng Hán của khu vườn là Hậu lạc Viên theo triết lý: “Lo trước cái lo của thiên hạ và vui sau cái vui của thiên hạ”. Vườn nầy có diện tích là 160,000m2 trồng khoảng 4,000 chủng loại thực vật và lôi cuốn được rất nhiều du khách hàng năm nhất là về mùa Thu và mùa Xuân với Hoa Anh Đào.
Thế là cả bọn chúng tôi giống như những con chuột đã rơi vào hủ nếp, thế mà từ chối hủ nếp để đi tìm những thức ăn nào đó ở chốn xa xôi! Thật là tiếc nuối quá chừng! Nhưng ít ra chúng tôi cũng biết được nhiều điều ở trên đất Nhật cùng sự hiếu khách, giúp đỡ tận tình của con người nơi xứ nầy!

Nguyên Thảo,
12/10/2017.


*Xin Hỏi.



*Cuộc Đời Vui.

Vui sao đời không hận
Những việc phải ta làm
Lìa xa các việc ác
Từ bỏ những gian, tham.

Lòng có nhiều hoan hỷ
Thân thấy được khinh an
Lại nhiều cảm thọ lạc
Rồi tâm thường định, an.

Đồ Ngông,
05-09-07.

 

*Xin Hỏi.

Xin hỏi ông rằng: "Sao thế ông?
Càng, ngoe đâu hết lại mình ông
Thuở xưa lẫm lẫm ngàn tôi tớ
Lúc nọ vang vang vạn tiểu đồng
Thanh thế lẫy lừng ra mấy cõi
Hồng danh xứng đáng vững như đồng
Bởi ai xui khiến đành như thế?
Càng rụng, ngoe rơi, lại hóa ngông".

Đồ Ngông,
07-09-07.

 


*Thảnh Thơi.

Dạo chơi trên cỏ thảnh thơi
Mây bay ta cũng gởi lời hỏi thăm.
Đôi chim trong bụi thì thầm
Ta nghe rúc rích hàng trăm gọi mời,
Đường vui trong nắng rong chơi
Lâng lâng đối cảnh nhạc lời vô ưu.

Đồ Ngông,
07-09-07.

 


*Chuyện Quỷ Dạ Xoa.

Có con quỷ Dạ Xoa
Vô cùng xấu xí
Chọn trên tòa bỏ trống
Để ngồi cao.
Mọi người nhôn nhao
Trở nên sân hận.
Quỷ được vui mừng
Vì mỗi lúc
Càng thêm xinh xắn.
Người giận lắm,
Quỷ lại đẹp thêm ra!

Người người lấy làm lạ
Tại đâu
Mà như thế?
Trời Đế Thích
Lặng im cung kính
Những ba lần
Đành chấp tay xưng
Quỷ Dạ xoa hoàn hình như cũ.
Cũng vội vàng
Hình biến đi xa!

Nỗi sân hận
Nuôi dần nết xấu
Trong đời này
Nhân thế
Vẫn nhiều người chưa thể nhận ra
Cho nên trần tục mới gọi là!

Đồ Ngông,
08-09-07.


Sunday, December 3, 2017

*Khi Hoa Anh Đào Nở. (10)



Ở đây, tôi cũng được quan sát cách pha, rót và mời trà với khách của những cô thiếu nữ, bà người Nhật trong bộ đồ Kimono truyền thống ở một gian nhà khách bên hông phải của tượng Phật. Chẳng lẽ đây là cuộc biểu diễn hay là một show gì đó để giới thiệu về một nét văn hóa của nước Nhật: Nghệ thuật uống trà hay còn gọi là Trà Đạo chăng? Không biết trà có ngon không chứ tôi thấy quả thật là cầu kỳ, cầu kỳ như cái chào của nhân viên trên xe lửa tốc hành Shinkansen mà tôi đã thấy.
Ở nơi đây, tôi được biết chính xác trái Anh Đào còn nhỏ xíu đã thành hình, và cũng giải mã được cái mà tôi gọi là ảo giác trên đường khi gần đến hồ Yamanakako bữa chiều hôm trước mà hôm sau đi qua đó tôi lại thấy hình như có màu ửng đỏ. Thì ra ở loại cây ấy có thể giống như cây nầy nó vừa bung chồi thì có những cánh đỏ nở ra, nên cây có cái vẻ màu đỏ mà tôi đã tưởng như mơ!
Lên xe, giã từ Tượng Đại Phật, chùa Kotoku-in kể cả Kamakura để chúng tôi đi: Đi về Yokohama, và bây giờ đã gần 2 giờ chiều.
Qua những đường phố đông đúc, các khu nhà cửa sầm uất, đoàn đến Yokohama khoảng 2 giờ 50, xe đỗ khách xuống gần công viên để từ đó Jennifer hướng dẫn chúng tôi đến với khu Chinatown ở đây.
Được biết Yokohama là một trong những cảng biển lớn, sầm uất của Nhật cùng với các cảng biển khác là Osaka, Kobe, Nagoya. Tên Hán Việt của nó là Hoành Tân Thị, rộng trên một diện tích khoảng 437 km2 và số dân trên 3.7 triệu người. Khởi đầu từ một làng chài của những năm 1853-54, do áp lực của Phó Đề Đốc Matthew C. Perry thuộc Hải quân Hoa Kỳ buộc Mạc Phủ phải bỏ chính sách “Bế quan tỏa cảng” và mở cửa một số hải cảng cho thương buôn ngoại quốc đến buôn bán, nên từ 2 tháng 6 năm 1859 Yokohama trở nên một khu cảng sầm uất như ngày hôm nay.
Bước qua cổng Chinatown, chúng tôi đi vào khu vực buôn bán của người Tàu ở đây. Ở Nhật cũng có nhiều khu Chinatown, nhưng khu nầy được coi là lớn nhất với hơn 2,000 cư dân. Khu được đánh dấu bằng 7 cái cổng lớn ở chung quanh với hơn 500 cơ sở thương mại và trên 300 tiệm ăn. Du khách có thể tha hồ mà lựa chọn và ăn uống.
Nhiệm vụ của Jennifer là hướng dẫn chúng tôi đến đây để rồi sau đó chỉ nói giờ giấc tập họp để lên xe buýt và đi về khách sạn, rồi thì để chúng tôi được tự do, nhưng chỉ yêu cầu là “đừng quên giờ giấc lên xe buýt”.
Đường phố ở đây đông người, len lỏi qua các khu buôn bán, cửa hàng, chỉ mấy bà là còn đi chung với nhau vì họ cần đi chung để xem thứ gì có thể mua được. Chứ mấy ông đi lang thang nhưng cũng dễ lạc nhau vì dòng người xen lẫn. Tôi đi vào cửa hàng bán đồ lưu niệm và lặt vặt, tính tìm mua vài bức tranh lụa, kiểu vẽ đặc trưng, đậm nét Nhật chứ không phải theo kiểu “thủy mặc” của Tàu để làm kỷ niệm, nhưng tìm mãi cũng chẳng biết ở đâu. Chủ thì không hiểu nhiều tiếng Anh, khách thì chẳng biết tiếng Tàu hay tiếng Nhật, mà giải thích thì cũng còn nhiều giới hạn. Ngôn ngữ quốc tế “tay quơ” không đủ để diễn tả cho cả khách lẫn chủ để hiểu nhau, nên đành cố đi tìm. Tìm mãi cũng chẳng thấy đâu nên đành thôi. Đi lòng vòng, dòm ngó nơi chốn đông người, rồi lại dòm vào cái đồng hồ. Đi thì đi, nhưng cứ mãi nôn nao “sợ trễ chuyến đò”. Cuối cùng đưa máy quay quay một số đường phố của khu phố Tàu, rồi đi ra gần chỗ “hẹn hò” và thả rong nơi công viên bến tàu, vừa được hít thở không khí dịu mát của biển khơi mà không phải nơm nớp lo sợ “trễ giờ”.
Công viên nầy có tên là Công viên Yamashita, nó được xây dựng từ sau trận động đất Kanto đã tàn phá nặng nề Thành phố Yokohama vào năm 1923. Ta có thể ngồi trên băng đá nhìn “ông đi qua, bà đi lại” hay ngắm nhìn bông hoa nở vào mùa Xuân, thưởng thức hoa Anh Đào. Lặng nhìn lá cây khô rơi rụng, đua nhau chạy theo chiều gió, hoặc quan sát ngọn hải đăng cao 106 m được xây dựng vào năm 1959 để kỷ niệm 100 năm của cảng. Và ta cũng có thể theo dòng người ra sát bờ để nhìn những du thuyền đang đỗ bến gần đó, cùng nhìn chiếc tàu lịch sử Hikawa Maru đang neo tại đó như là một bảo tàng từ năm 1960 sau 30 năm hoạt động đã đi từ Yokohama đến Vancouver của Canada.
Vợ chồng tôi chụp hình ở hồ phun nước có tượng đài “The guardian of water”, tượng người đàn bà cầm bình nước mà Thành phố San Diego đã tặng cho Thành Phố Yokohama như tình kết nghĩa vào năm 1960, trong khi chờ đợi mọi người tập trung và lên xe buýt.
Cap nha tho vo chong: Nguyen Nhi, Tu Thi Thu Trang va Tuong dai "The guardian of Water"
 


Xe đến đúng giờ, theo Jennifer thì ở Nhật người ta rất trân quý đến giờ giấc, thường không phải trễ nải, hay chậm chạp kiểu “để người khác đợi”, hoặc “lề mề, lễ mễ” của người mình hầu chứng tỏ “ta là người quan trọng”! Ý thức của người Nhật rất cao, có lẽ họ đã được huấn luyện từ nhỏ và từ trong trường học, cho nên trên đường ta không thấy thùng rác công cộng nào mà đường phố vẫn được sạch sẽ, khiến tôi nhớ đến kỳ thế vận hội túc cầu ở Nam Mỹ những người khách Nhật lượm rác chung quanh chỗ mình rồi bỏ vào túi rác đem theo khi vận động trường tan hàng; hoặc chuyện đứa bé nhận được quà người khác cho trong lúc nó đang sắp hàng để nhận quà, nó không cất riêng cho mình mà lại đem lên bỏ vào phần quà chung chờ phân phát như bao nhiêu người khác trong thảm họa kép sóng thần lẫn nhà máy điện nguyên tử rò rỉ ở Fukushima.
Xe chuyển sang Tokyo vào lúc 4 giờ và chừng 50 phút sau, xe dừng lại và mọi người đến tham quan Rainbow Bridge. Xuống xe, Jennifer hướng dẫn đoàn băng qua một ngõ xuống công viên nhìn qua cầu, ngang qua một tượng “Nữ Thần tự Do” được đặt ở đây: Vì rằng: Từ tháng 4/1998 đến Tháng 5/1998 nhân kỷ niệm “The French year in Japan” tượng Nữ Thần tự Do của nước Pháp ở đảo “Ile aux cygnes” thuộc Paris (Pháp) được đem đến dựng ở Odaiba, Tokyo. Vì tính phổ biến tinh thần của tượng nên năm 2000 bản sao tượng đó được dựng lên tại vị trí trưng bày trước, tức là vị trí mà chúng tôi đang chiêm ngưỡng của công viên nầy.
Tuong "Nu Than Tu Do"

Bên kia là Rainbow Bridge. Cầu nầy thuộc loại cầu dây giăng nối Tokyo với khu cảng Odaiba dài 798m, rộng 46m, cao 126m cho những tháp, và phần đường là 52m, được xây dựng từ năm 1987 và hoàn thành vào năm 1993. Cầu có hai tầng: Phần trên là đường tốc hành nối bến phà Shibaura với khu Odaiba ở Minato, phần dưới là cho xe điện và các phương tiện giao thông khác, kể cả khách bộ hành đi ngắm cảnh. Cầu được trang bị ánh sáng bằng năng lượng mặt trời. Điện được tích lũy ban ngày và chiếu sáng vào ban đêm với ba màu trắng, đỏ và xanh lá cây cùng màu xanh dương trên các trụ đỡ. Sự pha trộn màu do ánh sáng cùng sự phản chiếu từ mặt nước nên màu sắc trở nên kỳ ảo của màu cầu vồng và từ đó có tên là Cầu Cầu Vồng.
Cau "Rainbow Bridge" phia sau.

Chúng tôi tham quan ở đó cho đến 5 giờ 25 thì ra xe để đi ăn chiều ở nhà hàng Tàu Long Nguyên cách đó chừng 20 phút chạy xe. Rồi lại ra xe về khách sạn, khách sạn mà chúng tôi sẽ trú ngụ trong hai đêm là Tokyo Dome Hotel. Nhưng ngày mai là ngày tự do, tự mình kiếm chỗ đi cũng như là tự kiếm chỗ ăn hay nói theo tiếng Anh là “Free Day”! Tôi ở tuốt trên lầu 19 nên tầm mắt cũng phóng được ra xa chút ít đối với Thành phố Tokyo nầy!

Nguyên Thảo,
24/09/2017.




*Tham Nhũng.


*Khoác Lác.

Khoác lác, ba hoa, miệng chích chòe
Cố tình lớn tiếng mọi người nghe
Rằng ta có thế, ta quan trọng
Có lủ người sai, có bạc kè.

"Thân thế giàu sang từ tấm bé
Trời sanh khi nhỏ đã ra tài
Đến đâu bạn cũng yêu, người quý..."
Khoác lác, ba hoa, dễ "mấy tay..!"

Ở tận xứ người ai có biết,
Về thân, về thế kẻ khoe tài.
Quyền cao, chức trọng..., cùng thây kệ
Chỉ thấy miệng mồm..., cũng biết ngay!

Đồ Ngông,
20-4-02.

 

*Nổ!  (1)    

Thế gian cứ gọi: Rằng là nổ
Khoác lác, khoe khoang như điếu đổ
Đại bác, bom mìn "theo chẳng kịp"
Đại liên, kho đạn "còn cây số"
Trên trời, dưới đất "ôm trong bụng"
Thiên hạ, nhân gian "đầy một hố"
Phước đức nhà anh, tên "miệng cả"
Để đời nhân thế rằng "Ơi,..nổ!"

 

*Nổ!   (2)

Tiếng nổ vang vang cỡ hắn ta,
Om sòm, rộn rã tự ngoài xa
Bụi bay, văng miểng đầy hàng xóm
Âm hưởng ngân vang khắp mọi nhà.
Chú chó bên ngoài đang hạo hực,
Chị gà chập chững lại bay xa.
Mong cho tiếng nổ còn vang dội,
Thay pháo đầu xuân tới tận nhà...

Đồ Ngông,
22-04-02.

 

*Tham Nhũng.

Mối đục cây nào cũng sẽ tiêu
Nhà xinh cách mấy cũng hư, xiêu
Dân nghèo, luôn mãi dân nghèo khổ
Đất nước hoang tàn, cảnh quạnh hiu.

Cứ ngỡ đem tài ra giúp nước
Kinh luân ba túi chuyển xoay thời
Dân giàu, nước mạnh nam nhi chí
Thỏa ước bình sanh, xứng cuộc đời.

Cũng lủ ăn mày, thân mối mọt
Cũng phường không đáy, túi thâm sâu
Vét vơ không biết bao giờ đủ
Cũng lủ "hầm cầu", giống "bọ sâu"...

Đồ Ngông,
25-04-02.

 

*Thóc Mách.

Khi tôi còn bé nhỏ
Tôi làm một điều sai
Đứa bạn liền đi "méc"
Bạn thóc mách đi rồi!

Khi ra đời làm việc
Tôi bất mãn "xếp" tôi
Có người đi báo "xếp"
Thóc mách lại tới thôi!

Có người đi lén vợ
Gặp phải bạn không hiền
Bao nhiêu điều nói hết
Thóc mách đến khuôn viên!

Tôi bị cha mẹ đánh
Bị "xếp" chửi một hồi
Vợ đần chồng tới tấp
Cũng tại thóc mách thôi!

Đồ Ngông,
25-04-02.