Saturday, December 24, 2011
*Đạo Phật 29: "Tính Không" Trong Đạo Phật!
Nói đến “Tính Không” trong Đạo Phật là nói đến một vấn đề mà nhiều người còn thắc mắc, nhất là những người ngoại đạo vì không thể hiểu được cái giáo lý cao thâm này đành buột lên những câu hồ đồ, cạn cợt để đánh giá thấp hay phỉ báng đạo Phật.
Đi tìm vào “Tính Không” thật là không đơn giản, vì “Không” nghĩa là gì? Không có nghĩa là không, là hư không hay là hư vô? Nhiều người đã cho Đạo Phật là đạo cứu cánh về Hư Vô đồng nghĩa với Hư Vô trong Lão giáo. Nhiều người lấy câu: “Ngũ uẩn giai không” và “Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc” trong bài Kinh “Ma-ha Bát-Nhã Ba-la-Mật Đa Tâm Kinh” để triển khai rồi có cái nhìn không đúng vào Đạo Phật. Lại thêm trong bài Kinh ấy có thêm: “Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm” khiến cho người nghiên cứu, tìm hiểu có thêm sự rối rắm về chữ “không”!
Tại sao trong Đạo Phật lại có “Tính Không”?
Chúng ta cần ghi nhớ lại rằng: Đức Phật chỉ là Đạo sư, tức là người “chỉ đường” chứ không là một giáo chủ; tức là Đức Phật không sáng chế, hay tạo một phương thức đến con đường giải thoát, mà Đức Phật chỉ tuyên xưng, truyền bá con đường tự thể của nó phải tiến qua những bước, tiến trình, những giai đoạn như thế để đạt đến mục đích cuối cùng. Trước Đức Phật Thích Ca đã có vô số chúng sinh đã thành Phật; sau Đức Phật cũng sẽ có nhiều vị Phật sẽ thành và ngay trong thời Đức Phật cũng có nhiều người thành Phật, vì thế mới có Phật trong ba đời: Quá khứ, Hiện tại lẫn Vị lai. Tất cả đều cùng nương trên cùng một con đường như thế để thành đạo. Đức Phật Thích Ca truyền đạt con đường đó trên cõi Nam Diêm Phù Đề (Nam Thiệm Bộ Châu hay Ta Bà) hay trên trái đất cõi người của chúng ta này theo hạnh nguyện của Ngài.
Trong Kinh Lăng Nghiêm có ghi:
"Từ một thể chơn tâm không khác, vì vọng niệm phân biệt, có năng sở, bỉ thử sai khác, nên hiện ra có hư không và thế giới. Nhơn có hư không thế giới nên mới có chúng sanh. Đã có thế giới và chúng sanh lăng xăng đối đãi nhau, nên khởi lên vô số vọng tưởng phân biệt: Tốt, xấu, phải chẳng v..v...Vì thế mà sanh ra đủ các phiền não trần lao nhiễm ô. Cái có hình tướng và sanh diệt là thế giới, cái không hình tướng và yên tịnh là hư không, khác với hư không, thế giới là chúng sanh vậy" (Kinh Lăng Nghiêm, Phật Học Phổ Thông khóa VI-VII, HT. Thích Thiện Hoa, trang 121).
Như vậy “Từ nơi Chơn Tâm, do vô minh vọng động mà có hư không. Hư không mờ mịt vì vô minh sanh” (LN, trang 121) và vì “vọng niệm phân biệt” nên có hư không và thế giới. Những gì không thuộc thế giới và hư không là chúng sinh. Cũng trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật đã chỉ những nguyên nhân riêng và tuần tự sinh ra vũ trụ. Và cũng ở hư không đó, khi thành đạo Đức Phật cho biết thân Phật thật lớn “thân ta bao trùm mười phương hư không vô tận” và khi thật nhỏ “ngồi trong hạt bụi, mà chuyển đại pháp luân” mà không bị ngăn ngại nào cả.
Đức Phật còn nói đến tính không ấy trong Kinh "Đại Bát Niết Bàn" (HT. Thích Trí Tịnh dịch) như sau:
"Này Thiện nam tử! Vừa rồi ông hỏi cớ chi đức Như Lai dựa nằm chẳng ngồi dậy, chẳng đòi uống ăn, chẳng dặn bảo quyến thuộc coi sóc sản nghiệp.
Này Thiện nam tử! Tánh hư không cũng chẳng ngồi dậy, chẳng đòi uống ăn, chẳng dặn bảo quyến thuộc coi sóc sản nghiệp, cũng không đi, không lại, không sanh diệt, không già trẻ, không mọc lặn, hư bể, giải thoát, ràng buộc, cũng không nói mình, nói người, cũng không hiểu mình hiểu người, chẳng phải ăn, chẳng phải bịnh." (Trang 385, tập 1)
Và trong tập 2, Kinh Đại Bát Niết Bàn trang 247 lại ghi rõ hơn:
"Này Thiện nam tử! Tất cả các pháp vốn không có tánh, do nghĩa này nên ta nói kệ rằng:
Trước không nay có
Trước có nay không
Ba đời có pháp
Không có lẽ đó
Này Thiện nam tử! Tất cả pháp do nhơn duyên mà sanh cũng do nhơn duyên mà diệt.
Nếu chúng sanh có Phật tánh, thời tất cả chúng sanh lẽ ra có thân Phật như ta hôm nay.
Phật tánh của chúng sanh chẳng hư, chẳng hoại, chẳng bị kéo, bị bắt, chẳng bị trói, bị buộc. Như trong chúng sanh có hư không, vì tất cả chúng sanh đều có hư không chẳng chướng ngại, chúng sanh đều chẳng tự thấy mình có hư không này. Giả sử nếu chúng sanh chẳng có hư không thời không có những sự đến, đi, đứng, ngồi, nằm, chẳng sống chẳng lớn. Do nghĩa này nên trong kinh ta nói tất cả chúng sanh đều có hư không giới, hư không giới đây gọi là hư không. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy. Bực Thập trụ Bồ tát thấy được phần ít như châu kim cương."
Theo như những đoạn kinh dẫn chứng ở trên cho chúng ta có thể chiêm nghiệm được nhiều vấn đề để lý giải về “Tính Không” trong Đạo Phật.
Đầu tiên hư không được phát sinh từ cõi Chơn Tâm vì do vô minh vọng động, hư không mờ mịt vì do vô minh sinh; rồi vì “vọng niệm phân biệt” mà sinh ra thế giới, chúng sinh. Tất cả đều do những nguyên nhân, yếu tố đúng thời đúng lúc để kết hợp sinh ra cái khác (duyên sinh); cái sự kiện, vật này sinh là nguyên nhân cho cái khác kế tiếp được sinh ra cứ thế mà nối tiếp không ngừng nghỉ (trùng trùng duyên khởi). Nhưng mọi sự kiện đó khi đã có duyên sinh thì tất sẽ bị hoại diệt để rồi một cái khác sẽ thành hình theo quy luật: Sinh, trụ, dị, diệt; Thành, trụ, hoại không; và với con người, chúng sinh là sinh, lão, bệnh, tử.
Với hình sắc cụ thể (sắc) thì nó cũng không thường còn, luôn biến đổi theo thời gian hay từng sát-na (vô thường) để rồi khi chết hoặc hoại diệt thì nó lại trở về với cái “không”, những gì nó vay mượn từ các đại lại trả về với các đại; và trong trạng thái “không” đó lại chờ đợi duyên hợp khác để kết hợp thành cái khác; ở nơi cái khác sẽ hoại diệt để trở lại trạng thái không. Cho nên trong đạo Phật mới đề cập đến “không phi không”, “hữu phi hữu” (chơn không diệu hữu). Do vậy, “có có” hay “không không” cũng chỉ là hai hình thái khi ẩn khi hiện của cùng một bản thể! Cho nên Quán Tự-Tại Bồ Tát đã “hành thâm” quán triệt, thấy rõ năm uẩn đều là không; có sắc hay như khi không có sắc cũng chẳng khác gì nhau (không tức thị sắc, sắc tức thị không) nên không thấy là khổ nữa. Tương tự: Thọ, Tưởng, Hành, Thức cùng theo với sắc cũng sẽ là như vậy!
Còn với các pháp thì pháp vốn là không tướng, không sinh, không diệt, không dơ, không sạch cũng không tăng, không giảm, bất biến theo thời gian.
Trong bài: “Sơ lược ý nghĩa chữ “Không” trong Đạo Phật”, Thượng Tọa Thích Nhật Từ đã giải thích ý nghĩa chữ không trên sáu bình diện:
1-Không và Thiền định. (đến nơi trống rỗng để thiền định; và “an trú nơi trống rỗng hay tánh không”).
2-Tánh Không tức Vô Ngã. (Vì tánh Không là tính không thực thể của ngã và các sự vật).
3-Tánh Không tức Duyên khởi, Vô Thường, Vô Ngã. (Đặc tính của sự vật là không thực thể hay duyên khởi hay vô ngã)
4-Tánh Không và Trung Đạo. (Thiền quán về tính không và duyên khởi của các sự vật hiện tượng là một trong các cách trừ diệt các chấp thủ, tham ái và dẫn đến sự an tịnh các hành một cách có hiệu quả).
5-Phương pháp quán “không, giả và trung”. (Tất cả các sự vật hiện tượng đều do duyên mà hình thành; do đó gọi là không (tức không thực thể) hay cũng còn gọi là giả danh hay trung đạo).
6-Ý nghĩa chữ “Sắc” trong “Sắc tức thị Không”. (Sắc uẩn chỉ là tổ hợp vật chất tùy thuộc, duyên khởi vào các hoạt động tinh thần khác (thọ, tưởng, hành, thức) nên nó không có thực thể (không): Sắc tức thị không).
Nhưng, như chúng tôi đã trích dẫn hai đoạn Kinh Đại Niết Bàn ở trên đã chứng tỏ thêm một vấn đề khác. Chúng tôi xin ghi lại:
Này Thiện nam tử! Tánh hư không cũng chẳng ngồi dậy, chẳng đòi uống ăn, chẳng dặn bảo quyến thuộc coi sóc sản nghiệp, cũng không đi, không lại, không sanh diệt, không già trẻ, không mọc lặn, hư bể, giải thoát, ràng buộc, cũng không nói mình, nói người, cũng không hiểu mình hiểu người, chẳng phải ăn, chẳng phải bịnh." (Trang 385, tập 1)
Và:
Phật tánh của chúng sanh chẳng hư, chẳng hoại, chẳng bị kéo, bị bắt, chẳng bị trói, bị buộc. Như trong chúng sanh có hư không, vì tất cả chúng sanh đều có hư không chẳng chướng ngại, chúng sanh đều chẳng tự thấy mình có hư không này. Giả sử nếu chúng sanh chẳng có hư không thời không có những sự đến, đi, đứng, ngồi, nằm, chẳng sống chẳng lớn. Do nghĩa này nên trong kinh ta nói tất cả chúng sanh đều có hư không giới, hư không giới đây gọi là hư không. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy. Bực Thập trụ Bồ tát thấy được phần ít như châu kim cương."
Như vậy, Đức Phật xác định trong mỗi chúng sinh đều có hư không giới, tức hư không giới cũng là một thành tố cấu tạo cơ thể của chúng sinh, nhờ hư không ấy mà chúng sinh mới có được sự tăng trưởng, đi, đứng, nằm, ngồi, tức là hoạt động được. Nhưng tính chất của hư không thì không đi, lại; không ăn uống; không sinh diệt, già trẻ hư hoại; không phân biệt mình, người... Vậy hư không giới trong mỗi chúng sinh sẽ đóng vai trò quan trọng nào?
Chúng ta cùng để ý đến hai đoạn Kinh lăng Nghiêm sau:
-"Còn ta (Phật) thì trái với vọng trần, hiệp với Chơn tâm thường trụ bất sanh bất diệt, biến khắp cả pháp giới. Cho nên ta mới được tự tại vô ngại: Ở trong một hiện ra vô lượng, vô lượng hiệp làm một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ; không rời nơi đạo tràng mà hiện khắp cả mười phương thế giới. Thân ta bao trùm mười phương hư không vô tận. Trên đầu một mảy lông hiện ra các cõi nước; ngồi trong hạt bụi, mà chuyển đại pháp luân. Vì ta diệt hết vọng trần, trở lại với bản tâm thanh tịnh trong suốt, nên mới được như vậy! (LN 132-133).
-Khi tâm hoàn toàn thanh tịnh rồi, thì cái trí quang sáng suốt hiện ra. Lúc bấy giờ chơn tâm ông vừa tịch tịnh lại vừa chiếu soi, bao trùm khắp cả mười phương hư không thế giới, lúc bấy giờ ông trở lại xem cảnh vật hiện tiền ở thế gian này, cũng như là việc trong chiêm bao. Khi ông được như thế rồi thì nàng Ma Đăng Già ở trong mộng kia làm gì bắt ông được! (LN, 235).
Từ hai đoạn trên cho chúng ta thấy Đức Phật đề cập đến những đặc điểm của một vị đã thành Phật có những đặc điểm hiệp với hư không như sau: Thường trụ bất sanh, bất diệt, biến khắp cả pháp giới; tự tại vô ngại; không rời nơi đạo tràng mà hiện khắp cả mười phương thế giới; thân ta bao trùm mười phương hư không vô tận; trở lại bản tâm thanh tịnh trong suốt; chơn tâm vừa tịch tịnh lại vừa chiếu soi.
Những điều đó cho chúng ta có thể hiểu rằng một hành giả đạt được Đạo Vô Thượng Bồ Đề sẽ nương vào tính hư không để bất sinh bất diệt, để có thể vươn ra lớn cùng với hư không vô tận, cũng như nương vào hư không để có thể thu nhỏ lại như hạt bụi đem để ở trên đầu ngọn lông mà làm công việc lớn: Chuyển Đại Pháp Luân, nhưng không bị ngăn ngại gì cả.
Trong thời đại vi tính và truyền hình ngày nay chúng ta có thể hiểu được “thần thông” của Đức Phật thường nói trong Kinh điển: Đức Phật có thể thu toàn thế giới cùng với mình lại nhỏ như hạt bụi để mình “chuyển Đại Pháp Luân” mà trong đó mọi thế giới có cảm tưởng như không hề thay đổi, giống như trên màn hình chiếu từ cảnh cá nhân lớn dần đến nhà cửa, toàn địa phương rồi đến địa cầu, thái dương hệ, thiên hà và lớn dần toàn vũ trụ; Sau đó, chúng được gom lại trong một bong bóng và bong bóng đó nhỏ dần, nhỏ dần và gom lại thành một điểm vào giữa màn ảnh, sau cùng thì biến mất hay bằng hạt bụi. Hình ảnh ấy giống như toàn vũ trụ được gom nhỏ trong hạt bụi có thể đem để trên đầu ngọn lông mà những gì trong đó vẫn cảm thấy không hề thay đổi. Còn tại sao khi thành đạo thân Phật lại “bao trùm mười phương hư không vô tận”? Điều ấy chúng ta có thể lấy lại ví dụ của A-Lại-Da-Thức thì sẽ dễ hiểu hơn! Khi A-Lại-Da-Thức còn của một chúng sinh bình thường thì giống như một cái túi để chứa đựng những hạt giống (chủng tử) nhân quả; nhưng khi không còn những nhân xấu khiến mình phải tái sinh để trả quả nữa, tức lúc ấy hành giả đã đạt đến Đạo Bồ Đề thì túi A-lại-Da-Thức sẽ tự tan vỡ đi, và cái Tâm ( bây giờ là “chơn tâm” vì sau khi tu đắc đạo cái “vọng tâm” đã bị diệt) của hành giả sẽ nương theo hư không mà trương lớn lên theo khắp cùng trong hư không vô tận để “trở thành thân Phật”. Thân ấy khi muốn lớn thì tràn khắp hư không; còn muốn nhỏ thì thu nhỏ lại giống như hạt bụi. Sự trương lớn, hay thu nhỏ không bị cái gì ngăn ngại cả (thân vô ngại). Và sự trương lớn hay thu nhỏ đó chỉ cần trong một niệm cho nên câu “chỉ trong một niệm các Đức Phật có thể đi qua khắp “tam thiên đại thiên thế giới” là như vậy!
Nếu nói như thế thì trong “hư không vô tận có rất nhiều Đức Phật ẩn tàng vào nhau”? Đúng thế, cho nên Đức Phật mới thuyết:
“Ở trong một hiện ra vô lượng, vô lượng hiệp làm một, trong lớn hiện nhỏ, trong nhỏ hiện lớn; không rời nơi đạo tràng mà hiện khắp cả mười phương thế giới”.
Và Đức Phật cũng đề cập đến cảnh viên dung ấy như sau:
“Thí như trăm ngàn ngọn đèn, đồng đốt trong một căn nhà, ánh sáng của mỗi ngọn đèn tuy đều chiếu khắp cả nhà, nhưng không có lộn lạo hay lấn diệt lẫn nhau”. (Kinh Viên Giác, Phật Học Phổ Thông khóa VIII, trang 51-52).
Tất cả các vị Phật đều ở trong Hư Không Pháp Giới và cũng được gọi là Niết Bàn như Ngài A-Nan bạch Phật rằng:
-(A Nan) Bạch Thế Tôn! Bồ Đề, Niết Bàn, Chơn Như, Pháp Tánh, Yêm Ma La Thức, Không Như Lai Tạng, và Đại Viên Cảnh Trí, bảy danh từ tuy khác, chớ cũng đồng một quả Phật thanh tịnh thường còn không hoại. (Lăng Nghiêm, PHPT khóa VI-VII, trang 162).
Trong câu này cho chúng ta biết Niết Bàn là ở nơi đâu? Và Niết Bàn là gì? Niết Bàn là một trạng thái thanh tịnh, khắp giáp cả mười phương hư không thế giới, là nơi an trú mà người hành đạo khi đạt được tiến về với Chơn Tâm như đoạn Kinh Lăng Nghiêm ghi như sau:
“Này Phú-Lâu-Na, các ông khi đối với trần cảnh (thế giới, chúng sanh, nghiệp quả) chỉ đừng có khởi vọng niệm phân biệt, thì tham, sân, si, (ba duyên) không khởi. Ba duyên không khởi, thời ba nhơn sát, đạo, dâm chẳng sanh. Lúc bấy giờ anh khùng Diễn-Nhã-Đạt-Đa (mê) ở trong tâm các ông tự hết, mà hết tức là Bồ-Đề (sáng suốt). Khi ấy chơn tâm của ông thanh tịnh sáng suốt tự hiện bày, khắp cả pháp giới, không cần phải cực nhọc khó khăn tu chứng, hay xin cầu nơi ai cả”. (Kinh Lăng Nghiêm, PHPT Khóa VI-VII, trang 143)
Và Đức Phật nói về Chơn Tâm:
“Nó nhiệm mầu yên lặng, sáng suốt, khắp giáp cả pháp giới” (Lăng Nghiêm, PHPT, trang 110); “Chơn tâm nhiệm mầu vắng lặng mà thường sáng suốt chiếu soi (Bản giác diệu minh, bản giác minh diệu)” (trang 119).
Và ở một đoạn Kinh Tạp-A-hàm, Đức Phật chỉ rõ qua đâu mà chúng ta sẽ tìm được Niết–Bàn:
"Như Lai tuyên bố rằng thế gian, nguồn gốc của thế gian, sự chấm dứt thế gian và con đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian đều nằm trong tấm thân một trượng này, cùng với tri giác và tư tưởng."
Và Niết-Bàn đối với người hành đạo có hai hình thức:
"Có hai hình thức chứng nghiệm Niết Bàn là chứng nghiệm Niết Bàn trong lúc còn mang thân ngũ uẩn và chứng nghiệm Niết Bàn lúc không còn thân ngũ uẩn nữa.
Nầy chư Tỳ Khưu, chứng nghiệm Niết Bàn trong lúc còn mang thân ngũ uẩn là gì?
Là nơi đây, nầy chư Tỳ Khưu, một thầy tỳ khưu đắc quả A La Hán, đã tận diệt mọi ô nhiễm, đã sống đời thiêng liêng cao thượng, đã làm những việc cần phải làm, đã bỏ gánh nặng, đã thành đạt mục tiêu, đã tận diệt mọi trói buộc của đời sống, một thầy tỳ khưu hiểu biết chơn chánh và đã được giải thoát. Ngũ quan của thầy vẫn còn và vì chưa xa lìa hẳn ngũ quan, thầy còn hưởng những quả lành và chịu những quả dữ. Sự chấm dứt tham, sân, si của thầy tỳ khưu ấy gọi là chứng nghiệm Niết Bàn trong lúc còn mang thân ngũ uẩn.
Nầy chư Tỳ Khưu, chứng nghiệm Niết Bàn trong lúc không còn thân ngũ uẩn là gì?
Nơi đây, nầy chư Tỳ Khưu, một thầy tỳ khưu đắc quả A La Hán...đã được giải thoát. Trong chính kiếp sống ấy thầy không còn thích thú với những cảm giác của thân nữa, thầy mát mẽ. Đó là chứng nghiệm Niết Bàn trong lúc không còn thân ngũ uẩn". (Đức Phật và Phật Pháp, Narada Thera (Phạm Kim Khánh dịch), trang 466).
Niết Bàn trong lúc còn mang thân ngũ uẩn đó là: "Hữu Dư Y Niết Bàn" và "Vô Dư Y Niết Bàn" là Niết Bàn khi không còn thân ngũ uẩn.
Theo như vậy, “Tính Không” trong Đạo Phật không phải là những “cái Không” giả tưởng hay mơ hồ; mà những “Không” ấy để chỉ đến những cái trống rỗng, những cái không có thực chất, những cái “không” và “có” giả tạm. Nhưng “Hư không” mới là nơi “trụ” và “viên dung” của tất cả các đại, và cũng là nơi mà Tâm của từng chúng sinh tu đến Giác Ngộ nhập vào cõi Chơn Tâm nằm trong Chơn Như, Pháp Tánh, Niết Bàn,... hay được gọi đúng hơn là “Không Như Lai Tạng” vậy!
Cho nên “Tính Không” trong Đạo Phật không phải có nghĩa là “Không Có”; mà lại cũng không phải có ý nghĩa mơ hồ chung chung mờ mịt như “Hư Vô” trong Đạo Lão chủ trương, mà “Tính Không” trong Đạo Phật rất là cụ thể và cao trọng nhất mà người hành giả mong muốn để tìm về!
Nguyên Thảo,
11/9/2011.
*Thơ Đó, Thơ Dây! (tt)
*Lai Vung. (Sa Đéc)
Lai Vung bãi bến lại mua nem
Ăn thử, ăn đi để thấy thèm
Mai mốt đi ngang mua ít nữa
Về làm quà biếu vài xâu nem.
Đồ Ngông,
19/08/10.
*Qua Bắc Vàm Cống. (Sa Đéc)
Lại xuống xe đi, lại tới phà
Phà đi, phà lại cứ sang qua
Tới lui, lui tới đưa qua bến
Qua bến đi sang cũng lại phà!
Đồ Ngông,
19/08/10.
*Về Châu Đốc.
Qua Long Xuyên, tới về Châu Đốc
Mua mắm, mua khô hàng cá lóc
Mua vải, mua hàng lụa mạt-nưa
Mua đi... để nhớ về Châu Đốc.
Đồ Ngông,
19/08/10.
*Nhà Bè. (Châu Đốc)
Đi vào cái xóm nhà bè
Trên sông lại sống bon chen lục bình
Cuộc đời cứ thế mưu sinh
Trên nhà dưới cá mà ưa thanh nhàn.
Đồ Ngông,
19/08/10.
*Làng Châu Giang. (Châu Đốc)
Đi qua làng xóm nhà bè
Bước lên lại đến làng nghề Châu Giang
Gia đình của những người Chăm
Có đền Hồi Giáo, có khăn đội đầu!
Đồ Ngông,
22/08/10.
Lai Vung bãi bến lại mua nem
Ăn thử, ăn đi để thấy thèm
Mai mốt đi ngang mua ít nữa
Về làm quà biếu vài xâu nem.
Đồ Ngông,
19/08/10.
*Qua Bắc Vàm Cống. (Sa Đéc)
Lại xuống xe đi, lại tới phà
Phà đi, phà lại cứ sang qua
Tới lui, lui tới đưa qua bến
Qua bến đi sang cũng lại phà!
Đồ Ngông,
19/08/10.
*Về Châu Đốc.
Qua Long Xuyên, tới về Châu Đốc
Mua mắm, mua khô hàng cá lóc
Mua vải, mua hàng lụa mạt-nưa
Mua đi... để nhớ về Châu Đốc.
Đồ Ngông,
19/08/10.
*Nhà Bè. (Châu Đốc)
Đi vào cái xóm nhà bè
Trên sông lại sống bon chen lục bình
Cuộc đời cứ thế mưu sinh
Trên nhà dưới cá mà ưa thanh nhàn.
Đồ Ngông,
19/08/10.
*Làng Châu Giang. (Châu Đốc)
Đi qua làng xóm nhà bè
Bước lên lại đến làng nghề Châu Giang
Gia đình của những người Chăm
Có đền Hồi Giáo, có khăn đội đầu!
Đồ Ngông,
22/08/10.
Saturday, November 5, 2011
Thơ đó thơ đây (tt)
*Cù Lao Thới Sơn. (Tiền Giang)
Cù lao cây trái của ngày xưa
Du khách tham quan là kẹo dừa
Thưởng thức dăm ba cây trái ngọt
Lắng nghe “Tài tử” thắm duyên đưa!
Len lỏi trên ghe phả mái chèo
Xuồng đi trong lạch, khách trông theo
Hai hàng dừa nước chào đưa tiễn
Ấn tượng miền quê, quên nẻo về!
Đồ Ngông,
19/08/10.
*Chiếc Cầu. (Tiền giang)
Đã lâu, lâu đã lắm rồi!
Đứng bên nây đợi, đợi người bên kia
Không gian cách trở hai bờ
Cùng nhau cứ đợi, cứ chờ với nhau
Bây giờ liền bắt nhịp cầu
Buồn vui ta tới, cùng nhau tâm tình!
Đồ Ngông,
19/08/10.
*Muốn Về! (Tiền Giang)
Bây giờ có muốn đi về
Trúc Giang bên đó mà thăm xứ dừa
Xứ dừa ngày ấy nhiều tre
Bán đầy bãi “Bến”, mua “Tre” dập dìu
Lại thêm có những ông già
Đã mù mà lại nói về “Vân Tiên”
Lại thêm có một vùng miền
Già gân cứng cựa Ba Tri rất “chì”
Thật là già chẳng mấy khi!
Đồ Ngông,
19/08/10.
*Đạo Phật 28: Tại Sao Trong Đạo Phật Đề Cập Đến "Vô Ngã"?
Trong giáo lý Đạo Phật có những vấn đề mà chúng ta thường hay thắc mắc, và đôi khi chúng làm cho chúng ta khó hiểu như là “Vô Ngã”, “Tính Không” chẳng hạn! Do vậy, mà sự nghiên cứu của chúng ta xoay quanh những vấn đề ấy hãy còn khá nhiều!
Vấn đề “Vô Ngã” là vấn đề trọng tâm, xuyên suốt trong hành trình tu tập của người hành giả và cũng là quan điểm căn bản của Đạo Phật; và Vô ngã cũng là điều giúp cho hành giả tiến đến giác ngộ mà không bị các ma chướng dẫn dắt đi vào ma đạo. Đức Phật đề cập đến Vô Ngã không phải do nơi Đức Phật muốn chế ra; mà gần như những gì khi Đức Phật chứng ngộ được đều là những quy luật tự nhiên và muốn thoát được vòng kiềm tỏa “Luân hồi” mình cũng phải đi theo một tiến trình nhất định như vậy. Đức Phật Thích Ca cũng như các vị Phật khác trong thời quá khứ, hiện tại hay vị lai cũng phải trải qua con đường như thế để tiến đến quả vị Phật.
Khi Đức Phật nói đến Tứ Diệu Đế thì Tứ Diệu Đế đó cũng là những chân lý tự nó đã hiện hữu trong quá trình nhận chân cuộc sống và giải thoát; Thập Nhị Nhân Duyên, Nghiệp, Luân Hồi… cũng đều như thế cả. Nhưng những điều ấy chỉ có những bậc Bồ Tát, Phật nhận biết đầy đủ mà thôi! Chính vì thế mà Đức Phật Thích Ca phải lặn lội truyền giảng hơn 45 năm trời ròng rã. Điều quan trọng nhất mà Đức Phật muốn nhấn mạnh đến là “hạt nhân giống” (chủng tử) để con người, chúng sinh có thể giác ngộ được là “Phật Tánh” ở trong mỗi con người hay chúng sinh đó. Trong mỗi chúng sinh đều có Phật tánh, nếu mỗi người, mỗi chúng sinh biết cách lau chùi, gột rửa thì Phật tánh ấy được phát triển, sáng chói lên như thuở ban đầu của nó. Khi hạt ngọc Phật tánh được sáng thì lúc đó chúng sinh sẽ có được những điều hiểu, biết về con người, vũ trụ như Phật. Đức Phật Thích Ca và Đạo Phật cung ứng cho thế nhân cách lau chùi, gột rửa ấy!
Giáo pháp của Đạo Phật như nhận định của Đức Phật Thích Ca ngay từ ban đầu là một giáo pháp khó hiểu, cao sâu mà không nhiều người có thể hiểu được một cách dễ dàng. Vì rằng giáo pháp ấy nói đến những điều cao xa, khiến con người, chúng sinh chưa thể suy nghĩ tới nếu không có một trình độ hay suy tư nhất định. Đức Phật khi hành đạo đã phải dẫn giải từ dễ cho đến khó đồng thời dẫn chứng bằng những ví dụ cụ thể cũng nhằm giúp môn đồ, người nghe có thể thâm nhập vào trong giáo pháp để tiến đến hành trì mong một sự giải thoát và thoát khỏi được cảnh sinh tử, luân hồi.
Chúng tôi qua những thời gian có duyên để tìm hiểu vào Đạo Phật thì chúng tôi cũng nhận thức được một chút nào đó của vấn đề. Nay nhân cơ hội ghi lại để gọi là đóng góp vài ý kiến, để hầu chúng ta tìm được “chơn nghĩa” của Như lai đã thuyết.
Quay trở lại, khi Đức Phật thuyết: Chúng sinh vì Vô minh mà từ cõi Chơn Tâm đã nãy sinh ra có “vọng tâm” (vọng tưởng thế giới bên ngoài Chơn Tâm là đẹp, là tốt), và “Tâm phân biệt” (phân biệt ta, người, cùng các chúng sinh khác) mà rời cõi Chơn Tâm (sự bùng nỗ “khởi động” đó giống như hiện tượng Big Bang) để tâm chúng sinh mượn đến tứ đại (đất, lửa, gió, nước) làm thành thân xác; rồi lại mượn đến thức đại (thấy, nghe, hay, biết) để làm các thức; và cũng mượn đến hư không để thân xác được tăng trưởng, lớn lên. Từ đó, cái Tâm của từng chúng sinh bị giới hạn bởi thân xác, các giác quan; các thức cùng với sự tăng trưởng cũng chỉ giới hạn trong thân xác đó mà thôi! Nhưng, vì do thân xác ấy bao phủ, gói gọn viên ngọc “Tâm vọng tưởng, phân biệt” để Tâm hoàn toàn bị mất đi sự sáng chói, nhận biết Chân lý của vũ trụ mà sau này Đức Phật gọi là “Tri kiến Phật”, và viên ngọc “Tâm” ấy chính là “Phật tính” mà Đức Phật đã nhắc đến trong Kinh Pháp Hoa.
Khi chúng sinh đã có thân xác (thân giả tạm được kết hợp từ các đại tức thân này không thật của ta [vô ngã]); và khi có sự sống riêng tư thì nhu cầu nuôi thân xác để được sinh tồn, khỏe mạnh, hay nhu cầu sinh lý cũng như tâm lý đòi hỏi khiến chúng sinh phải đáp ứng, mưu cầu. Thế cho nên cuộc sống theo “bản năng sinh tồn” đã biến thế gian thành một “trường tranh đấu” chém giết, hãm hại, lường gạt, hơn thua, chiếm đoạt lẫn nhau. Cũng từ đó “cái ta và cái của ta” đã trở nên là trọng tâm cuộc sống. Cái gì đem đến sự sung sướng, ăn ngon mặc đẹp thì ta thích, có lợi thì ta giành, ta chiếm đoạt; có ít thì muốn nhiều… là đầu mối cho ba độc “tham, sân, si” phát triển. Tham mà bị cản trở, hay chiếm không được thì nỗi sân, nỗi sân quá thì trở nên si mê mà gây nên tội lỗi qua các hình thức “sát, đạo, dâm, vọng” và tạo nên nhân để sau này phải trả quả. Có sinh ra tất có biến đổi và mất đi: Vật chất có thành, trụ, hoại, không; Hiện tượng có sinh, trụ, dị, diệt; Con người, chúng sinh có sinh, lão, bệnh, tử. Tất cả đều biến đổi không thường còn [vô thường]. Chúng sinh, con người còn chịu nhiều đau khổ từ thân xác cho đến sự giành giựt trong cuộc mưu sinh, tạo thêm khổ cho cuộc đời vốn đã nhiều khổ!
Từ nơi đó: Sau khi Đức Phật thành Đạo, Ngài mới khám phá ra con đường Đạo. Do khổ thì phải làm sao cho dứt khổ qua sự phân tích của Ngài về Tứ Diệu Đế. Nhận định được như vậy, Ngài thấy chúng sinh phải “quay đầu trở lại” (Hồi đầu thị ngạn) chấm dứt “gây nhân ác”, tu hành hay sửa đổi, hoàn thiện cho mình bằng “giới luật” (ngưng hay giới hạn “sát, đạo, dâm, vọng”); cố gắng diệt hay từ bỏ “tham, sân, si”; Và để củng cố, làm mạnh mẽ cho tinh thần đó của người tu, hay những người đang trên đường sửa đổi hoàn thiện cần ý thức được rằng: “Thân này đã vốn không là của Ta (vô ngã); tâm này chỉ là “vọng tâm” chứ không là tâm thật của ta (cũng tạm gọi là vô ngã); thì không lý do gì để ta luyến tiếc trần thế mà không đi tìm thân và tâm thật của ta. Thân và Tâm thật của chúng sinh, con người ở đâu?
Để minh chứng cho điều này chúng tôi xin dẫn chứng đoạn Kinh Lăng Nghiêm sau:
“Này A-nan, bởi vô minh vọng động nên biến hiện ra có hư không, thế giới và chúng sanh. Trong thân chúng sanh vì có vọng tưởng lẫn lộn, nên nó vọng động leo chuyền bên trong (như vượn, như ngựa). Khi các giác quan mở ra, thì nó rong ruỗi theo trần cảnh bên ngoài (như vượn sút xiềng, ngựa tong chuồng). Rồi các ông chấp cái tướng vọng tưởng lăng xăng bên trong đó, cho là tâm tánh của mình. Một phen chấp nó làm tâm, thì không sao khỏi mê lầm cho rằng “tâm ở trong thân”.
Chứ đâu biết rằng: Thân này, tâm này cho đến núi sông, thế giới và hư không đều là vật trong Chơn Tâm hiện ra cả”. (Kinh Lăng Nghiêm, Phật Học Phổ Thông khóa VI-VII, HT. Thích Thiện Hoa, trang 51)
Để đi tìm thân và tâm thật của ta, Đức Phật đã nêu rõ qua 6 bước Lục độ: Bố Thí, Trì Giới, Tinh Tấn, Nhẫn Nhục, Thiền Định, Trí Huệ. Và để hỗ trợ cho tiến trình đó được dễ dàng, Đức Phật đề cập đến 37 phẩm “trợ đạo” (chỉ là “Trợ đạo”) mà người tu hay thực hành cần tinh tấn để tiến bước (Tự đốt đuốc lên để đi).
Thông thường, đôi khi người ta còn tưởng Tịnh độ là một pháp môn riêng biệt khác với Thiền, để rồi giữa các pháp môn có sự bài bác, khen chê lẫn nhau. Chúng ta cứ thử nhắm mắt lại niệm mãi câu “Nam mô A-Di-Đà-Phật” đi; niệm cho đến chỗ Vô niệm thì sẽ thấy đó chỉ là một công án thiền không hơn không kém; hay ai đó cứ thử niệm Phật trong 7 ngày mà “nhất tâm bất loạn” sẽ hiểu ngay Tịnh độ hay là một hình thức như Thiền!
Cái nguy hiểm nhất của Thiền là gì? Đức Phật không né tránh đến thế giới ma quỷ vì trong luân hồi đã có Ngạ quỷ; và ngay trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật đã đề cập đến Thiên Ma Ba Tuần và Ngũ Ấm Ma
“Các ông chưa rõ trên đường tu hành, còn gặp nhiều cảnh ma rất là nguy hiểm. Nếu các ông không biết trước, sanh tâm tà kiến thì đọa vào ác đạo, cũng như người nhận lầm giặc làm con, thì bị hại chẳng ít. Vậy các ông phải chăm chú nghe, ta sẽ chín chắn chỉ dạy cho”. (PHPT VI-VII, Kinh Lăng Nghiêm, trang 269)
“Bởi các loài ma kia thấy người tu hành, sanh tâm lo sợ cho bà con quyến thuộc của chúng sẽ tiêu diệt, nên chúng dùng đủ thần lực đến nhiễu hại người tu. Chúng nó cũng đủ năm phép thần thông biến hóa chỉ chưa được lậu tận thông…..
Ma Đăng Già là thứ ma yếu hèn, nó chỉ làm cho ông phá một giới trong tám muôn giới mà thôi, nhờ tâm ông thanh tịnh nên chẳng bị trầm luân. Còn các chúng ma này rất là nguy hiểm, nó phá tan giới thân huệ mạng làm cho ông nhiều kiếp luân hồi. Chẳng khác nào như ông quan lớn bị cách chức, gia tài sự sản bị tịch thâu, trở thành một người dân trắng, không thể cầu cứu với ai được”. (PHPT VI-VII, Kinh Lăng Nghiêm, trang 270)
Người tu trên đường tu tập thường gặp những chướng ngại có thể do từ nhân quả ở kiếp nào đó; Tuy nhiên thường thì, qua đoạn kinh trên, cho thấy rằng ma sẵn sàng lôi cuốn, quấy phá người tu để người tu không thể thành đạt và trở lại vòng luân hồi chơi với chúng hay người tu phải trở thành tôi tớ của chúng. Cho nên, loại ma quan trọng nhất mà Đức Phật cảnh giác chúng ta chính là “ngũ ấm ma” vì các loại ma này lại từ trong thân tâm của chúng ta mà đến. Nếu chúng ta để ý hơn sẽ thấy trong khi chứng Thiền về một phần nào đó, chúng ta luôn thấy Đức Phật phân tích: “Tưởng rằng chúng ta thành Thánh, có khả năng nói pháp, tưởng chúng ta thành đạo…” tự thấy chúng ta cao quý, đáng được người khác nễ trọng hay chúng ta có cảm tưởng rằng “chúng ta là một vĩ nhân”, là do một Đấng Tạo hóa nào đó sai đến để làm sứ giả, là con, là “nhân vật” thay thế Đấng Tối Cao để hành đạo. Nếu “chấp” như vậy thì ta sẽ “trúng” vào kế của ma. Vì sao? Vì cái “ngã mạn” của ta đã nổi lớn lên rồi (Đại ngã mạn)! Ta hành động, thành lập tôn giáo theo sự “ngã mạn” ấy tức là ta đang hành động theo ý của ma. Những pháp hay đạo theo sau lại là khủng bố, là chém giết, là “muốn trở thành bá chủ võ lâm” tức là đạo ấy còn chủ trương gây nên “nhân, quả” thì đạo ấy không phải là đạo giải thoát. Đạo ấy chỉ là do ma hướng dẫn người tu hành bị “Tẩu hỏa nhập ma” mà thành, vì vị giáo chủ ấy đã là tôi tớ của ma! Cho nên, Đức Phật đã nhấn mạnh đến “Vô Ngã”, tự mình hãy dìm cái Ngã của mình xuống để thấy rằng: Ta cũng như Người; Ta, Người cũng như các Chúng sinh khác, không ai khác và không ai hơn ai kém thì chúng ta mới đạt đến Đạo. Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ muốn hòa hợp trong một thời gian nhất định nào đó, dù là bao nhiêu ngàn tỉ năm đi nữa thì nó vẫn chưa là Thọ Mạng Tướng vì khi tách rời ra thì vẫn là phá vỡ “khối chung”, và vẫn là có “Tâm Phân Biệt”. Cũng chính vì Tâm Phân Biệt ấy mà thuở đầu chúng sinh mới có “vọng tưởng” để rồi cùng nhau rời cõi Chơn Tâm (do Vô Minh) đi vào luân hồi sinh tử. Và đó cũng là điều mà Đức Phật đề cập đến nhiều trong Kinh Viên Giác cũng như Kinh Kim Cang: “Ngã Tướng, Nhân Tướng, Chúng sinh Tướng và Thọ Mạng Tướng”!
Tu là sửa đổi, trả nghiệp, tháo gỡ những oan trái mà mình đã quấn quanh mình qua nhiều đời nhiều kiếp, hoàn thiện mình không dính vào luật nhân quả nữa. Khi tháo gỡ, lột hết thì lúc ấy ta sẽ được an nhiên tự tại nơi được gọi là Niết Bàn, Viên Giác, Đại Viên Cảnh Trí, Không Như Lai Tạng, Chơn Như, Bồ Đề, Pháp Tánh hay Yêm-Ma-La-Thức; và tự được “sáng suốt chiếu soi” theo “bản giác minh diệu” vậy!
Và khi đạt được đạo thì Đức Phật có thuyết như sau:
-Khi tâm hoàn toàn thanh tịnh rồi, thì cái trí quang sáng suốt hiện ra. Lúc bấy giờ chơn tâm ông vừa tịch tịnh lại vừa chiếu soi, bao trùm khắp cả mười phương hư không thế giới, lúc bấy giờ ông trở lại xem cảnh vật hiện tiền ở thế gian này, cũng như là việc trong chiêm bao. Khi ông được như thế rồi thì nàng Ma Đăng Già ở trong mộng kia làm gì bắt ông được! (LN, sách đã dẫn, trang 235).
-Bởi thế nên biết "Sanh tử và Niết Bàn" cũng đều như giấc mộng hôm qua, vì chúng sanh vốn đã thành Phật từ xưa đến giờ. (Viên Giác, Phật Học Phổ Thông khóa VIII, HT. Thích Thiện Hoa, trang 56).
Vì “mê” chúng sinh rời Chơn Tâm để vào chơi trong cõi Luân hồi sinh tử, và khi trở về lại với Chơn Tâm là nhờ nơi “giác ngộ”. Quả thật chúng sinh đã qua một giấc mộng thật là dài. Nhưng giai đoạn ấy Đức Phật lấy một ví dụ của Luyện kim để cho biết rằng: Chính thế mà chúng sinh sẽ không bao giờ còn mê muội nữa!
-Này Thiện nam! Thí như chất kim khoáng, sau khi được nấu lọc, bỏ hết quặng rồi, thì chỉ còn vàng y, chất vàng này không phải do nấu lọc mới sanh, vì nó có sẵn từ trước kia rồi; và khi đã thành vàng y, cũng không bao giờ trở lại thành quặng nữa, dầu trải qua bao nhiêu năm, nó cũng không hư hoại.
Tánh viên giác thanh tịnh của Như Lai cũng thế. (Viên Giác, sách đã dẫn, trang 70).
Như vậy, chúng ta thấy rằng con đường tu tập của chúng sinh để trở về với Giác Ngộ là con đường đi ngược lại thuở xa xưa. Nếu thuở xưa nào đó chúng ta vì có “vọng tưởng” và “tâm phân biệt” để rời cõi Chơn Tâm; thì nay ta phải trả hết những nghiệp báo, nhân quả đã gây ra từ khi mang thân xác hay không thân xác trong cõi Luân hồi, hoàn thiện lấy mình và nhất là chúng ta phải “dứt bỏ” Tâm phân biệt, tức không thấy cái “Ta” của mình “hơn” nữa hay ta khác với với mọi người (Vô Ngã) mà “Ta” cũng như bao nhiêu chúng sinh khác để hòa đồng, “viên dung” trở lại với mọi chúng sinh trong thời gian “vô hạn định” trong cõi gọi là Bồ Đề, Pháp tánh, Không Như lai Tạng, Chơn Như hay Bồ Đề...
Những điều đó giống như chúng ta khi rời nhà chẳng có gì cả, nhưng khi ra ngoài chúng ta càng ngày càng mặc thêm nhiều lớp quần áo, càng đi xa càng mang thêm nhiều hành lý, gây lắm ân oán. Khi mệt mỏi chúng ta quay trở về thì chúng ta phải dứt bỏ từng món, lột từng lớp áo, trả từng ân oán nợ nần để khi hết cả thì chúng ta cũng vừa về đến nhà. Khi đó chúng ta được sáng chói như khối vàng được luyện tinh ròng, có đầy đủ trí huệ và Tri Kiến Phật!
Nhưng Niết Bàn là gì? Ở đâu? Chúng ta sẽ tìm hiểu đến trong bài sau cùng với “Tính Không”.
Nguyên Thảo,
6/9/2011.
Vấn đề “Vô Ngã” là vấn đề trọng tâm, xuyên suốt trong hành trình tu tập của người hành giả và cũng là quan điểm căn bản của Đạo Phật; và Vô ngã cũng là điều giúp cho hành giả tiến đến giác ngộ mà không bị các ma chướng dẫn dắt đi vào ma đạo. Đức Phật đề cập đến Vô Ngã không phải do nơi Đức Phật muốn chế ra; mà gần như những gì khi Đức Phật chứng ngộ được đều là những quy luật tự nhiên và muốn thoát được vòng kiềm tỏa “Luân hồi” mình cũng phải đi theo một tiến trình nhất định như vậy. Đức Phật Thích Ca cũng như các vị Phật khác trong thời quá khứ, hiện tại hay vị lai cũng phải trải qua con đường như thế để tiến đến quả vị Phật.
Khi Đức Phật nói đến Tứ Diệu Đế thì Tứ Diệu Đế đó cũng là những chân lý tự nó đã hiện hữu trong quá trình nhận chân cuộc sống và giải thoát; Thập Nhị Nhân Duyên, Nghiệp, Luân Hồi… cũng đều như thế cả. Nhưng những điều ấy chỉ có những bậc Bồ Tát, Phật nhận biết đầy đủ mà thôi! Chính vì thế mà Đức Phật Thích Ca phải lặn lội truyền giảng hơn 45 năm trời ròng rã. Điều quan trọng nhất mà Đức Phật muốn nhấn mạnh đến là “hạt nhân giống” (chủng tử) để con người, chúng sinh có thể giác ngộ được là “Phật Tánh” ở trong mỗi con người hay chúng sinh đó. Trong mỗi chúng sinh đều có Phật tánh, nếu mỗi người, mỗi chúng sinh biết cách lau chùi, gột rửa thì Phật tánh ấy được phát triển, sáng chói lên như thuở ban đầu của nó. Khi hạt ngọc Phật tánh được sáng thì lúc đó chúng sinh sẽ có được những điều hiểu, biết về con người, vũ trụ như Phật. Đức Phật Thích Ca và Đạo Phật cung ứng cho thế nhân cách lau chùi, gột rửa ấy!
Giáo pháp của Đạo Phật như nhận định của Đức Phật Thích Ca ngay từ ban đầu là một giáo pháp khó hiểu, cao sâu mà không nhiều người có thể hiểu được một cách dễ dàng. Vì rằng giáo pháp ấy nói đến những điều cao xa, khiến con người, chúng sinh chưa thể suy nghĩ tới nếu không có một trình độ hay suy tư nhất định. Đức Phật khi hành đạo đã phải dẫn giải từ dễ cho đến khó đồng thời dẫn chứng bằng những ví dụ cụ thể cũng nhằm giúp môn đồ, người nghe có thể thâm nhập vào trong giáo pháp để tiến đến hành trì mong một sự giải thoát và thoát khỏi được cảnh sinh tử, luân hồi.
Chúng tôi qua những thời gian có duyên để tìm hiểu vào Đạo Phật thì chúng tôi cũng nhận thức được một chút nào đó của vấn đề. Nay nhân cơ hội ghi lại để gọi là đóng góp vài ý kiến, để hầu chúng ta tìm được “chơn nghĩa” của Như lai đã thuyết.
Quay trở lại, khi Đức Phật thuyết: Chúng sinh vì Vô minh mà từ cõi Chơn Tâm đã nãy sinh ra có “vọng tâm” (vọng tưởng thế giới bên ngoài Chơn Tâm là đẹp, là tốt), và “Tâm phân biệt” (phân biệt ta, người, cùng các chúng sinh khác) mà rời cõi Chơn Tâm (sự bùng nỗ “khởi động” đó giống như hiện tượng Big Bang) để tâm chúng sinh mượn đến tứ đại (đất, lửa, gió, nước) làm thành thân xác; rồi lại mượn đến thức đại (thấy, nghe, hay, biết) để làm các thức; và cũng mượn đến hư không để thân xác được tăng trưởng, lớn lên. Từ đó, cái Tâm của từng chúng sinh bị giới hạn bởi thân xác, các giác quan; các thức cùng với sự tăng trưởng cũng chỉ giới hạn trong thân xác đó mà thôi! Nhưng, vì do thân xác ấy bao phủ, gói gọn viên ngọc “Tâm vọng tưởng, phân biệt” để Tâm hoàn toàn bị mất đi sự sáng chói, nhận biết Chân lý của vũ trụ mà sau này Đức Phật gọi là “Tri kiến Phật”, và viên ngọc “Tâm” ấy chính là “Phật tính” mà Đức Phật đã nhắc đến trong Kinh Pháp Hoa.
Khi chúng sinh đã có thân xác (thân giả tạm được kết hợp từ các đại tức thân này không thật của ta [vô ngã]); và khi có sự sống riêng tư thì nhu cầu nuôi thân xác để được sinh tồn, khỏe mạnh, hay nhu cầu sinh lý cũng như tâm lý đòi hỏi khiến chúng sinh phải đáp ứng, mưu cầu. Thế cho nên cuộc sống theo “bản năng sinh tồn” đã biến thế gian thành một “trường tranh đấu” chém giết, hãm hại, lường gạt, hơn thua, chiếm đoạt lẫn nhau. Cũng từ đó “cái ta và cái của ta” đã trở nên là trọng tâm cuộc sống. Cái gì đem đến sự sung sướng, ăn ngon mặc đẹp thì ta thích, có lợi thì ta giành, ta chiếm đoạt; có ít thì muốn nhiều… là đầu mối cho ba độc “tham, sân, si” phát triển. Tham mà bị cản trở, hay chiếm không được thì nỗi sân, nỗi sân quá thì trở nên si mê mà gây nên tội lỗi qua các hình thức “sát, đạo, dâm, vọng” và tạo nên nhân để sau này phải trả quả. Có sinh ra tất có biến đổi và mất đi: Vật chất có thành, trụ, hoại, không; Hiện tượng có sinh, trụ, dị, diệt; Con người, chúng sinh có sinh, lão, bệnh, tử. Tất cả đều biến đổi không thường còn [vô thường]. Chúng sinh, con người còn chịu nhiều đau khổ từ thân xác cho đến sự giành giựt trong cuộc mưu sinh, tạo thêm khổ cho cuộc đời vốn đã nhiều khổ!
Từ nơi đó: Sau khi Đức Phật thành Đạo, Ngài mới khám phá ra con đường Đạo. Do khổ thì phải làm sao cho dứt khổ qua sự phân tích của Ngài về Tứ Diệu Đế. Nhận định được như vậy, Ngài thấy chúng sinh phải “quay đầu trở lại” (Hồi đầu thị ngạn) chấm dứt “gây nhân ác”, tu hành hay sửa đổi, hoàn thiện cho mình bằng “giới luật” (ngưng hay giới hạn “sát, đạo, dâm, vọng”); cố gắng diệt hay từ bỏ “tham, sân, si”; Và để củng cố, làm mạnh mẽ cho tinh thần đó của người tu, hay những người đang trên đường sửa đổi hoàn thiện cần ý thức được rằng: “Thân này đã vốn không là của Ta (vô ngã); tâm này chỉ là “vọng tâm” chứ không là tâm thật của ta (cũng tạm gọi là vô ngã); thì không lý do gì để ta luyến tiếc trần thế mà không đi tìm thân và tâm thật của ta. Thân và Tâm thật của chúng sinh, con người ở đâu?
Để minh chứng cho điều này chúng tôi xin dẫn chứng đoạn Kinh Lăng Nghiêm sau:
“Này A-nan, bởi vô minh vọng động nên biến hiện ra có hư không, thế giới và chúng sanh. Trong thân chúng sanh vì có vọng tưởng lẫn lộn, nên nó vọng động leo chuyền bên trong (như vượn, như ngựa). Khi các giác quan mở ra, thì nó rong ruỗi theo trần cảnh bên ngoài (như vượn sút xiềng, ngựa tong chuồng). Rồi các ông chấp cái tướng vọng tưởng lăng xăng bên trong đó, cho là tâm tánh của mình. Một phen chấp nó làm tâm, thì không sao khỏi mê lầm cho rằng “tâm ở trong thân”.
Chứ đâu biết rằng: Thân này, tâm này cho đến núi sông, thế giới và hư không đều là vật trong Chơn Tâm hiện ra cả”. (Kinh Lăng Nghiêm, Phật Học Phổ Thông khóa VI-VII, HT. Thích Thiện Hoa, trang 51)
Để đi tìm thân và tâm thật của ta, Đức Phật đã nêu rõ qua 6 bước Lục độ: Bố Thí, Trì Giới, Tinh Tấn, Nhẫn Nhục, Thiền Định, Trí Huệ. Và để hỗ trợ cho tiến trình đó được dễ dàng, Đức Phật đề cập đến 37 phẩm “trợ đạo” (chỉ là “Trợ đạo”) mà người tu hay thực hành cần tinh tấn để tiến bước (Tự đốt đuốc lên để đi).
Thông thường, đôi khi người ta còn tưởng Tịnh độ là một pháp môn riêng biệt khác với Thiền, để rồi giữa các pháp môn có sự bài bác, khen chê lẫn nhau. Chúng ta cứ thử nhắm mắt lại niệm mãi câu “Nam mô A-Di-Đà-Phật” đi; niệm cho đến chỗ Vô niệm thì sẽ thấy đó chỉ là một công án thiền không hơn không kém; hay ai đó cứ thử niệm Phật trong 7 ngày mà “nhất tâm bất loạn” sẽ hiểu ngay Tịnh độ hay là một hình thức như Thiền!
Cái nguy hiểm nhất của Thiền là gì? Đức Phật không né tránh đến thế giới ma quỷ vì trong luân hồi đã có Ngạ quỷ; và ngay trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật đã đề cập đến Thiên Ma Ba Tuần và Ngũ Ấm Ma
“Các ông chưa rõ trên đường tu hành, còn gặp nhiều cảnh ma rất là nguy hiểm. Nếu các ông không biết trước, sanh tâm tà kiến thì đọa vào ác đạo, cũng như người nhận lầm giặc làm con, thì bị hại chẳng ít. Vậy các ông phải chăm chú nghe, ta sẽ chín chắn chỉ dạy cho”. (PHPT VI-VII, Kinh Lăng Nghiêm, trang 269)
“Bởi các loài ma kia thấy người tu hành, sanh tâm lo sợ cho bà con quyến thuộc của chúng sẽ tiêu diệt, nên chúng dùng đủ thần lực đến nhiễu hại người tu. Chúng nó cũng đủ năm phép thần thông biến hóa chỉ chưa được lậu tận thông…..
Ma Đăng Già là thứ ma yếu hèn, nó chỉ làm cho ông phá một giới trong tám muôn giới mà thôi, nhờ tâm ông thanh tịnh nên chẳng bị trầm luân. Còn các chúng ma này rất là nguy hiểm, nó phá tan giới thân huệ mạng làm cho ông nhiều kiếp luân hồi. Chẳng khác nào như ông quan lớn bị cách chức, gia tài sự sản bị tịch thâu, trở thành một người dân trắng, không thể cầu cứu với ai được”. (PHPT VI-VII, Kinh Lăng Nghiêm, trang 270)
Người tu trên đường tu tập thường gặp những chướng ngại có thể do từ nhân quả ở kiếp nào đó; Tuy nhiên thường thì, qua đoạn kinh trên, cho thấy rằng ma sẵn sàng lôi cuốn, quấy phá người tu để người tu không thể thành đạt và trở lại vòng luân hồi chơi với chúng hay người tu phải trở thành tôi tớ của chúng. Cho nên, loại ma quan trọng nhất mà Đức Phật cảnh giác chúng ta chính là “ngũ ấm ma” vì các loại ma này lại từ trong thân tâm của chúng ta mà đến. Nếu chúng ta để ý hơn sẽ thấy trong khi chứng Thiền về một phần nào đó, chúng ta luôn thấy Đức Phật phân tích: “Tưởng rằng chúng ta thành Thánh, có khả năng nói pháp, tưởng chúng ta thành đạo…” tự thấy chúng ta cao quý, đáng được người khác nễ trọng hay chúng ta có cảm tưởng rằng “chúng ta là một vĩ nhân”, là do một Đấng Tạo hóa nào đó sai đến để làm sứ giả, là con, là “nhân vật” thay thế Đấng Tối Cao để hành đạo. Nếu “chấp” như vậy thì ta sẽ “trúng” vào kế của ma. Vì sao? Vì cái “ngã mạn” của ta đã nổi lớn lên rồi (Đại ngã mạn)! Ta hành động, thành lập tôn giáo theo sự “ngã mạn” ấy tức là ta đang hành động theo ý của ma. Những pháp hay đạo theo sau lại là khủng bố, là chém giết, là “muốn trở thành bá chủ võ lâm” tức là đạo ấy còn chủ trương gây nên “nhân, quả” thì đạo ấy không phải là đạo giải thoát. Đạo ấy chỉ là do ma hướng dẫn người tu hành bị “Tẩu hỏa nhập ma” mà thành, vì vị giáo chủ ấy đã là tôi tớ của ma! Cho nên, Đức Phật đã nhấn mạnh đến “Vô Ngã”, tự mình hãy dìm cái Ngã của mình xuống để thấy rằng: Ta cũng như Người; Ta, Người cũng như các Chúng sinh khác, không ai khác và không ai hơn ai kém thì chúng ta mới đạt đến Đạo. Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ muốn hòa hợp trong một thời gian nhất định nào đó, dù là bao nhiêu ngàn tỉ năm đi nữa thì nó vẫn chưa là Thọ Mạng Tướng vì khi tách rời ra thì vẫn là phá vỡ “khối chung”, và vẫn là có “Tâm Phân Biệt”. Cũng chính vì Tâm Phân Biệt ấy mà thuở đầu chúng sinh mới có “vọng tưởng” để rồi cùng nhau rời cõi Chơn Tâm (do Vô Minh) đi vào luân hồi sinh tử. Và đó cũng là điều mà Đức Phật đề cập đến nhiều trong Kinh Viên Giác cũng như Kinh Kim Cang: “Ngã Tướng, Nhân Tướng, Chúng sinh Tướng và Thọ Mạng Tướng”!
Tu là sửa đổi, trả nghiệp, tháo gỡ những oan trái mà mình đã quấn quanh mình qua nhiều đời nhiều kiếp, hoàn thiện mình không dính vào luật nhân quả nữa. Khi tháo gỡ, lột hết thì lúc ấy ta sẽ được an nhiên tự tại nơi được gọi là Niết Bàn, Viên Giác, Đại Viên Cảnh Trí, Không Như Lai Tạng, Chơn Như, Bồ Đề, Pháp Tánh hay Yêm-Ma-La-Thức; và tự được “sáng suốt chiếu soi” theo “bản giác minh diệu” vậy!
Và khi đạt được đạo thì Đức Phật có thuyết như sau:
-Khi tâm hoàn toàn thanh tịnh rồi, thì cái trí quang sáng suốt hiện ra. Lúc bấy giờ chơn tâm ông vừa tịch tịnh lại vừa chiếu soi, bao trùm khắp cả mười phương hư không thế giới, lúc bấy giờ ông trở lại xem cảnh vật hiện tiền ở thế gian này, cũng như là việc trong chiêm bao. Khi ông được như thế rồi thì nàng Ma Đăng Già ở trong mộng kia làm gì bắt ông được! (LN, sách đã dẫn, trang 235).
-Bởi thế nên biết "Sanh tử và Niết Bàn" cũng đều như giấc mộng hôm qua, vì chúng sanh vốn đã thành Phật từ xưa đến giờ. (Viên Giác, Phật Học Phổ Thông khóa VIII, HT. Thích Thiện Hoa, trang 56).
Vì “mê” chúng sinh rời Chơn Tâm để vào chơi trong cõi Luân hồi sinh tử, và khi trở về lại với Chơn Tâm là nhờ nơi “giác ngộ”. Quả thật chúng sinh đã qua một giấc mộng thật là dài. Nhưng giai đoạn ấy Đức Phật lấy một ví dụ của Luyện kim để cho biết rằng: Chính thế mà chúng sinh sẽ không bao giờ còn mê muội nữa!
-Này Thiện nam! Thí như chất kim khoáng, sau khi được nấu lọc, bỏ hết quặng rồi, thì chỉ còn vàng y, chất vàng này không phải do nấu lọc mới sanh, vì nó có sẵn từ trước kia rồi; và khi đã thành vàng y, cũng không bao giờ trở lại thành quặng nữa, dầu trải qua bao nhiêu năm, nó cũng không hư hoại.
Tánh viên giác thanh tịnh của Như Lai cũng thế. (Viên Giác, sách đã dẫn, trang 70).
Như vậy, chúng ta thấy rằng con đường tu tập của chúng sinh để trở về với Giác Ngộ là con đường đi ngược lại thuở xa xưa. Nếu thuở xưa nào đó chúng ta vì có “vọng tưởng” và “tâm phân biệt” để rời cõi Chơn Tâm; thì nay ta phải trả hết những nghiệp báo, nhân quả đã gây ra từ khi mang thân xác hay không thân xác trong cõi Luân hồi, hoàn thiện lấy mình và nhất là chúng ta phải “dứt bỏ” Tâm phân biệt, tức không thấy cái “Ta” của mình “hơn” nữa hay ta khác với với mọi người (Vô Ngã) mà “Ta” cũng như bao nhiêu chúng sinh khác để hòa đồng, “viên dung” trở lại với mọi chúng sinh trong thời gian “vô hạn định” trong cõi gọi là Bồ Đề, Pháp tánh, Không Như lai Tạng, Chơn Như hay Bồ Đề...
Những điều đó giống như chúng ta khi rời nhà chẳng có gì cả, nhưng khi ra ngoài chúng ta càng ngày càng mặc thêm nhiều lớp quần áo, càng đi xa càng mang thêm nhiều hành lý, gây lắm ân oán. Khi mệt mỏi chúng ta quay trở về thì chúng ta phải dứt bỏ từng món, lột từng lớp áo, trả từng ân oán nợ nần để khi hết cả thì chúng ta cũng vừa về đến nhà. Khi đó chúng ta được sáng chói như khối vàng được luyện tinh ròng, có đầy đủ trí huệ và Tri Kiến Phật!
Nhưng Niết Bàn là gì? Ở đâu? Chúng ta sẽ tìm hiểu đến trong bài sau cùng với “Tính Không”.
Nguyên Thảo,
6/9/2011.
*Đạo Phật 27: Ý Nghĩa Cuộc Sống Hiểu Theo Đạo Phật.
Có khi nào chúng ta thắc mắc: Chúng ta đến thế giới này để chi? Và mục đích để làm gì? Nếu chúng ta nghĩ rằng chúng ta được tạo ra từ một Đấng nào đó vì sự nhân từ của Đấng ấy ư? Thì chúng ta cần nên xét lại! Một khi Đấng thiện lành đã tạo ra loài người, để rồi bắt con người làm theo ý mình; hành hạ con người trong những thiên tai do Đấng ấy tạo ra và con người phải bị nhận chìm trong những đau khổ khôn nguôi từ tinh thần cho đến thể xác, thì Đấng ấy là Đấng như thế nào? Có Thiện lành chăng? Tất chúng ta không thể chấp nhận về sự “nhân từ” của Đấng ấy! Ngày nay, những tư tưởng như vậy không thể thích hợp cho những suy luận và biện giải; và càng khiến cho người ta nghĩ là những câu chuyện đó “chỉ được đặt ra” để đánh lừa hoặc lừa đảo người khác! Còn Đạo Phật lý giải về sự hiện diện của con người trong thế gian như là một chúng sinh lênh đênh trong vòng luân hồi sinh tử do nghiệp báo của chính mình, nhưng con người trong cõi này lại mới là chúng sinh có nhiều cơ hội tu tập để thoát khỏi vòng sinh tử ấy, vì: Chỉ cõi Ta Bà này mới có Phật pháp mà thôi!
Nếu chúng ta nhìn một tu sĩ Phật giáo đi trên con đường dài hun hút với tấm áo vàng, một bình bát, đầu trần, chân đất thì đó là hình dáng của Đạo Phật trên con đường cứu độ, hoằng hóa chánh pháp đối với chúng sinh trong cõi Ta Bà này vậy! Đạo Phật không sợ chê bai, phỉ báng, xuyên tạc vì do tính Chân lý của nó. Ai chấp nhận cũng được, ai dửng dưng cũng được! Và Đạo Phật hiện diện trên cuộc đời chỉ nhằm giúp cho mọi chúng sinh: Đem lại sự nhận thức, hiểu biết về chính con người, cuộc sống mà các chúng sinh ấy đang hòa nhập vào, để từ đó nhận chân được sự thực của Chân lý, rồi tự chọn một con đường tốt cho mình, cho người; hoàn thiện chính mình để tránh được những hậu quả trong tương lai, tức là “dứt được nghiệp” để tiến đến giác ngộ, giải thoát ra ngoài vòng luân hồi sinh tử.
Ngoài việc cung ứng cho thế gian những nhận thức, Đạo Phật còn hướng dẫn những cách hành trì để đạt đến Chân lý tối thượng; Và cũng chỉ với Đạo Phật ta mới giải thích được nhiều hiện tượng khác biệt với từng cá nhân mà không một tôn giáo nào có khả năng để giải thích nỗi về những hiện tượng đó: Người có nhiều phước báu có hình tướng đẹp, thiên tư hơn là người kém phước báu; họ được hưởng cuộc sống sung sướng, giàu có hơn mặc dù được sinh và lớn lên trong cùng một gia đình. Gia đình, dòng họ kém phước báu sẽ gặp nhiều khó khăn, nghèo khổ hơn vì chung cộng nghiệp; và dù chung cộng nghiệp nhưng mỗi con người đều có những biệt nghiệp khác nhau nên từng cá nhân cũng khác nhau, giống như chuỗi di truyền DNA là cộng nghiệp và mỗi cá nhân vẫn có những đặc nét riêng tư. Còn rất nhiều vấn đề tinh tế hơn trong cuộc sống mà chúng ta không thể giải thích được nếu chúng ta không dùng đến giáo lý của nhà Phật.
Theo như Đạo Phật, con người hay chúng sinh trong cõi Ta-Bà này (cũng chỉ là một cõi trong sáu cõi của vòng Luân hồi nơi tam giới: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới) như tất cả chúng sinh khác đều phải xoay vần, nếu tự mình không đi theo con đường “Đạo” để vượt ra được! Mặc dù ở cõi này có nhiều đau khổ hơn là sướng vui, nhưng trong sáu cõi Luân hồi chỉ có cõi này mới có Phật pháp mà thôi. Vì trong Kinh “Đại Phương Tiện Phật Báo Ân” có ghi như sau:
“Vì Phật Thích Ca Như Lai đã từng ở trong vô lượng trăm nghìn vạn ức A tăng kỳ kiếp, làm những việc hạnh khổ khó làm, phát đại bi nguyện: “Khi tôi được thành Phật, sẽ ở nơi cõi nước tệ ác, núi đồi gò đống, sành sỏi gai góc, chúng sinh ở trong cõi đó, đủ mọi thứ phiền não, ngũ nghịch, thập ác, tôi sẽ tu hành thành Phật ở nơi đó, để làm những việc lợi ích, đoạn trừ tất cả khổ não cho chúng sinh, khiến cho chúng sinh được tất cả vui, thành tựu pháp thân, hết không còn sót”.
Phân tích theo “Y báo” và “Chánh báo” thì: Vì chúng sinh còn nhiều thứ phiền não, tâm tính còn nhiều điều không được thiện lành (ngũ nghịch, thập ác) nên địa hình của thế giới này trở nên gai góc, đồi núi nhấp nhô, cao thấp chênh lệch nhau, thời tiết biến đổi theo tâm tính của con người. Tuy nhiên, vì hạnh nguyện của Đức Phật Thích Ca nên thế giới này lại có được Phật pháp để chúng sinh trong cõi này tiến tu theo con đường hướng dẫn của Ngài. Do đó, mặc dù làm người ở cõi không được nhiều phước báu như cõi trời, nhưng chúng ta lại được tiếp cận với Phật pháp; mà chúng sinh của cõi trời nếu muốn thành Phật cũng phải tái sinh về cõi này. Đó là điều may mắn mà loài người trên trái đất này đã có được! Như vậy, tại sao chúng ta không quý được thân xác của mình? Có những người vì lý do nào đó: Từ buồn chán, đau khổ cho đến không toại nguyện hay nông nỗi để hủy hoại thân xác, mạng sống; và khiến thần thức họ mãi mang nỗi hận, buồn lòng ấy mà không chịu đi “tái sinh”, và trở thành những con ma hay quỷ không biết đến khi nào họ thoát được kiếp oan hồn ấy. Chính họ đã tự giam cầm họ trong “trạng thái chơi vơi của thân trung ấm” cũng bởi vì vô minh! Nếu họ ý thức được rằng: Thân thể này quý báu vô ngần, nó giống như một chiếc bè mà ta có thể nương chiếc bè ấy để sang sông, và chúng ta cũng cần đến chiếc bè ấy để sang sông, thì sự việc đã khác đi nhiều! Với hạnh nguyện của Đức Phật Thích Ca đã biến cõi người chúng ta từ không phải là nơi đầy phước báu đã trở thành phước báu và quan trọng: Vì làm thân người ở cõi Ta Bà này là khó được “Nhân thân nan đắc” (vì phải trải qua không biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp mới có được thân người ở cõi này), và cõi nhiều đau khổ này bây giờ lại là nơi có “cánh cửa duy nhất” để mình có thể thoát ra khỏi vòng Luân hồi, sinh tử bằng sự tu tập của mình. Điều ấy, khiến chúng ta cần có nhiều suy nghiệm!
Đức Phật từ một con người vương giả nơi hoàng cung với đầy đủ sung sướng về vật chất, có thể về cả về tinh thần (ngoại trừ ưu tư về cuộc sống, tìm đạo); nhưng Ngài đã từ bỏ tất cả để trở thành tu sĩ. Chỉ sau một đêm, một hoàn cảnh sống hoàn toàn khác biệt chỉ vì Ngài muốn tìm đến Đạo để đáp ứng cho sự mong muốn chính mình. Nhưng sau khi giác ngộ, Ngài đã đem cái giáo pháp mà Ngài chứng ngộ được ấy truyền giảng lại cho nhân thế trong suốt hơn 45 năm ròng rã, mà không mong cầu điều gì ở người nhân thế dù đó là một chức danh hay quyền uy. Cuộc đời của Ngài đã nói lên một tinh thần “Vô vị lợi” tối đa, đúng với “Bố thí Ba-La-Mật” mà Ngài đã truyền thụ lại cho đời sau! Cũng trong cuộc đời này có những con người lâm vào tình huống cùng khổ, đau đớn, mất mọi thứ sau tai nạn hay biến cố gì đó… Nếu họ so sánh tình huống ấy với Đức Phật thì họ có nhiều an ủi; Vì: Họ phải chịu hoàn cảnh do tác nhân bên ngoài đưa đến; nhưng, Đức Phật có tất cả mà Ngài còn bỏ nữa chăng là, thì chúng ta vì tác nhân bên ngoài đưa đến cho nên chẳng có gì để lấy làm buồn! Và hơn nữa, nếu chúng ta hiểu được lý “nhân quả”, gieo nhân từ những kiếp xa xưa bây giờ gặt quả thì chúng ta sẽ có sự an tâm; Vả lại, chẳng có ai đem theo được cái gì sau khi chết! Kể ngay cả những Đấng được xem như là có quyền năng, phép tắc. Được trả quả! Thì chúng ta cũng đã giải quyết xong nợ nần vay mượn từ trong quá khứ, cất được bớt gánh nặng tại sao ta phải buồn? Sự sáng suốt trong tinh thần hiểu đạo khiến cho chúng ta cảm thấy thoải mái và an tâm. Ấy là sự an lạc của chính mình trong hiện tại, được an trú trong niềm vui đó rồi vậy!
Nếu chúng ta là những con người đang được hưởng nhiều phước báu từ “nhân quả” của những kiếp xa xưa như từ trong gia đình giàu có, hình tướng đẹp; hoặc nhờ những khả năng đặc biệt mà có cuộc sống sung sướng, tài chính dư dả mà chúng ta biết chia sẻ đối với những người thiếu thốn, cùng khổ thì trên xã hội chúng ta là những người đang làm việc từ thiện. Nhưng trên bình diện Phật pháp thì chúng ta là những người đang gieo căn lành để tự mình hoàn thiện chính mình và tiến về gần đích hơn trên con đường giác ngộ, tức là chúng ta đang thực hành phẩm hạnh của một vị Bồ Tát!
Nhưng có điều quan trọng hơn nhiều: Nếu chúng ta là những chúng sinh được tái sinh lại trong cuộc đời này để “đi đòi những món nợ” mà người khác đã vay ở những kiếp trước như: Chúng ta đang làm những việc quịt nợ, gây cho người khác đau khổ; làm phận con khiến cha mẹ phải nhức nhối, đau lòng; hoặc làm cho xã hội băng hoại cho bỏ ghét (vì hận thù trong những kiếp xa xưa); mà chúng ta biết chấm dứt ân oán, nợ nần ấy để sống cuộc đời lương thiện trở lại và biết bố thí, giúp đời, chia sẻ buồn vui với cuộc đời trong thực tại thì công đức ấy không thể tính được vì nợ cũ đã chẳng đòi mà lại còn bố thí “cho” nữa, ân đức ấy biết là bao!
Nếu chúng ta xuất hiện trong thế gian này như một người nghèo túng thì chúng ta cũng hãy còn khá hơn hoặc bằng Đức Phật khi Ngài đi tu, bỡi vì khi đi tu Ngài chỉ còn một tấm y để khoát lên mình cùng với một bình bát để đi xin ăn (khất thực) mỗi ngày, mỗi ngày chỉ ăn một bữa thôi! Khi đi xin ăn thì cũng hãy còn người mến người khinh. Ngài chẳng có cái gì khác hơn! Nhận định như vậy chúng ta sẽ bớt khổ hơn nhiều!
Nếu chúng ta cảm thấy mình khổ và cuộc đời này nhiều khổ, vận mệnh mình không may. Thì không phải một mình đã khổ, vì ngay cuộc sống này vốn đã khổ, ai cũng phải trải qua sự khổ mà Đức Phật đã dẫn giải qua “Tập đế”; nhưng nếu chúng ta ý thức được rằng mình chịu nhiều khổ hơn người khác vì những kiếp xa xưa chúng ta thiếu căn lành nên ngày nay phải chịu quả xấu là một lẽ đương nhiên, thì chúng ta cũng đỡ khổ hơn vì chúng ta đã biết được cái nguyên nhân. Hơn nữa, chúng ta khổ nhưng còn nhiều người lại khổ hơn chúng ta thì chúng ta cũng được an ủi phần nào.
Và nếu chúng ta có nhiều bệnh hoạn, hoàn cảnh khó khăn khiến ta có nhiều lo nghĩ, suy tư; những hoàn cảnh oan trái mãi trói buộc thì Đức Phật đã chỉ rõ cho chúng ta qua câu “Phiền não thị Bồ Đề”. Có phiền não, lo nghĩ, ưu tư phiền muộn, tâm tư chúng ta mới không để ý đến ngoại cảnh, mà chỉ hướng vào nội tâm thì các giác quan (lục căn) lúc đó không quan tâm, vướng mắc đến bên ngoài (lục trần). Lục căn không vướng mắc với lục trần: Đó là điều mà người tu thiền họ mong cầu, nhưng chưa hẳn họ đạt được dễ dàng. Nương vào đó chúng ta tiến đến với thiền thì thiền sẽ giúp ta giảm bớt được phiền não, căng thẳng thần kinh và nếu có duyên ta có thể ngộ chút nào đó của thiền cũng nên.
Thông thường, con người bình thường sung sướng thì chẳng có mấy ai nghĩ đến tu tập để giải thoát cả, mà người ta chỉ nghĩ đến “tu” khi chúng ta có hoàn cảnh bi đát, nhiều lo nghĩ tức là lâm vào những hoàn cảnh nghèo túng, bệnh hoạn, đau khổ, có nhiều phiền não… mà thôi! Vậy thì trong những hoàn cảnh đó chúng ta cứ trải nghiệm con đường tu tập thử xem sao? Chúng tôi là kẻ viết bài này cũng phải trải qua giai đoạn ấy, và cũng chính nhờ đó mà chúng tôi mới có “duyên” đi vào Đạo Phật; và có được cơ hội để viết lên một ít bài để chia sẻ kinh nghiệm cùng với Quý độc giả.
Nếu chúng ta suy luận xa hơn một chút thì không lẽ con người chúng ta sinh ra trong cõi đời này chỉ để phải làm để kiếm ăn, tạo cuộc sống rồi thụ hưởng trong những chìm đắm của dục lạc với một thân xác đầy bệnh hoạn, đau khổ trong cuộc đời để cuối cùng rồi chúng ta phải chết mà không có đem theo được một thứ gì kể cả thân xác của chúng ta. Vậy chúng ta hiện diện trên cuộc đời này để làm gì? Và có thân xác này để chi? Trong Đạo Phật thân xác này như chiếc bè, chúng ta nương chiếc bè để qua sông, và điều chúng ta cần nhớ và ý thức được rằng: Chỉ “chiếc bè” ở cõi Ta Bà mới có thể qua sông, vậy chúng ta nên làm gì với chiếc bè hiện có này? Muốn giải thoát thì chúng ta “tự thắp đuốc” lên để tiến về “bờ giác”. Đó là ý nghĩa của cuộc sống và thân xác này!
Nói tóm lại, khi chúng ta hiểu được chút ít Phật pháp thì chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của cuộc sống trong đời này là những điều đáng yêu, đáng thông cảm, trân quý cũng như chúng ta sẽ được vui vẻ hơn trong sự giải thích những hiện tượng, sự kiện xảy đến; đồng thời chúng ta có thể sẽ “an trú” tâm mình trong những an lạc, niềm vui mà chúng ta không thể mua bằng vật chất mà được. Xin quý vị cứ nghiệm lại thử xem sao!
Nguyên Thảo,
23/08/2011.
Nếu chúng ta nhìn một tu sĩ Phật giáo đi trên con đường dài hun hút với tấm áo vàng, một bình bát, đầu trần, chân đất thì đó là hình dáng của Đạo Phật trên con đường cứu độ, hoằng hóa chánh pháp đối với chúng sinh trong cõi Ta Bà này vậy! Đạo Phật không sợ chê bai, phỉ báng, xuyên tạc vì do tính Chân lý của nó. Ai chấp nhận cũng được, ai dửng dưng cũng được! Và Đạo Phật hiện diện trên cuộc đời chỉ nhằm giúp cho mọi chúng sinh: Đem lại sự nhận thức, hiểu biết về chính con người, cuộc sống mà các chúng sinh ấy đang hòa nhập vào, để từ đó nhận chân được sự thực của Chân lý, rồi tự chọn một con đường tốt cho mình, cho người; hoàn thiện chính mình để tránh được những hậu quả trong tương lai, tức là “dứt được nghiệp” để tiến đến giác ngộ, giải thoát ra ngoài vòng luân hồi sinh tử.
Ngoài việc cung ứng cho thế gian những nhận thức, Đạo Phật còn hướng dẫn những cách hành trì để đạt đến Chân lý tối thượng; Và cũng chỉ với Đạo Phật ta mới giải thích được nhiều hiện tượng khác biệt với từng cá nhân mà không một tôn giáo nào có khả năng để giải thích nỗi về những hiện tượng đó: Người có nhiều phước báu có hình tướng đẹp, thiên tư hơn là người kém phước báu; họ được hưởng cuộc sống sung sướng, giàu có hơn mặc dù được sinh và lớn lên trong cùng một gia đình. Gia đình, dòng họ kém phước báu sẽ gặp nhiều khó khăn, nghèo khổ hơn vì chung cộng nghiệp; và dù chung cộng nghiệp nhưng mỗi con người đều có những biệt nghiệp khác nhau nên từng cá nhân cũng khác nhau, giống như chuỗi di truyền DNA là cộng nghiệp và mỗi cá nhân vẫn có những đặc nét riêng tư. Còn rất nhiều vấn đề tinh tế hơn trong cuộc sống mà chúng ta không thể giải thích được nếu chúng ta không dùng đến giáo lý của nhà Phật.
Theo như Đạo Phật, con người hay chúng sinh trong cõi Ta-Bà này (cũng chỉ là một cõi trong sáu cõi của vòng Luân hồi nơi tam giới: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới) như tất cả chúng sinh khác đều phải xoay vần, nếu tự mình không đi theo con đường “Đạo” để vượt ra được! Mặc dù ở cõi này có nhiều đau khổ hơn là sướng vui, nhưng trong sáu cõi Luân hồi chỉ có cõi này mới có Phật pháp mà thôi. Vì trong Kinh “Đại Phương Tiện Phật Báo Ân” có ghi như sau:
“Vì Phật Thích Ca Như Lai đã từng ở trong vô lượng trăm nghìn vạn ức A tăng kỳ kiếp, làm những việc hạnh khổ khó làm, phát đại bi nguyện: “Khi tôi được thành Phật, sẽ ở nơi cõi nước tệ ác, núi đồi gò đống, sành sỏi gai góc, chúng sinh ở trong cõi đó, đủ mọi thứ phiền não, ngũ nghịch, thập ác, tôi sẽ tu hành thành Phật ở nơi đó, để làm những việc lợi ích, đoạn trừ tất cả khổ não cho chúng sinh, khiến cho chúng sinh được tất cả vui, thành tựu pháp thân, hết không còn sót”.
Phân tích theo “Y báo” và “Chánh báo” thì: Vì chúng sinh còn nhiều thứ phiền não, tâm tính còn nhiều điều không được thiện lành (ngũ nghịch, thập ác) nên địa hình của thế giới này trở nên gai góc, đồi núi nhấp nhô, cao thấp chênh lệch nhau, thời tiết biến đổi theo tâm tính của con người. Tuy nhiên, vì hạnh nguyện của Đức Phật Thích Ca nên thế giới này lại có được Phật pháp để chúng sinh trong cõi này tiến tu theo con đường hướng dẫn của Ngài. Do đó, mặc dù làm người ở cõi không được nhiều phước báu như cõi trời, nhưng chúng ta lại được tiếp cận với Phật pháp; mà chúng sinh của cõi trời nếu muốn thành Phật cũng phải tái sinh về cõi này. Đó là điều may mắn mà loài người trên trái đất này đã có được! Như vậy, tại sao chúng ta không quý được thân xác của mình? Có những người vì lý do nào đó: Từ buồn chán, đau khổ cho đến không toại nguyện hay nông nỗi để hủy hoại thân xác, mạng sống; và khiến thần thức họ mãi mang nỗi hận, buồn lòng ấy mà không chịu đi “tái sinh”, và trở thành những con ma hay quỷ không biết đến khi nào họ thoát được kiếp oan hồn ấy. Chính họ đã tự giam cầm họ trong “trạng thái chơi vơi của thân trung ấm” cũng bởi vì vô minh! Nếu họ ý thức được rằng: Thân thể này quý báu vô ngần, nó giống như một chiếc bè mà ta có thể nương chiếc bè ấy để sang sông, và chúng ta cũng cần đến chiếc bè ấy để sang sông, thì sự việc đã khác đi nhiều! Với hạnh nguyện của Đức Phật Thích Ca đã biến cõi người chúng ta từ không phải là nơi đầy phước báu đã trở thành phước báu và quan trọng: Vì làm thân người ở cõi Ta Bà này là khó được “Nhân thân nan đắc” (vì phải trải qua không biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp mới có được thân người ở cõi này), và cõi nhiều đau khổ này bây giờ lại là nơi có “cánh cửa duy nhất” để mình có thể thoát ra khỏi vòng Luân hồi, sinh tử bằng sự tu tập của mình. Điều ấy, khiến chúng ta cần có nhiều suy nghiệm!
Đức Phật từ một con người vương giả nơi hoàng cung với đầy đủ sung sướng về vật chất, có thể về cả về tinh thần (ngoại trừ ưu tư về cuộc sống, tìm đạo); nhưng Ngài đã từ bỏ tất cả để trở thành tu sĩ. Chỉ sau một đêm, một hoàn cảnh sống hoàn toàn khác biệt chỉ vì Ngài muốn tìm đến Đạo để đáp ứng cho sự mong muốn chính mình. Nhưng sau khi giác ngộ, Ngài đã đem cái giáo pháp mà Ngài chứng ngộ được ấy truyền giảng lại cho nhân thế trong suốt hơn 45 năm ròng rã, mà không mong cầu điều gì ở người nhân thế dù đó là một chức danh hay quyền uy. Cuộc đời của Ngài đã nói lên một tinh thần “Vô vị lợi” tối đa, đúng với “Bố thí Ba-La-Mật” mà Ngài đã truyền thụ lại cho đời sau! Cũng trong cuộc đời này có những con người lâm vào tình huống cùng khổ, đau đớn, mất mọi thứ sau tai nạn hay biến cố gì đó… Nếu họ so sánh tình huống ấy với Đức Phật thì họ có nhiều an ủi; Vì: Họ phải chịu hoàn cảnh do tác nhân bên ngoài đưa đến; nhưng, Đức Phật có tất cả mà Ngài còn bỏ nữa chăng là, thì chúng ta vì tác nhân bên ngoài đưa đến cho nên chẳng có gì để lấy làm buồn! Và hơn nữa, nếu chúng ta hiểu được lý “nhân quả”, gieo nhân từ những kiếp xa xưa bây giờ gặt quả thì chúng ta sẽ có sự an tâm; Vả lại, chẳng có ai đem theo được cái gì sau khi chết! Kể ngay cả những Đấng được xem như là có quyền năng, phép tắc. Được trả quả! Thì chúng ta cũng đã giải quyết xong nợ nần vay mượn từ trong quá khứ, cất được bớt gánh nặng tại sao ta phải buồn? Sự sáng suốt trong tinh thần hiểu đạo khiến cho chúng ta cảm thấy thoải mái và an tâm. Ấy là sự an lạc của chính mình trong hiện tại, được an trú trong niềm vui đó rồi vậy!
Nếu chúng ta là những con người đang được hưởng nhiều phước báu từ “nhân quả” của những kiếp xa xưa như từ trong gia đình giàu có, hình tướng đẹp; hoặc nhờ những khả năng đặc biệt mà có cuộc sống sung sướng, tài chính dư dả mà chúng ta biết chia sẻ đối với những người thiếu thốn, cùng khổ thì trên xã hội chúng ta là những người đang làm việc từ thiện. Nhưng trên bình diện Phật pháp thì chúng ta là những người đang gieo căn lành để tự mình hoàn thiện chính mình và tiến về gần đích hơn trên con đường giác ngộ, tức là chúng ta đang thực hành phẩm hạnh của một vị Bồ Tát!
Nhưng có điều quan trọng hơn nhiều: Nếu chúng ta là những chúng sinh được tái sinh lại trong cuộc đời này để “đi đòi những món nợ” mà người khác đã vay ở những kiếp trước như: Chúng ta đang làm những việc quịt nợ, gây cho người khác đau khổ; làm phận con khiến cha mẹ phải nhức nhối, đau lòng; hoặc làm cho xã hội băng hoại cho bỏ ghét (vì hận thù trong những kiếp xa xưa); mà chúng ta biết chấm dứt ân oán, nợ nần ấy để sống cuộc đời lương thiện trở lại và biết bố thí, giúp đời, chia sẻ buồn vui với cuộc đời trong thực tại thì công đức ấy không thể tính được vì nợ cũ đã chẳng đòi mà lại còn bố thí “cho” nữa, ân đức ấy biết là bao!
Nếu chúng ta xuất hiện trong thế gian này như một người nghèo túng thì chúng ta cũng hãy còn khá hơn hoặc bằng Đức Phật khi Ngài đi tu, bỡi vì khi đi tu Ngài chỉ còn một tấm y để khoát lên mình cùng với một bình bát để đi xin ăn (khất thực) mỗi ngày, mỗi ngày chỉ ăn một bữa thôi! Khi đi xin ăn thì cũng hãy còn người mến người khinh. Ngài chẳng có cái gì khác hơn! Nhận định như vậy chúng ta sẽ bớt khổ hơn nhiều!
Nếu chúng ta cảm thấy mình khổ và cuộc đời này nhiều khổ, vận mệnh mình không may. Thì không phải một mình đã khổ, vì ngay cuộc sống này vốn đã khổ, ai cũng phải trải qua sự khổ mà Đức Phật đã dẫn giải qua “Tập đế”; nhưng nếu chúng ta ý thức được rằng mình chịu nhiều khổ hơn người khác vì những kiếp xa xưa chúng ta thiếu căn lành nên ngày nay phải chịu quả xấu là một lẽ đương nhiên, thì chúng ta cũng đỡ khổ hơn vì chúng ta đã biết được cái nguyên nhân. Hơn nữa, chúng ta khổ nhưng còn nhiều người lại khổ hơn chúng ta thì chúng ta cũng được an ủi phần nào.
Và nếu chúng ta có nhiều bệnh hoạn, hoàn cảnh khó khăn khiến ta có nhiều lo nghĩ, suy tư; những hoàn cảnh oan trái mãi trói buộc thì Đức Phật đã chỉ rõ cho chúng ta qua câu “Phiền não thị Bồ Đề”. Có phiền não, lo nghĩ, ưu tư phiền muộn, tâm tư chúng ta mới không để ý đến ngoại cảnh, mà chỉ hướng vào nội tâm thì các giác quan (lục căn) lúc đó không quan tâm, vướng mắc đến bên ngoài (lục trần). Lục căn không vướng mắc với lục trần: Đó là điều mà người tu thiền họ mong cầu, nhưng chưa hẳn họ đạt được dễ dàng. Nương vào đó chúng ta tiến đến với thiền thì thiền sẽ giúp ta giảm bớt được phiền não, căng thẳng thần kinh và nếu có duyên ta có thể ngộ chút nào đó của thiền cũng nên.
Thông thường, con người bình thường sung sướng thì chẳng có mấy ai nghĩ đến tu tập để giải thoát cả, mà người ta chỉ nghĩ đến “tu” khi chúng ta có hoàn cảnh bi đát, nhiều lo nghĩ tức là lâm vào những hoàn cảnh nghèo túng, bệnh hoạn, đau khổ, có nhiều phiền não… mà thôi! Vậy thì trong những hoàn cảnh đó chúng ta cứ trải nghiệm con đường tu tập thử xem sao? Chúng tôi là kẻ viết bài này cũng phải trải qua giai đoạn ấy, và cũng chính nhờ đó mà chúng tôi mới có “duyên” đi vào Đạo Phật; và có được cơ hội để viết lên một ít bài để chia sẻ kinh nghiệm cùng với Quý độc giả.
Nếu chúng ta suy luận xa hơn một chút thì không lẽ con người chúng ta sinh ra trong cõi đời này chỉ để phải làm để kiếm ăn, tạo cuộc sống rồi thụ hưởng trong những chìm đắm của dục lạc với một thân xác đầy bệnh hoạn, đau khổ trong cuộc đời để cuối cùng rồi chúng ta phải chết mà không có đem theo được một thứ gì kể cả thân xác của chúng ta. Vậy chúng ta hiện diện trên cuộc đời này để làm gì? Và có thân xác này để chi? Trong Đạo Phật thân xác này như chiếc bè, chúng ta nương chiếc bè để qua sông, và điều chúng ta cần nhớ và ý thức được rằng: Chỉ “chiếc bè” ở cõi Ta Bà mới có thể qua sông, vậy chúng ta nên làm gì với chiếc bè hiện có này? Muốn giải thoát thì chúng ta “tự thắp đuốc” lên để tiến về “bờ giác”. Đó là ý nghĩa của cuộc sống và thân xác này!
Nói tóm lại, khi chúng ta hiểu được chút ít Phật pháp thì chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của cuộc sống trong đời này là những điều đáng yêu, đáng thông cảm, trân quý cũng như chúng ta sẽ được vui vẻ hơn trong sự giải thích những hiện tượng, sự kiện xảy đến; đồng thời chúng ta có thể sẽ “an trú” tâm mình trong những an lạc, niềm vui mà chúng ta không thể mua bằng vật chất mà được. Xin quý vị cứ nghiệm lại thử xem sao!
Nguyên Thảo,
23/08/2011.
Wednesday, October 12, 2011
* Đạo Phật 26: Bàn Về Đức Tin Trong Đạo Phật.
Tặng: Mục sư Huệ Nhật
(Một cựu Tu sĩ Phật giáo thiếu Niềm tin)
Nói đến Đức Tin trong Đạo Phật thì chúng ta có thể khẳng định rằng: Đạo Phật là tôn giáo rất thoải mái trong Đức tin, bởi vì Đạo Phật từ xưa cho đến nay vẫn cho rằng: Người đến với Đạo Phật là tùy “Duyên”. Vì vậy, mà Đạo Phật trong quá trình phát triển của nó không có những sự o ép, hay có những ràng buộc nào về giáo lý cũng như về Tổ chức. Tuy nhiên, trong thời đại hiện tại, do từ những thế lực của “ma vương” lấn áp, cho nên Đạo Phật cũng cần có nhiều thay đổi để thích ứng với công việc truyền bá chánh pháp, và đem “duyên” đến cho mọi người để có thể lôi cuốn được người “mê lầm” trở về với con đường “giác ngộ”. Có thế, thì mới không phụ lòng Đức Phật hơn 45 năm ròng rã từ nơi này đến nơi khác để nói đến con đường tu tập, hành trì; đồng thời cũng là góp phần chuyển đổi thời “Mạt pháp” biến thành “Chánh pháp“. Đạo Phật ngày nay đã được nhiều nhà trí thức cũng như những nhà nghiên cứu trên thế gian kiểm nhận từ trong kiến thức, giáo lý có thể đáp ứng với các tiêu chuẩn về khoa học, tâm lý, thiện lành, và ngay cả trong đời sống con người. Giáo lý ấy không hoang tưởng, không làm cho con người trở thành mê muội để tin theo. Sự xiển dương, truyền bá rộng rãi đến cho từng chúng sinh ấy là một sự cần thiết nhằm giúp mỗi chúng sinh tự trang bị kiến thức và “tự đốt cho mình ngọn đuốc” để mình cùng đi với nhiều chúng sinh khác!
Do vì thiếu lòng tin hay do những sự cám dỗ về vật chất mà nhiều người đã “ngã ngựa” trước những cám dỗ của thế lực ma vương để rồi phải làm tôi tớ ma, mà quay lại trong vòng luân hồi không biết đến bao giờ mới có dịp thoát ra được. Chư Phật trong ba đời cũng chỉ nương theo con đường duy nhất ấy để thành Phật thì trong thế gian này chẳng có con đường thứ hai. Nhất là con đường thứ hai được tuyên xưng bằng cái “ngã” ngã mạn của người sáng lập ra đạo giáo đó. Chúng ta có thể nghiên cứu kỹ lại 50 món ma mà Đức Phật đã cảnh giác những người tu trong Kinh Lăng Nghiêm khi dụng tâm để phá trừ các ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) thì chúng ta sẽ rõ.
Nếu đã có con đường khác để thành Đạo thì Đức Phật đã đề cập đến trong nhiều Kinh điển rồi; chứ không phải nhọc công dẫn giải và cảnh giác người tu bằng 50 món ma. Do đó, để giảng rõ hơn Đức Phật còn đề cập rất nhiều đến tính chất “Vô Ngã” cũng như tai hại của Sát, Dạo, Dâm Vọng và nhất là Tâm phân biệt trong Sự phân biệt: Ngã, Nhân, Chúng sinh và Thọ giả tướng. Theo như chúng ta đã biết Đức Phật thuyết rằng: Chúng sinh rời cõi Chân Tâm cũng chỉ vì do “Vô Minh”. Vô Minh là gì? Trong Kinh Lăng Nghiêm Đức Phật cho biết rõ hơn là do sự si mê, không biết mà chúng sinh đã “có vọng tưởng” và “tâm phân biệt”. Chính hai điều đó đã khiến chúng sinh lăn lộn trong cõi luân hồi, đau khổ bằng thân xác vay mượn, giả tạm của mình. Muốn vượt thoát chúng sinh phải tu hành, hoàn thiện lấy mình để giải những nghiệp mà mình đã gieo từ nhiều đời, nhiều kiếp; và từ bỏ từng bước về vọng tưởng, tâm phân biệt ấy để trở lại thuở ban đầu được viên dung cùng với những chúng sinh khác trong cõi Pháp Giới chỉ có Phật không thôi (Bất Nhị).
Vì vậy, những tôn giáo nào chủ trương chém giết thì còn gây nhân quả tất không thể thoát khỏi cảnh Luân hồi; cũng như phân biệt Ta, Người, Chúng sinh, Thọ mạng tướng tất không thể hòa chung trong một thế giới; cho nên nó không phải là Cứu Cánh của Đạo và không thể nói đến Chân, Thiện, Mỹ được. Nếu có người cho rằng: Được! Chẳng qua là gượng gạo và ngụy biện đó thôi, chứ về Chân lý nó đã chẳng là Chân lý rồi!
Mọi tôn giáo đều hướng con người, chúng sinh về những cảnh giới sau khi chết. Điều ấy khiến người theo hay nghiên cứu phải tưởng tượng và “nghi vấn” về những cảnh giới đó. Có tôn giáo đặt nặng về vấn đề Thần quyền nhưng vị thần không thể đáp ứng được những yếu tố đáng tin cậy từ suy luận lẫn khoa học, tính thiện lành cho nên nó chỉ là một hình ảnh do người tưởng tượng tạo ra để mà tin tưởng, cầu nguyện, an ủi cho cuộc sống đầy đau khổ trong thế gian này. Trong thời gian khi xưa khi khoa học, kỹ thuật chưa tạo được những phương tiện lên không gian để tìm hiểu, thì người ta tưởng tượng các vị thần sống và bay trên những tầng mây với hình dáng đẹp hay đầy quyền năng, có khi xem như hồn và xác của vài người nào đó được hồn xác lên trời. Nhưng khi có các phương tiện như khinh khí cầu, máy bay, phi thuyền… Bao nhiêu năm các phương tiện ấy bay hàng ngày, đầy trời ấy chẳng thấy hồn xác nào trên bầu trời cả, thì người ta quanh co, ngụy biện cách lý giải khác để lừa đảo người khác lẫn tín đồ.
Đạo Phật không đi vào đường hướng hoang tưởng đó! Đức Phật đi từ thực tiễn đời sống của con người từ những căn nguyên gây nên tội lỗi, hay những hành động nào thiện lành để dẫn chứng theo lý “nhân quả”, và tùy theo “duyên sinh” mà diễn tiến hàng loạt sự kiện tiếp theo (trùng trùng duyên khởi). Đức Phật chỉ rõ những Chân Lý chắc thật, mấu chốt trong cuộc sống cũng là những Chân lý cho lý giải của mình làm nền tảng cho giáo lý mà Ngài truyền giảng. Cuộc sống của chúng sinh vốn là khổ; Ngài phân giải nguyên nhân của khổ rồi đề cập đến con đường diệt khổ và thoát khổ để đạt đến được cái gì và sự an vui hạnh phúc đó như thế nào.
Sự tuyệt vời của Đạo Phật là giải thích được mọi khía cạnh của cuộc sống con người bằng những sự giải thích mà chúng ta có thể hiểu, tiếp cận được qua những hiện tượng, sự kiện trong thực tế, hay qua môn Tâm lý học Phật giáo (hay được gọi là Duy Thức Học). Qua đó, nhiều nhà Tâm lý, Phân Tâm, Đạo đức học cũng không thể ngờ trong Đạo Phật đã chứa đựng những lĩnh vực phân tích mà họ nghiên cứu ấy từ hàng nghìn năm về trước; cũng như những nhà khoa học ngày nay phải tán dương Đạo Phật vì tính chất thích hợp với những khám phá khoa học mà họ đã khám phá ra được. Xa hơn nữa, Đức Phật đề cập đến những siêu hình, những thế giới khác mà hiện nay các nhà khoa học chưa có thể đạt đến (mặc dù người ngoài không gian được đánh dấu như là một thực tế có thể có). Nếu Đức Phật đã đề cập đến những thế giới khác trong vũ trụ bao la (pháp giới vô biên tế, vô số tam thiên đại thiên thế giới) với những hình dạng, màu sắc khác nhau thì ngày nay khoa học thấy trong vũ trụ có nhiều thiên hà, có những thiên hà có hình dáng, ánh sáng khác nhau. Trong mỗi thiên hà là vô số Thái dương hệ lập thành. Điều đó đánh đổ thuyết thần quyền sáng tạo không thích hợp với những khám phá của khoa học! Và càng ngày sự khám phá của khoa học càng cũng cố thêm những tri thức từ trong Kinh điển và khiến cho nhiều người càng tín nhiệm hơn về giáo lý của Đạo Phật, nhất là đối với những nhà khoa học trên thế giới!
Đức Phật và Phật giáo không hề dụ dỗ, o ép, hoặc dùng quyền lực đối với một ai để buộc người đó phải theo, hoặc làm tín đồ; mà Đức Phật cũng như Đạo Phật chỉ thuyết giảng để người, chúng sinh nhận thức được mình cũng có Phật tánh, có khả năng thành Bậc Giác Ngộ. Đạo Phật giúp họ nhận chân được sự Vô Thường, Khổ của cuộc đời để đi đến con đường thoát khổ bằng ý chí, sự hành trì của chính mình trong niềm tin trí huệ, kiểm nghiệm, không cuồng tín ngông nghênh hoang tưởng như ở vài nơi nào đó. Đức Phật đã giáo huấn người dân ở Kalama cũng như hàng đệ tử trong đoạn Kinh Kalamasutta như sau:
-- "Này các Kalama, chớ có tin vì nghe truyền thuyết, chớ có tin vì theo truyền thống, chớ có tin vì nghe người ta nói, chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng, chớ có tin vì nhân lý luận, chớ có tin vì nhân suy luận, chớ có tin sau khi suy tư về những dữ kiện, điều kiện, chớ có tin theo thiên kiến, định kiến, chớ có tin vì thấy thích hợp với khả năng, chớ có tin vì vị Sa môn là bậc Ðạo Sư của mình. Nhưng này Kalama, khi nào tự mình biết rõ như sau: 'Các pháp này là bất thiện, các pháp này là có tội, các pháp này bị người có trí chỉ trích, các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận, đưa đến bất hạnh khổ đau. Thời này Kalama, hãy từ bỏ chúng' ... Nhưng này Kalama, khi nào tự mình biết như sau: 'Các pháp này là thiện. Các pháp này là không có tội. Các pháp này, được người có trí tán thán. Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận, đưa đến hạnh phúc an lạc, thời này các Kalama, hãy chứng đạt và an trú'...".
Với đoạn Kinh này chứng minh về Đức tin trong Đạo Phật cũng như sự hành trì của hành giả được nhắc nhỡ, cân nhắc chính chắn trước khi họ tự nguyện chọn con đường để đi với một tinh thần sáng suốt, trí tuệ và có nhiều so sánh cũng như kiểm chứng rồi họ mới an trú vào. Đó là điểm thù thắng, cao cả nhất mà người tin vào Đạo Phật đã có được, hơn hẳn tất cả các pháp khác đang hiện có trong thế gian này!
Nguyên Thảo,
17/08/2011.
(Một cựu Tu sĩ Phật giáo thiếu Niềm tin)
Nói đến Đức Tin trong Đạo Phật thì chúng ta có thể khẳng định rằng: Đạo Phật là tôn giáo rất thoải mái trong Đức tin, bởi vì Đạo Phật từ xưa cho đến nay vẫn cho rằng: Người đến với Đạo Phật là tùy “Duyên”. Vì vậy, mà Đạo Phật trong quá trình phát triển của nó không có những sự o ép, hay có những ràng buộc nào về giáo lý cũng như về Tổ chức. Tuy nhiên, trong thời đại hiện tại, do từ những thế lực của “ma vương” lấn áp, cho nên Đạo Phật cũng cần có nhiều thay đổi để thích ứng với công việc truyền bá chánh pháp, và đem “duyên” đến cho mọi người để có thể lôi cuốn được người “mê lầm” trở về với con đường “giác ngộ”. Có thế, thì mới không phụ lòng Đức Phật hơn 45 năm ròng rã từ nơi này đến nơi khác để nói đến con đường tu tập, hành trì; đồng thời cũng là góp phần chuyển đổi thời “Mạt pháp” biến thành “Chánh pháp“. Đạo Phật ngày nay đã được nhiều nhà trí thức cũng như những nhà nghiên cứu trên thế gian kiểm nhận từ trong kiến thức, giáo lý có thể đáp ứng với các tiêu chuẩn về khoa học, tâm lý, thiện lành, và ngay cả trong đời sống con người. Giáo lý ấy không hoang tưởng, không làm cho con người trở thành mê muội để tin theo. Sự xiển dương, truyền bá rộng rãi đến cho từng chúng sinh ấy là một sự cần thiết nhằm giúp mỗi chúng sinh tự trang bị kiến thức và “tự đốt cho mình ngọn đuốc” để mình cùng đi với nhiều chúng sinh khác!
Do vì thiếu lòng tin hay do những sự cám dỗ về vật chất mà nhiều người đã “ngã ngựa” trước những cám dỗ của thế lực ma vương để rồi phải làm tôi tớ ma, mà quay lại trong vòng luân hồi không biết đến bao giờ mới có dịp thoát ra được. Chư Phật trong ba đời cũng chỉ nương theo con đường duy nhất ấy để thành Phật thì trong thế gian này chẳng có con đường thứ hai. Nhất là con đường thứ hai được tuyên xưng bằng cái “ngã” ngã mạn của người sáng lập ra đạo giáo đó. Chúng ta có thể nghiên cứu kỹ lại 50 món ma mà Đức Phật đã cảnh giác những người tu trong Kinh Lăng Nghiêm khi dụng tâm để phá trừ các ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) thì chúng ta sẽ rõ.
Nếu đã có con đường khác để thành Đạo thì Đức Phật đã đề cập đến trong nhiều Kinh điển rồi; chứ không phải nhọc công dẫn giải và cảnh giác người tu bằng 50 món ma. Do đó, để giảng rõ hơn Đức Phật còn đề cập rất nhiều đến tính chất “Vô Ngã” cũng như tai hại của Sát, Dạo, Dâm Vọng và nhất là Tâm phân biệt trong Sự phân biệt: Ngã, Nhân, Chúng sinh và Thọ giả tướng. Theo như chúng ta đã biết Đức Phật thuyết rằng: Chúng sinh rời cõi Chân Tâm cũng chỉ vì do “Vô Minh”. Vô Minh là gì? Trong Kinh Lăng Nghiêm Đức Phật cho biết rõ hơn là do sự si mê, không biết mà chúng sinh đã “có vọng tưởng” và “tâm phân biệt”. Chính hai điều đó đã khiến chúng sinh lăn lộn trong cõi luân hồi, đau khổ bằng thân xác vay mượn, giả tạm của mình. Muốn vượt thoát chúng sinh phải tu hành, hoàn thiện lấy mình để giải những nghiệp mà mình đã gieo từ nhiều đời, nhiều kiếp; và từ bỏ từng bước về vọng tưởng, tâm phân biệt ấy để trở lại thuở ban đầu được viên dung cùng với những chúng sinh khác trong cõi Pháp Giới chỉ có Phật không thôi (Bất Nhị).
Vì vậy, những tôn giáo nào chủ trương chém giết thì còn gây nhân quả tất không thể thoát khỏi cảnh Luân hồi; cũng như phân biệt Ta, Người, Chúng sinh, Thọ mạng tướng tất không thể hòa chung trong một thế giới; cho nên nó không phải là Cứu Cánh của Đạo và không thể nói đến Chân, Thiện, Mỹ được. Nếu có người cho rằng: Được! Chẳng qua là gượng gạo và ngụy biện đó thôi, chứ về Chân lý nó đã chẳng là Chân lý rồi!
Mọi tôn giáo đều hướng con người, chúng sinh về những cảnh giới sau khi chết. Điều ấy khiến người theo hay nghiên cứu phải tưởng tượng và “nghi vấn” về những cảnh giới đó. Có tôn giáo đặt nặng về vấn đề Thần quyền nhưng vị thần không thể đáp ứng được những yếu tố đáng tin cậy từ suy luận lẫn khoa học, tính thiện lành cho nên nó chỉ là một hình ảnh do người tưởng tượng tạo ra để mà tin tưởng, cầu nguyện, an ủi cho cuộc sống đầy đau khổ trong thế gian này. Trong thời gian khi xưa khi khoa học, kỹ thuật chưa tạo được những phương tiện lên không gian để tìm hiểu, thì người ta tưởng tượng các vị thần sống và bay trên những tầng mây với hình dáng đẹp hay đầy quyền năng, có khi xem như hồn và xác của vài người nào đó được hồn xác lên trời. Nhưng khi có các phương tiện như khinh khí cầu, máy bay, phi thuyền… Bao nhiêu năm các phương tiện ấy bay hàng ngày, đầy trời ấy chẳng thấy hồn xác nào trên bầu trời cả, thì người ta quanh co, ngụy biện cách lý giải khác để lừa đảo người khác lẫn tín đồ.
Đạo Phật không đi vào đường hướng hoang tưởng đó! Đức Phật đi từ thực tiễn đời sống của con người từ những căn nguyên gây nên tội lỗi, hay những hành động nào thiện lành để dẫn chứng theo lý “nhân quả”, và tùy theo “duyên sinh” mà diễn tiến hàng loạt sự kiện tiếp theo (trùng trùng duyên khởi). Đức Phật chỉ rõ những Chân Lý chắc thật, mấu chốt trong cuộc sống cũng là những Chân lý cho lý giải của mình làm nền tảng cho giáo lý mà Ngài truyền giảng. Cuộc sống của chúng sinh vốn là khổ; Ngài phân giải nguyên nhân của khổ rồi đề cập đến con đường diệt khổ và thoát khổ để đạt đến được cái gì và sự an vui hạnh phúc đó như thế nào.
Sự tuyệt vời của Đạo Phật là giải thích được mọi khía cạnh của cuộc sống con người bằng những sự giải thích mà chúng ta có thể hiểu, tiếp cận được qua những hiện tượng, sự kiện trong thực tế, hay qua môn Tâm lý học Phật giáo (hay được gọi là Duy Thức Học). Qua đó, nhiều nhà Tâm lý, Phân Tâm, Đạo đức học cũng không thể ngờ trong Đạo Phật đã chứa đựng những lĩnh vực phân tích mà họ nghiên cứu ấy từ hàng nghìn năm về trước; cũng như những nhà khoa học ngày nay phải tán dương Đạo Phật vì tính chất thích hợp với những khám phá khoa học mà họ đã khám phá ra được. Xa hơn nữa, Đức Phật đề cập đến những siêu hình, những thế giới khác mà hiện nay các nhà khoa học chưa có thể đạt đến (mặc dù người ngoài không gian được đánh dấu như là một thực tế có thể có). Nếu Đức Phật đã đề cập đến những thế giới khác trong vũ trụ bao la (pháp giới vô biên tế, vô số tam thiên đại thiên thế giới) với những hình dạng, màu sắc khác nhau thì ngày nay khoa học thấy trong vũ trụ có nhiều thiên hà, có những thiên hà có hình dáng, ánh sáng khác nhau. Trong mỗi thiên hà là vô số Thái dương hệ lập thành. Điều đó đánh đổ thuyết thần quyền sáng tạo không thích hợp với những khám phá của khoa học! Và càng ngày sự khám phá của khoa học càng cũng cố thêm những tri thức từ trong Kinh điển và khiến cho nhiều người càng tín nhiệm hơn về giáo lý của Đạo Phật, nhất là đối với những nhà khoa học trên thế giới!
Đức Phật và Phật giáo không hề dụ dỗ, o ép, hoặc dùng quyền lực đối với một ai để buộc người đó phải theo, hoặc làm tín đồ; mà Đức Phật cũng như Đạo Phật chỉ thuyết giảng để người, chúng sinh nhận thức được mình cũng có Phật tánh, có khả năng thành Bậc Giác Ngộ. Đạo Phật giúp họ nhận chân được sự Vô Thường, Khổ của cuộc đời để đi đến con đường thoát khổ bằng ý chí, sự hành trì của chính mình trong niềm tin trí huệ, kiểm nghiệm, không cuồng tín ngông nghênh hoang tưởng như ở vài nơi nào đó. Đức Phật đã giáo huấn người dân ở Kalama cũng như hàng đệ tử trong đoạn Kinh Kalamasutta như sau:
-- "Này các Kalama, chớ có tin vì nghe truyền thuyết, chớ có tin vì theo truyền thống, chớ có tin vì nghe người ta nói, chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng, chớ có tin vì nhân lý luận, chớ có tin vì nhân suy luận, chớ có tin sau khi suy tư về những dữ kiện, điều kiện, chớ có tin theo thiên kiến, định kiến, chớ có tin vì thấy thích hợp với khả năng, chớ có tin vì vị Sa môn là bậc Ðạo Sư của mình. Nhưng này Kalama, khi nào tự mình biết rõ như sau: 'Các pháp này là bất thiện, các pháp này là có tội, các pháp này bị người có trí chỉ trích, các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận, đưa đến bất hạnh khổ đau. Thời này Kalama, hãy từ bỏ chúng' ... Nhưng này Kalama, khi nào tự mình biết như sau: 'Các pháp này là thiện. Các pháp này là không có tội. Các pháp này, được người có trí tán thán. Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận, đưa đến hạnh phúc an lạc, thời này các Kalama, hãy chứng đạt và an trú'...".
Với đoạn Kinh này chứng minh về Đức tin trong Đạo Phật cũng như sự hành trì của hành giả được nhắc nhỡ, cân nhắc chính chắn trước khi họ tự nguyện chọn con đường để đi với một tinh thần sáng suốt, trí tuệ và có nhiều so sánh cũng như kiểm chứng rồi họ mới an trú vào. Đó là điểm thù thắng, cao cả nhất mà người tin vào Đạo Phật đã có được, hơn hẳn tất cả các pháp khác đang hiện có trong thế gian này!
Nguyên Thảo,
17/08/2011.
*Đạo Phật 25: Đạo Phật Là Đạo Của Đại Chúng!
Theo như thông thường chúng ta thường nghĩ Đạo Phật như là một tôn giáo riêng tư của Đạo Phật mà thôi! Và có người lại cho rằng Đạo Phật không phải là một tôn giáo, mà chỉ là những triết lý về cuộc sống của con người. Quan niệm nào nhìn về Đạo Phật cũng chỉ đúng trên bình diện một góc cạnh mà người quan sát, nghiên cứu đã đứng nhìn. Nếu chúng ta đứng trên tổng thể thì Đạo Phật có khía cạnh tổng thể của nó.
Chúng tôi không muốn làm một cuộc “biện minh” hay để chứng minh “Đạo Phật là một tôn giáo” trong bài này, mà chúng tôi chỉ muốn trình bày một số khía cạnh mà Đạo Phật đã đem lại hay cống hiến cho cuộc đời, cho một số nền văn hóa cũng như nó đã đóng góp vào tiến trình “đi tìm” Chân, Thiện, Mỹ cho nhân loại.
Thuở xưa, khi chúng tôi còn trên ghế nhà trường có vị thầy vốn là Linh Mục đã nhận xét về một số Đạo Đông Phương như là những triết thuyết chứ không là những tôn giáo. Sau này chúng tôi mới hiểu ra vị Thầy Linh Mục ấy chỉ đứng trên bình diện của một người truyền giáo để nói về Triết Tây, đồng thời cũng là người để kiếm thêm “con chiên” cho Chúa vì thế mà cái nhìn của Thầy có một khía cạnh khác, với quá nhiều chủ quan và thiên kiến; đồng thời, cũng là để người khác hiểu Đạo của Thầy mới là Tôn giáo. Sự đánh lừa ấy cho đến một ngày chúng tôi được nghe điều răn đầu tiên trong mười điều răn: “Tin có Đức Chúa Trời và chỉ phượng thờ một mình Đức Chúa Trời mà thôi!” (Đúng ra điều răn ấy được học là “Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự”), khiến cho chúng tôi liên tưởng đến định đề Euclide trong toán học: “Qua hai điểm ta chỉ kẻ được một đường thẳng và chỉ một đường thẳng mà thôi!”. Chính vì chữ “mà thôi” ấy mà chúng tôi mới khám phá ra rằng: “Tin có Đức Chúa Trời” cũng chỉ là một “định đề” như bao nhiêu định đề khác! Trong toán học, với định đề thì chúng ta không chứng minh, mà chỉ có chấp nhận hay không; nếu chấp nhận “định đề” thì chúng ta có hệ thống toán học ấy, và nếu không chấp nhận thì chúng ta sẽ không có hệ thống toán học đó. Chính thế mà chúng ta mới có các hệ thống toán học “non-Euclide” khác như hệ thống toán học của Riemann hoặc Lobachevsky… chẳng hạn. Cho nên từ đó chúng tôi có cái nhìn khoa học hơn về hệ thống tôn giáo của Thầy tôi.
Theo thời gian của tuổi đời và nhất là sau cơn bạo bệnh, chúng tôi đã có “duyên” tìm đến Đạo Phật; và từng bước “cơ hội” lại được tìm hiểu vào kinh điển.
Đạo Phật, nếu chúng ta nói là cho riêng những người Phật tử hay những ai theo đạo Phật thì không hẳn đúng như vậy. Đức Phật khi ngộ được chân lý, qua cái nhìn của trí tuệ đã không phân biệt con người với những chúng sinh khác; con người cũng chẳng có giai cấp sang hèn, hay chủng loại. Tất cả chúng sinh trong sáu đường, ba cõi đều như nhau: Đều cùng có Phật tánh cũng như đều có khả năng giác ngộ; chỉ khác chăng là do nghiệp của chính mình tạo tác ra mà lãnh quả khác nhau trong thời gian ngắn hay dài để trả nghiệp! Nhưng cuối cùng, nếu ai cũng biết “tự mình đi” trên con đường “đạo” để giải thoát ra khỏi sinh tử, đau khổ thì sẽ được thoát khỏi cảnh luân hồi không sai khác! Điều đó mà Thường Bất Khinh Bồ Tát đã tán dương trong Kinh Pháp Hoa: “Tôi chẳng dám khinh quí ngài, quí ngài đều sẽ làm Phật”. Con đường đạo ấy đã được chính Đức Phật trải nghiệm qua và chỉ lại, và cũng chính con đường đó mà các Đức Phật trong ba đời: Quá khứ, Hiện tại, Vị lai phải trải qua để trở thành Bậc Giác Ngộ. Xem như vậy, con đường giác ngộ không phải để dành riêng cho phật tử hay những vị Bồ Tát, Phật mà cho tất cả mọi chúng sinh trong ba cõi, sáu nẽo Luân hồi. Nhưng do căn cơ của mỗi chúng sinh khác nhau vì thế đến với Đạo Phật cũng còn có nhiều khó khăn và nhận thức không được đồng đều. Do vậy, trong Đạo Phật có nhiều pháp môn cũng như sự hành trì có khác nhau tùy theo trình độ của người hành trì, hay những nhóm thực hiện đường lối tu, đó chỉ là những cách để “dắt dìu” và cùng nhau tìm con đường “đúng” để mà đi! Và cũng có thể nhờ đó mà người hành trì sẽ tránh được ma chướng, con đường ma (do ma giới tạo nên) nhằm khiến con người tu phải “lụy” mà không thoát khỏi được cảnh Luân hồi theo ý muốn của những loài ma ấy!
Trong thế gian, mặc dù những ai được sinh trong cõi Ta-Bà này đều đã có nhiều phước báu vì được sinh vào cõi có Phật pháp (các cõi khác không có) để có thể biết, nhận thức, tiến tu mà giải thoát. Tuy nhiên, nơi đây cũng chính là nơi có nhiều thử thách, và những ma chướng giăng đầy để người tu phải nỗ lực vượt qua các chướng ngại trước khi “đến được bờ giác ở bên kia” giống như cá lý ngư phải vượt qua được Vũ Môn mới hóa thành rồng. Nếu vật chất, phương tiện tiến bộ khoa học cung ứng cho cuộc sống con người sung sướng bao nhiêu, thì cũng chính chúng khiến cho con người đam mê trong vật chất, bạc tiền, hay tình dục (như hiện nay) thì sự tiến đến “thành đạo” không dễ dàng chút nào. Đó là chưa kể vì ham mê vật chất, giàu sang con người không từ nan đến những hành động tội ác từ “tham, sân, si” để gây nhân ác do “sát, đạo, dâm, vọng” mà nên, để họ phải quay trở lại trong vòng Luân hồi sinh tử.
Rượu bia ngon, thức ăn được chế biến trở nên khoái khẩu, phương tiện cung ứng cho cuộc sống trở nên dồi giàu, những trò chơi xa xỉ tiêu tiền tốn bạc như đua ngựa, casino, cờ bạc, các máy pokies cũng nhằm đưa con người tới chỗ ham vui, chạy theo vật chất để trở về với sự sa đọa, tội phạm… Và rồi, tự chính mình giam hãm mình “ở lại” trong nhà tù luân hồi vĩ đại, không biết đến bao giờ mới ra! Cho nên được làm thân người ở cõi Ta-Bà đã là khó; được nghe, biết, ngộ, nhập vào tri kiến Phật có lẽ cũng khó (nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn) hơn nhiều! Không những thế, loài ma và những ma chướng đã khiến cho nhiều người bị sa ngã trên đường tu, họ tưởng họ đã đạt được đạo, họ xa rời “Vô Ngã” để họ thấy chính họ là những Đấng Cao Cả (do sự Ngã Mạn) thay mặt cho một Đấng Sáng Tạo nào đó trong thiên nhiên, để rồi dẫn dắt những con người, tín đồ của họ đi vào con đường ma đạo như chính họ “đã là tôi tớ của ma”! Một cuộc chiến đấu “cuối cùng” nơi cõi Ta-Bà giữa Giác Ngộ và Ma: Vượt qua khỏi là Bậc Giác Ngộ; kẻ ngã ngựa, bị lôi cuốn sẽ trở lại với dòng sông Luân hồi trong muôn vạn nghìn ức kiếp không biết đến bao giờ thì gọi là theo Ma!
Giáo lý Đạo Phật không dành riêng cho người theo Phật, mà cho tất cả những ai có thể tri ngộ được dù là sớm hay muộn bởi vì khi Đức Phật thuyết giảng là cho tất cả mọi người đã có mặt trên thế gian. Những “Chân lý” Đức Phật vạch ra cho chúng sinh thấy rằng: Cuộc đời trong nhân thế là “Những khổ đau” tự nó đã hiện hữu trong cuộc sống; để rồi sau đó Đức Phật đi đến lý giải những nguyên nhân của khổ đau, và muốn thoát khỏi khổ đau mình sẽ phải chọn con đường hoàn thiện để thoát khỏi vòng khổ đau ấy. Những giai đoạn ấy là “cần có” và “điều kiện đủ” để thí sinh vượt qua ngưỡng cửa của kỳ thi sau cùng mà tiến đến Giác Ngộ! Đức Phật cũng chỉ rằng “không ai có thể cứu mình ra khỏi những nghiệp mình đã gieo, mà chỉ có mình tự nỗ lực cứu chính mình mà thôi!”; vì những nghiệp mình gieo đã biến thành dây oan trái vô hình trói buộc mình với những ai mà mình đã ân oán với họ, dù ân oán ấy thật là nhỏ nhoi! Con người hoàn thiện và giải nghiệp bằng sự tu tập của chính mình!
Trong sự tu tập, con người cố làm nhiều việc thiện, từ bỏ đi những việc ác; tức là mình “thi ân” việc tốt (nhân thiện) cho người khác nhưng không nghĩ đến đền bồi (bố thí ba-la-mật); nhưng những gì làm ác ngay thời điểm hiện tại hoặc những việc ác trước kia chúng vẫn là những hạt nhân đợi đến thời điểm, điều kiện thích hợp sẽ nẫy mầm và chúng sẽ lôi cuốn tâm thức người gieo đến nơi mà họ phải trả quả. Ý thức rõ được như vậy, thì đời sống con người dễ dàng hướng thiện hơn và với sự hiểu được lý nhân quả thì người ta mới tự kiềm chế lấy mình khi khởi nên ý ác. Có như thế thì một xã hội sẽ được thiện lành mà không cần phải áp dụng đến luật pháp.
Nhưng sự tiến đến với Phật pháp của từng chúng sinh không đồng nhất, có người ngộ, hiểu, có thể chấp nhận; nhưng có người chẳng hề quan tâm hay để ý. Thế cho nên Đức Phật đã thấy rằng những chân lý Ngài lĩnh hội được khá cao siêu, khiến không nhiều người có thể nhận hiểu dễ dàng nên Ngài không muốn thuyết giảng; nhưng rồi Ngài cũng phải lặn lội trên 45 năm ròng rả để truyền bá giáo pháp ấy.
Một giáo lý mãi đến ngày hôm nay, trên khía cạnh khoa học hay khía cạnh tâm lý; ở khía cạnh giải thoát, tự cứu độ của một tôn giáo hoặc trên bình diện triết học Chân, Thiện, Mỹ thì Đạo Phật luôn vẫn đáp ứng được những tính chất về Chân lý hay khoa học, tâm lý… hoàn thiện con người cho cuộc sống an vui trong một thế giới đại đồng của mọi loài chúng sinh, mà chúng ta không thể tìm thấy ở một tôn giáo nào khác để có được!
Nguyên Thảo,
2/8/2011.
Chúng tôi không muốn làm một cuộc “biện minh” hay để chứng minh “Đạo Phật là một tôn giáo” trong bài này, mà chúng tôi chỉ muốn trình bày một số khía cạnh mà Đạo Phật đã đem lại hay cống hiến cho cuộc đời, cho một số nền văn hóa cũng như nó đã đóng góp vào tiến trình “đi tìm” Chân, Thiện, Mỹ cho nhân loại.
Thuở xưa, khi chúng tôi còn trên ghế nhà trường có vị thầy vốn là Linh Mục đã nhận xét về một số Đạo Đông Phương như là những triết thuyết chứ không là những tôn giáo. Sau này chúng tôi mới hiểu ra vị Thầy Linh Mục ấy chỉ đứng trên bình diện của một người truyền giáo để nói về Triết Tây, đồng thời cũng là người để kiếm thêm “con chiên” cho Chúa vì thế mà cái nhìn của Thầy có một khía cạnh khác, với quá nhiều chủ quan và thiên kiến; đồng thời, cũng là để người khác hiểu Đạo của Thầy mới là Tôn giáo. Sự đánh lừa ấy cho đến một ngày chúng tôi được nghe điều răn đầu tiên trong mười điều răn: “Tin có Đức Chúa Trời và chỉ phượng thờ một mình Đức Chúa Trời mà thôi!” (Đúng ra điều răn ấy được học là “Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự”), khiến cho chúng tôi liên tưởng đến định đề Euclide trong toán học: “Qua hai điểm ta chỉ kẻ được một đường thẳng và chỉ một đường thẳng mà thôi!”. Chính vì chữ “mà thôi” ấy mà chúng tôi mới khám phá ra rằng: “Tin có Đức Chúa Trời” cũng chỉ là một “định đề” như bao nhiêu định đề khác! Trong toán học, với định đề thì chúng ta không chứng minh, mà chỉ có chấp nhận hay không; nếu chấp nhận “định đề” thì chúng ta có hệ thống toán học ấy, và nếu không chấp nhận thì chúng ta sẽ không có hệ thống toán học đó. Chính thế mà chúng ta mới có các hệ thống toán học “non-Euclide” khác như hệ thống toán học của Riemann hoặc Lobachevsky… chẳng hạn. Cho nên từ đó chúng tôi có cái nhìn khoa học hơn về hệ thống tôn giáo của Thầy tôi.
Theo thời gian của tuổi đời và nhất là sau cơn bạo bệnh, chúng tôi đã có “duyên” tìm đến Đạo Phật; và từng bước “cơ hội” lại được tìm hiểu vào kinh điển.
Đạo Phật, nếu chúng ta nói là cho riêng những người Phật tử hay những ai theo đạo Phật thì không hẳn đúng như vậy. Đức Phật khi ngộ được chân lý, qua cái nhìn của trí tuệ đã không phân biệt con người với những chúng sinh khác; con người cũng chẳng có giai cấp sang hèn, hay chủng loại. Tất cả chúng sinh trong sáu đường, ba cõi đều như nhau: Đều cùng có Phật tánh cũng như đều có khả năng giác ngộ; chỉ khác chăng là do nghiệp của chính mình tạo tác ra mà lãnh quả khác nhau trong thời gian ngắn hay dài để trả nghiệp! Nhưng cuối cùng, nếu ai cũng biết “tự mình đi” trên con đường “đạo” để giải thoát ra khỏi sinh tử, đau khổ thì sẽ được thoát khỏi cảnh luân hồi không sai khác! Điều đó mà Thường Bất Khinh Bồ Tát đã tán dương trong Kinh Pháp Hoa: “Tôi chẳng dám khinh quí ngài, quí ngài đều sẽ làm Phật”. Con đường đạo ấy đã được chính Đức Phật trải nghiệm qua và chỉ lại, và cũng chính con đường đó mà các Đức Phật trong ba đời: Quá khứ, Hiện tại, Vị lai phải trải qua để trở thành Bậc Giác Ngộ. Xem như vậy, con đường giác ngộ không phải để dành riêng cho phật tử hay những vị Bồ Tát, Phật mà cho tất cả mọi chúng sinh trong ba cõi, sáu nẽo Luân hồi. Nhưng do căn cơ của mỗi chúng sinh khác nhau vì thế đến với Đạo Phật cũng còn có nhiều khó khăn và nhận thức không được đồng đều. Do vậy, trong Đạo Phật có nhiều pháp môn cũng như sự hành trì có khác nhau tùy theo trình độ của người hành trì, hay những nhóm thực hiện đường lối tu, đó chỉ là những cách để “dắt dìu” và cùng nhau tìm con đường “đúng” để mà đi! Và cũng có thể nhờ đó mà người hành trì sẽ tránh được ma chướng, con đường ma (do ma giới tạo nên) nhằm khiến con người tu phải “lụy” mà không thoát khỏi được cảnh Luân hồi theo ý muốn của những loài ma ấy!
Trong thế gian, mặc dù những ai được sinh trong cõi Ta-Bà này đều đã có nhiều phước báu vì được sinh vào cõi có Phật pháp (các cõi khác không có) để có thể biết, nhận thức, tiến tu mà giải thoát. Tuy nhiên, nơi đây cũng chính là nơi có nhiều thử thách, và những ma chướng giăng đầy để người tu phải nỗ lực vượt qua các chướng ngại trước khi “đến được bờ giác ở bên kia” giống như cá lý ngư phải vượt qua được Vũ Môn mới hóa thành rồng. Nếu vật chất, phương tiện tiến bộ khoa học cung ứng cho cuộc sống con người sung sướng bao nhiêu, thì cũng chính chúng khiến cho con người đam mê trong vật chất, bạc tiền, hay tình dục (như hiện nay) thì sự tiến đến “thành đạo” không dễ dàng chút nào. Đó là chưa kể vì ham mê vật chất, giàu sang con người không từ nan đến những hành động tội ác từ “tham, sân, si” để gây nhân ác do “sát, đạo, dâm, vọng” mà nên, để họ phải quay trở lại trong vòng Luân hồi sinh tử.
Rượu bia ngon, thức ăn được chế biến trở nên khoái khẩu, phương tiện cung ứng cho cuộc sống trở nên dồi giàu, những trò chơi xa xỉ tiêu tiền tốn bạc như đua ngựa, casino, cờ bạc, các máy pokies cũng nhằm đưa con người tới chỗ ham vui, chạy theo vật chất để trở về với sự sa đọa, tội phạm… Và rồi, tự chính mình giam hãm mình “ở lại” trong nhà tù luân hồi vĩ đại, không biết đến bao giờ mới ra! Cho nên được làm thân người ở cõi Ta-Bà đã là khó; được nghe, biết, ngộ, nhập vào tri kiến Phật có lẽ cũng khó (nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn) hơn nhiều! Không những thế, loài ma và những ma chướng đã khiến cho nhiều người bị sa ngã trên đường tu, họ tưởng họ đã đạt được đạo, họ xa rời “Vô Ngã” để họ thấy chính họ là những Đấng Cao Cả (do sự Ngã Mạn) thay mặt cho một Đấng Sáng Tạo nào đó trong thiên nhiên, để rồi dẫn dắt những con người, tín đồ của họ đi vào con đường ma đạo như chính họ “đã là tôi tớ của ma”! Một cuộc chiến đấu “cuối cùng” nơi cõi Ta-Bà giữa Giác Ngộ và Ma: Vượt qua khỏi là Bậc Giác Ngộ; kẻ ngã ngựa, bị lôi cuốn sẽ trở lại với dòng sông Luân hồi trong muôn vạn nghìn ức kiếp không biết đến bao giờ thì gọi là theo Ma!
Giáo lý Đạo Phật không dành riêng cho người theo Phật, mà cho tất cả những ai có thể tri ngộ được dù là sớm hay muộn bởi vì khi Đức Phật thuyết giảng là cho tất cả mọi người đã có mặt trên thế gian. Những “Chân lý” Đức Phật vạch ra cho chúng sinh thấy rằng: Cuộc đời trong nhân thế là “Những khổ đau” tự nó đã hiện hữu trong cuộc sống; để rồi sau đó Đức Phật đi đến lý giải những nguyên nhân của khổ đau, và muốn thoát khỏi khổ đau mình sẽ phải chọn con đường hoàn thiện để thoát khỏi vòng khổ đau ấy. Những giai đoạn ấy là “cần có” và “điều kiện đủ” để thí sinh vượt qua ngưỡng cửa của kỳ thi sau cùng mà tiến đến Giác Ngộ! Đức Phật cũng chỉ rằng “không ai có thể cứu mình ra khỏi những nghiệp mình đã gieo, mà chỉ có mình tự nỗ lực cứu chính mình mà thôi!”; vì những nghiệp mình gieo đã biến thành dây oan trái vô hình trói buộc mình với những ai mà mình đã ân oán với họ, dù ân oán ấy thật là nhỏ nhoi! Con người hoàn thiện và giải nghiệp bằng sự tu tập của chính mình!
Trong sự tu tập, con người cố làm nhiều việc thiện, từ bỏ đi những việc ác; tức là mình “thi ân” việc tốt (nhân thiện) cho người khác nhưng không nghĩ đến đền bồi (bố thí ba-la-mật); nhưng những gì làm ác ngay thời điểm hiện tại hoặc những việc ác trước kia chúng vẫn là những hạt nhân đợi đến thời điểm, điều kiện thích hợp sẽ nẫy mầm và chúng sẽ lôi cuốn tâm thức người gieo đến nơi mà họ phải trả quả. Ý thức rõ được như vậy, thì đời sống con người dễ dàng hướng thiện hơn và với sự hiểu được lý nhân quả thì người ta mới tự kiềm chế lấy mình khi khởi nên ý ác. Có như thế thì một xã hội sẽ được thiện lành mà không cần phải áp dụng đến luật pháp.
Nhưng sự tiến đến với Phật pháp của từng chúng sinh không đồng nhất, có người ngộ, hiểu, có thể chấp nhận; nhưng có người chẳng hề quan tâm hay để ý. Thế cho nên Đức Phật đã thấy rằng những chân lý Ngài lĩnh hội được khá cao siêu, khiến không nhiều người có thể nhận hiểu dễ dàng nên Ngài không muốn thuyết giảng; nhưng rồi Ngài cũng phải lặn lội trên 45 năm ròng rả để truyền bá giáo pháp ấy.
Một giáo lý mãi đến ngày hôm nay, trên khía cạnh khoa học hay khía cạnh tâm lý; ở khía cạnh giải thoát, tự cứu độ của một tôn giáo hoặc trên bình diện triết học Chân, Thiện, Mỹ thì Đạo Phật luôn vẫn đáp ứng được những tính chất về Chân lý hay khoa học, tâm lý… hoàn thiện con người cho cuộc sống an vui trong một thế giới đại đồng của mọi loài chúng sinh, mà chúng ta không thể tìm thấy ở một tôn giáo nào khác để có được!
Nguyên Thảo,
2/8/2011.
*Thơ Đó, Thơ Đây! (tt)
*Cửa Bình Đại. (Tiền Giang)
Tưởng rồi cuộc đã xong
Lướng vướng nửa giờ trong
Lòng người buồn vô hạn
Cứ van cầu ước mong!
Thế rồi sự đã qua
Ơn trên thực đã là
Chuyện đời qua trời tính
Bình Đại thoát đã xa!
Đồ Ngông,
19/08/10.
*Đi Ra Biển Khơi!
Đã qua rồi nỗi lo âu
Đã qua rồi lòng buồn rầu
Tàu vươn vươn ra cồn cát
Trời lại sáng, sáng mau mau!
Thôi nhé! Giờ ta lại đi
Đi, đi trong nỗi phân kỳ
Lìa xa, xa cả hoài niệm
Cùng với nỗi sầu phân ly!
Ngước nhìn, nhìn lại phía sau
Núi xa xanh nhạt, nhạt màu
Ngẫng đầu nhìn về phía trước
Thẫm xa, với sóng bạc đầu!
Đồ Ngông,
19/08/10.
*Từ Biệt Quê Hương!
Bây giờ ta lại bỏ quê hương
Thất thểu đi trên vắng nẻo đường
Chẳng biết nơi đâu là bến đỗ
Lênh đênh thân phận, niềm thê lương!
Đồ Ngông,
19/08/10.
*Phà Rạch Miểu. (Tiền Giang)
Thôi đã hết rồi những chuyến phà
Đâu còn chi, đi lại đi qua
Ồn ào những lúc ngày xưa cũ
Cầu nối đôi bờ, phà đã xa!
Ngày ấy..., bây giờ lần sẽ quên
Không còn vội vả lẫn chân chen
Không còn tiếng gọi mời la nữa
Cầu đã Nam xong, Bắc lại liền!
Đồ Ngông,
19/08/10.
Tưởng rồi cuộc đã xong
Lướng vướng nửa giờ trong
Lòng người buồn vô hạn
Cứ van cầu ước mong!
Thế rồi sự đã qua
Ơn trên thực đã là
Chuyện đời qua trời tính
Bình Đại thoát đã xa!
Đồ Ngông,
19/08/10.
*Đi Ra Biển Khơi!
Đã qua rồi nỗi lo âu
Đã qua rồi lòng buồn rầu
Tàu vươn vươn ra cồn cát
Trời lại sáng, sáng mau mau!
Thôi nhé! Giờ ta lại đi
Đi, đi trong nỗi phân kỳ
Lìa xa, xa cả hoài niệm
Cùng với nỗi sầu phân ly!
Ngước nhìn, nhìn lại phía sau
Núi xa xanh nhạt, nhạt màu
Ngẫng đầu nhìn về phía trước
Thẫm xa, với sóng bạc đầu!
Đồ Ngông,
19/08/10.
*Từ Biệt Quê Hương!
Bây giờ ta lại bỏ quê hương
Thất thểu đi trên vắng nẻo đường
Chẳng biết nơi đâu là bến đỗ
Lênh đênh thân phận, niềm thê lương!
Đồ Ngông,
19/08/10.
*Phà Rạch Miểu. (Tiền Giang)
Thôi đã hết rồi những chuyến phà
Đâu còn chi, đi lại đi qua
Ồn ào những lúc ngày xưa cũ
Cầu nối đôi bờ, phà đã xa!
Ngày ấy..., bây giờ lần sẽ quên
Không còn vội vả lẫn chân chen
Không còn tiếng gọi mời la nữa
Cầu đã Nam xong, Bắc lại liền!
Đồ Ngông,
19/08/10.
*Quan Điểm!
Nói đến quan điểm thì phải nói đến cái nhìn giới hạn ở một khía cạnh nào đó; nói đến một góc nhìn không được toàn diện và nói đến một sự què quặt của những con người dị tật. Thế nhưng, người ta lại thích quan điểm mới là chết chứ! Nhất là quan điểm của mình hay là quan điểm của phe nhóm mà mình đã đi theo. Người ta dính phải “bùa mê thuốc lú” lúc nào mà họ cũng chẳng hề hay biết! Bao nhiêu rắc rối, bao nhiêu hận thù xảy ra cũng từ góc nhìn hay khía cạnh của vấn đề quan điểm. Chúng ta hãy thử tưởng tượng ở một hội nông gia nọ, lúc khởi đầu người làm nghề nông ít, họ là những người thân thiết họp mặt để giúp đỡ lẫn nhau trong vấn đề thuốc men phân phướng lẫn kỹ thuật canh tác. Theo thời gian số người vào nghề nông khá nhiều, từ nhóm bạn bè biến thành hội nông gia để gọi là nương tựa vào nhau trong sinh hoạt cũng như quyền lợi được chánh phủ giúp đỡ và hỗ trợ. Với thời gian quá lâu, ban điều hành hội nông gia với tinh thần thiện nguyện ai cũng bận công việc của mình tíu tít nên chẳng sinh hoạt được nhiều, giống như chỉ là có hình thức để đi giao thiệp với những hội đoàn ở địa phương mà không có một sự “thực chất” nào trong sự hoạt động của nó. Với sự tăng trưởng về người vào nghề nông khá nhiều, nên nhu cầu một hội nông gia có tinh thần hoạt động tích cực được thành hình với nỗ lực của người cũ cũng như người mới. Sự hăng say hoạt động của Ban Chấp Hành mới được đánh giá là cao, họ có cả Bản tin để thông tin và văn nghệ vui chơi hàng tháng. Nhưng chỉ có mục “quan điểm” mà trở thành sự rối ren và phân hóa. Tại sao là do mục quan điểm? Mục quan điểm để nói lên tinh thần hoạt động, cũng như đường hướng theo đuổi hay ý muốn của riêng hội. Chỉ qua vài ngôn từ “hữu danh vô thực” mà đã là nguyên nhân cớ sự. Trong một bài quan điểm, người viết quan điểm như báo cho độc giả biết từ xưa hội nông gia chỉ có tiếng mà không có miếng tức là sự hoạt động không có kết quả là bao, để từ đó kêu gọi sự hợp tác của mọi người nông dân. Nhưng bài viết ấy không được hiểu đúng theo ý nghĩa đó mà nó lại được hiểu theo một chiều hướng khác. Chính vợ người cựu Chủ tịch hội nông gia lên tiếng liền theo sau bài viết ấy để gọi là phản bác, vì bà cho là bài quan điểm ấy phủ nhận công lao của chồng bà trong bao nhiêu năm; tiếp theo chồng bà “từ chức” chức danh “cố vấn” của hội. Từ đó, kéo thêm tay chân bộ hạ bất hợp tác với Hội Nông Gia hiện hữu, và yễm trợ người khác cũng như quay lưng lại với Hội Nông Gia hoàn toàn. Đó là kinh nghiệm của một lần quan điểm!
Và rồi, cũng vì quan điểm mà nhiều nơi trở thành của phe nhóm để trấn áp người khác; loại bỏ người không thuộc phe nhóm của mình ra khỏi nơi mà phe ta muốn chiếm độc quyền, nhất là về phương diện chính trị!
Tôi nhớ lại thuở xưa khi còn bé thật là bé! Cái thời con nít ấy chưa chi cũng đã lắm sự đời! Những thằng lớn không thích nhau cũng bắt đầu chia phe chửi hay là đánh lộn. Chỉ khổ cho những thằng nhỏ, cò ke lục chốt như tôi. Muốn được chơi phải theo hẳn phe của một thằng, không được đứng hàng hai. Nếu lỡ phe mình bị thua thì tôi là những thằng nhỏ tuổi lẫn nhỏ con bị làm nô lệ, trở thành tay sai, phải làm theo những gì mà phe thắng muốn đày đọa. Nó muốn đày đọa cho mình khổ chừng nào thì nó lại càng thích thú chừng nấy! Thế là những hình thức khổ sai, đánh đập, chửi mắng, hành hạ đủ điều trong tiếng cười vui của chúng nó. Tôi bắt đầu thắm thía cuộc đời từ thuở ấy!
Sau này lớn lên trong thời gian chiến tranh, tôi cũng nhìn được những kẻ thù với nhau từ trên chiến trường cho đến khi tàn cuộc chiến tranh. Những gương mặt, thân xác đều là anh em, giống nòi, nhưng trang bị để giết nhau bằng súng đạn của người bên ngoài; “Tụi bây cứ giết nhau đi; tàn phá đất nước chúng mầy đi; tao sẽ cung cấp cho chúng mầy đủ mọi thứ để tụi bây được thắng”! Thế rồi hỏa tiển, bom đạn, máy bay bắn rơi xuống ruộng đồng, trên nương rẫy, trong thành phố. Người người máu me lênh láng, thây đầy trên đường sá, tàn tật; cô nhi quả phụ khắp nơi nơi! Đã vậy mà người ta cũng đành lòng đánh giết lẫn nhau. Bao nhiêu mạng người, tài sản thay gì để làm giàu cho đất nước lại đem ra tàn phá chính đất nước của mình; đồng thời lấy làm thích thú khi mình giết được nhiều người, tàn phá được nhiều tài sản của đồng bào. Quả thật, sau bao nhiêu năm chiến tranh đất nước trở thành “một nấm đầy mồ” như Trịnh Công Sơn đã từng viết.
Hận thù trong chiến tranh; hận thù giai cấp vẫn hiện hữu trong hòa bình. Đày đọa, giết chóc để trấn áp người theo quan điểm của mình, của tổ chức, phe phái vẫn còn tiếp diễn không biết đến bao giờ mới chấm dứt. Không ngờ những chủ nghĩa ngoại lai đã trở thành là nguyên nhân một dân tộc bị tan nát, hận thù không đội trời chung đến với những người con dân cùng chung một nòi giống. Thế mà, hai bên vẫn hãnh diện cho lý tưởng của mình; chống nhau cho đến tận cùng, không màng đến một thằng to lớn đói khát đang muốn nuốt chửng hai con mồi ruột thịt cấu xé lẫn nhau, mà miệng hắn luôn nói hòa bình để che đậy, đánh lừa thiên hạ hầu thực hiện kiểu “dương đông kích tây” cho thiên hạ không để ý, lưu tâm theo dõi những hành động hắn đang làm. Thật tội nghiệp thay cho một dân tộc và đất nước!
Thế mà người cùng nòi giống cũng vẫn hãy còn “gầm gừ”, toan cắn lẫn nhau! Quên một đất nước tang thương!
Đồ Ngông,
5/10/2011.
Và rồi, cũng vì quan điểm mà nhiều nơi trở thành của phe nhóm để trấn áp người khác; loại bỏ người không thuộc phe nhóm của mình ra khỏi nơi mà phe ta muốn chiếm độc quyền, nhất là về phương diện chính trị!
Tôi nhớ lại thuở xưa khi còn bé thật là bé! Cái thời con nít ấy chưa chi cũng đã lắm sự đời! Những thằng lớn không thích nhau cũng bắt đầu chia phe chửi hay là đánh lộn. Chỉ khổ cho những thằng nhỏ, cò ke lục chốt như tôi. Muốn được chơi phải theo hẳn phe của một thằng, không được đứng hàng hai. Nếu lỡ phe mình bị thua thì tôi là những thằng nhỏ tuổi lẫn nhỏ con bị làm nô lệ, trở thành tay sai, phải làm theo những gì mà phe thắng muốn đày đọa. Nó muốn đày đọa cho mình khổ chừng nào thì nó lại càng thích thú chừng nấy! Thế là những hình thức khổ sai, đánh đập, chửi mắng, hành hạ đủ điều trong tiếng cười vui của chúng nó. Tôi bắt đầu thắm thía cuộc đời từ thuở ấy!
Sau này lớn lên trong thời gian chiến tranh, tôi cũng nhìn được những kẻ thù với nhau từ trên chiến trường cho đến khi tàn cuộc chiến tranh. Những gương mặt, thân xác đều là anh em, giống nòi, nhưng trang bị để giết nhau bằng súng đạn của người bên ngoài; “Tụi bây cứ giết nhau đi; tàn phá đất nước chúng mầy đi; tao sẽ cung cấp cho chúng mầy đủ mọi thứ để tụi bây được thắng”! Thế rồi hỏa tiển, bom đạn, máy bay bắn rơi xuống ruộng đồng, trên nương rẫy, trong thành phố. Người người máu me lênh láng, thây đầy trên đường sá, tàn tật; cô nhi quả phụ khắp nơi nơi! Đã vậy mà người ta cũng đành lòng đánh giết lẫn nhau. Bao nhiêu mạng người, tài sản thay gì để làm giàu cho đất nước lại đem ra tàn phá chính đất nước của mình; đồng thời lấy làm thích thú khi mình giết được nhiều người, tàn phá được nhiều tài sản của đồng bào. Quả thật, sau bao nhiêu năm chiến tranh đất nước trở thành “một nấm đầy mồ” như Trịnh Công Sơn đã từng viết.
Hận thù trong chiến tranh; hận thù giai cấp vẫn hiện hữu trong hòa bình. Đày đọa, giết chóc để trấn áp người theo quan điểm của mình, của tổ chức, phe phái vẫn còn tiếp diễn không biết đến bao giờ mới chấm dứt. Không ngờ những chủ nghĩa ngoại lai đã trở thành là nguyên nhân một dân tộc bị tan nát, hận thù không đội trời chung đến với những người con dân cùng chung một nòi giống. Thế mà, hai bên vẫn hãnh diện cho lý tưởng của mình; chống nhau cho đến tận cùng, không màng đến một thằng to lớn đói khát đang muốn nuốt chửng hai con mồi ruột thịt cấu xé lẫn nhau, mà miệng hắn luôn nói hòa bình để che đậy, đánh lừa thiên hạ hầu thực hiện kiểu “dương đông kích tây” cho thiên hạ không để ý, lưu tâm theo dõi những hành động hắn đang làm. Thật tội nghiệp thay cho một dân tộc và đất nước!
Thế mà người cùng nòi giống cũng vẫn hãy còn “gầm gừ”, toan cắn lẫn nhau! Quên một đất nước tang thương!
Đồ Ngông,
5/10/2011.
Wednesday, September 14, 2011
*Thơ Đó, Thơ Đây! (tt)
*Cù Lao Phụng. (Tiền Giang)
Cù lao Rồng lại thêm cù lao Phụng
Giang sơn Đạo Dừa ngày xưa thao túng
Ông xây cầu nối giữa Bắc và Nam
Làm một cuộc giải hòa trong mộng tưởng!
Đồ Ngông,
18/08/10.
*Ngã Ba Trung Lương (2). (Tiền Giang)
Tớ nhớ ra rồi một năm xưa
Tớ xuống nơi đây, đỗ chỗ nầy
Ngồi xe lôi đạp vào thành phố
Mua khúc bánh mì ở tại đây!
Thơ thẩn, ngơ ngơ con ngáo ộp
Lạ người, lạ chỗ như trên mây
Thiên hạ ngó chừng đâu dân lạ
Đi đâu mà lại đến chỗ nầy!
Đồ Ngông,
18/08/10.
*Con Đò Chợ Cá! (Tiền Giang)
Láo ngáo, lơ mơ lại mấy “tay” (mấy người)
Đi theo cái lão dẫn đường này
Chen chen, lấn lấn người đông quá
“Không xuống, còn chi, đứng ở đây?”
Chiếc đò bóng dáng của năm xưa
Một thoáng chiều trôi, lại ít mưa
Bước xuống ghe nhìn nơi xứ lạ
Lòng đi mà biết nói sao vừa!
Đồ Ngông,
18/08/10.
*Đêm Nằm Bến Đợi! (Tiền Giang)
Đêm nằm nghe sóng vỗ lao xao
Không biết nơi đây ở chỗ nào
Gặm khúc bánh mì cho đỡ đói
Đợi chờ mà lòng mãi nôn nao!
Tàu đến dây rồi, tàu vượt sông
Ồn ào một khúc, cảnh người đông
Tiếng nói, tiếng la đầy bóng tối
Mà sao, ta lại chạnh trong lòng?
Đồ Ngông,
18/08/10.
*Nỗi Lòng. (Tiền Giang)
Chiếc ghe nho nhỏ
Đậu ở bến bờ
Nằm trong bóng tối
Lòng mình bơ vơ.
Nhiều mối lo âu
Nghĩ nhớ rầu rầu
Xa đi tất cả
Nỗi buồn đêm thâu!
Đồ Ngông,
19/08/10.
*Tiếng Tàu Trong Đêm. (Tiền Giang)
Tàu đi giữa dòng sông
Nước chảy bao nhiêu giòng
Mình còn nhiều vướng bận
Mà xao xuyến trong lòng!
Ra đi, đâu chắc xong
Nào ai thỏa ước mong
Chuyện ngày mai khó biết
Chỉ mơ được toại lòng.
Một đoàn người lặng yên
Đầy trĩu nặng ưu phiền
Chất lên con tàu nhỏ
Cho giấc ngủ bình yên!
Đồ Ngông,
19/08/10.
Cù lao Rồng lại thêm cù lao Phụng
Giang sơn Đạo Dừa ngày xưa thao túng
Ông xây cầu nối giữa Bắc và Nam
Làm một cuộc giải hòa trong mộng tưởng!
Đồ Ngông,
18/08/10.
*Ngã Ba Trung Lương (2). (Tiền Giang)
Tớ nhớ ra rồi một năm xưa
Tớ xuống nơi đây, đỗ chỗ nầy
Ngồi xe lôi đạp vào thành phố
Mua khúc bánh mì ở tại đây!
Thơ thẩn, ngơ ngơ con ngáo ộp
Lạ người, lạ chỗ như trên mây
Thiên hạ ngó chừng đâu dân lạ
Đi đâu mà lại đến chỗ nầy!
Đồ Ngông,
18/08/10.
*Con Đò Chợ Cá! (Tiền Giang)
Láo ngáo, lơ mơ lại mấy “tay” (mấy người)
Đi theo cái lão dẫn đường này
Chen chen, lấn lấn người đông quá
“Không xuống, còn chi, đứng ở đây?”
Chiếc đò bóng dáng của năm xưa
Một thoáng chiều trôi, lại ít mưa
Bước xuống ghe nhìn nơi xứ lạ
Lòng đi mà biết nói sao vừa!
Đồ Ngông,
18/08/10.
*Đêm Nằm Bến Đợi! (Tiền Giang)
Đêm nằm nghe sóng vỗ lao xao
Không biết nơi đây ở chỗ nào
Gặm khúc bánh mì cho đỡ đói
Đợi chờ mà lòng mãi nôn nao!
Tàu đến dây rồi, tàu vượt sông
Ồn ào một khúc, cảnh người đông
Tiếng nói, tiếng la đầy bóng tối
Mà sao, ta lại chạnh trong lòng?
Đồ Ngông,
18/08/10.
*Nỗi Lòng. (Tiền Giang)
Chiếc ghe nho nhỏ
Đậu ở bến bờ
Nằm trong bóng tối
Lòng mình bơ vơ.
Nhiều mối lo âu
Nghĩ nhớ rầu rầu
Xa đi tất cả
Nỗi buồn đêm thâu!
Đồ Ngông,
19/08/10.
*Tiếng Tàu Trong Đêm. (Tiền Giang)
Tàu đi giữa dòng sông
Nước chảy bao nhiêu giòng
Mình còn nhiều vướng bận
Mà xao xuyến trong lòng!
Ra đi, đâu chắc xong
Nào ai thỏa ước mong
Chuyện ngày mai khó biết
Chỉ mơ được toại lòng.
Một đoàn người lặng yên
Đầy trĩu nặng ưu phiền
Chất lên con tàu nhỏ
Cho giấc ngủ bình yên!
Đồ Ngông,
19/08/10.
*Đạo Phật 23: Đạo Phật Và Tín Ngưỡng Nhân Gian!
Đã từ lâu và cho đến tận ngày nay, người ta vẫn còn cho rằng Đạo Phật mang nhiều tính chất “mê tín dị đoan” trong cách hành đạo của mình. Nhưng vấn đề ấy như thế nào? Quả thật đó là vấn đề không đơn giản! Đạo Phật đến nước ta đã qua những chặng đường từ Ấn Độ sang Trung Hoa và đến Việt Nam với phái Đại Thừa; và phái Tiểu Thừa chịu ảnh hưởng đối với dòng phát triển từ Ấn Độ đến Tích lan, hay Miến Điện, Thái Lan, Lào, Kampuchia. Ở đâu cũng vậy, Đạo Phật có một đặc điểm là dễ hòa hợp, thích ứng với những tập tục của địa phương hay bất cứ nơi nào mà nó đã đến. Điều ấy khiến cho Đạo Phật có khác đi, nên nhiều người lại hiểu lầm và nhìn đạo Phật qua khía cạnh “mê tín dị đoan”!
Trong hệ phái Tiểu Thừa có thể vì còn giữ căn bản phương thức tu hành theo chân Đức Phật ngày xưa, nên sự biến đổi không nhiều và tập tục những xứ mà nó đã đi qua cũng không lưu lại những điều sâu đậm trong cách hành trì hay thể hiện, tu tập của người thực hành cũng như người tin tưởng nơi Đạo Phật.
Nhưng với phái Đại Thừa có nhiều vấn đề hơn, nhất là chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa cộng với tập tục dân gian của chúng ta xen lẫn vào.
Giáo lý Đạo Phật không đề cập đến vấn đề “mê tín dị đoan”, mà chỉ giải thích một cách biện chứng, có cơ sở trên đời sống con người. Sự quan trọng là mỗi con người đều có một bản thể riêng: Đó là tâm của mỗi chúng sinh. Trước kia, Tâm mỗi chúng sinh đều cùng “viên dung” (hòa hợp nhau như là một thể, một khối) ở trong cõi Chơn Tâm (cõi sau này khi tu hành đắc đạo trở về thì cõi đó được gọi là cõi Phật, hay Niết Bàn hoặc bằng những danh từ khác nhau), nhưng vì “không biết” (Vô Minh) tâm chúng sinh mới nảy ra “vọng tưởng” (mơ màng, mơ mộng huyễn ảo), và có ý “phân biệt” ta với người, chúng sinh khác; nên cõi Chơn Tâm ấy bị phá vỡ và Tâm mỗi chúng sinh mới mượn đến các Đại (đất, lửa, gió, nước) để làm thân và các giác quan; mượn Kiến đại để Thấy, nghe, hay, biết; và mượn Không đại để được tăng trưởng và lớn lên. Từ khi có thân xác, những nhu cầu nuôi thân, hưởng thụ khiến cho chúng sinh đi vào “Sát, đạo, dâm, vọng” gây những nghiệp ác, cùng với Thiện và “Vô ký” (không thiện, không ác); nhu cầu càng cao thì càng muốn thêm (ái dục; tham), không được thì “sân”, sân quá thì trở nên mê muội (si) để gây nghiệp ác từ Thân, Khẩu, Ý. Gây nghiệp tức là tạo “nhân” để rồi ngay trong kiếp hiện tiền nhận quả, hoặc là trong kiếp sau hay trong những kiếp lâu dài về sau.
Tùy theo những nhân tốt hay xấu nào trong kiếp kế tiếp sẽ đồng loạt trổ “quả”, cộng với nguyện lực (ý nguyện dũng mãnh trước và ngay lúc lâm chung) thì sẽ định con đường đi của sự tái sinh trong sáu nẽo Luân hồi (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, A-tu-la, Người, Trời). Khi chết rồi, nhưng đợi chờ để đi sang một kiếp khác được gọi là thân Trung ấm. Nếu Tâm người chết không luyến lưu hay do sự thù hằn nào “níu chân” thì họ sẽ đi đầu thai ở một thân xác khác; bằng không họ cứ lởn vởn, chập chờn trong một cõi vô hình đợi giải quyết xong rồi mới đi. Trong quá trình dài về số kiếp nếu ai có nhiều phước báu thì được sinh vào cõi Trời, hay hơn nữa là cõi người của Nam Diêm Phù Đề (Nam Thiệm Bộ Châu) hay cõi Ta Bà của chúng ta đây để mà tu hành, mong cầu được giải thoát thành A-la-hán, Bồ Tát hay Phật; vì chỉ có cõi Ta Bà này mới có Phật pháp và chỉ chúng sinh ở cõi Ta Bà mới tu thành Phật mà thôi! Nếu xét kỹ như vậy, thì đâu có gì gọi là “mê tín dị đoan”. Vả lại, trong đời sống con người, đạo Phật phân tích tâm lý con người một cách rất là khoa học và đầy “tính lý luận” (logic) qua Duy Thức Học hay còn được gọi là “Tâm lý học Phật giáo” đến đỗi những nhà Phân Tâm Học nỗi tiếng trên thế giới cũng phải “sững sờ” thì sao gọi là mê tín dị đoan nhỉ?
Con người thực hiện theo đường tu của Đức Phật, một giáo pháp “Thiện” từ đầu chí cuối và ngay cả “đoạn giữa” nữa; một phương pháp giải thoát rất hệ thống và khoa học không mang tính chất “lừa đảo” từ nơi người giáo chủ lẫn giáo hội như nhiều tôn giáo khác đã làm, thì thế nào để gọi là “mê tín dị đoan”? Một tôn giáo chân thật, thiện hoàn toàn; một giáo pháp hoàn chỉnh; một đường lối tu để “hoàn thiện lấy chính mình” và xã hội; một chủ trương mọi chúng sinh đều như nhau, bình đẳng từ bản chất cho đến tính Phật, thì không thể là “mê tín dị đoan” được.
Vậy thì “mê tín dị đoan” từ đâu xâm nhập vào? Đây là vấn đề mà chúng ta cần cùng nhau phân tích, tìm hiểu tận ngọn nguồn để trả lại sự trong sáng cho Đạo Phật vậy!
**Người ta thường bảo rằng: “Đạo Phật là đạo cho người chết”, vì người ta thấy những nhà tu thường tụng niệm cho người chết. Nhưng người ta không nghĩ rằng mọi tôn giáo đều dành cho người chết, vì tôn giáo nào cũng đưa về cảnh tượng (dù là thực hay tưởng tượng của vị giáo chủ) vẫn dành cho người chết cả: Những thiên đàng, những hình ảnh tốt đẹp nhất nhằm đáp ứng cho sự mong muốn của người trần gian -trong cuộc sống đầy đau khổ- mà họ đã mơ ước. Điều này cũng khiến cho những giáo hội qua những người học cao, học rộng lại càng thêu dệt thêm để lừa đảo tín đồ của họ, lừa đảo những người thiếu nhận thức, suy nghĩ. Người ta đâu hiểu rằng: Theo đạo Phật, thần thức người chết trong trạng thái chơi vơi ấy cần đến sự câu thông, giúp đỡ của chư tăng (ni) và nhiều người để hỗ trợ tinh thần, đem Phật pháp đến với họ để họ được nhẹ nhàng và cũng nhờ đó như là ánh sáng để soi rọi con đường tốt hơn cho họ đi tới của một kiếp sau. Việc tụng niệm để cho những “tâm thức” người mất như vậy không phải là mê tín dị đoan, mà là một phương thức cứu độ những vong hồn đã chết. “Cầu siêu” cho những linh hồn để họ hiểu Phật pháp mà đi tái sinh, không còn lẩn quẩn trong cõi vô hình hay “làm ma” để đôi lúc phá phách người khác; và chính đó cũng là “cầu an” cho người sống vậy. Vẹn cả hai, cũng có ích cho cả hai! Tại sao lại gọi là “mê tín dị đoan”?
**Tục đốt vàng mã, cúng kiến. Điều này chúng ta nên nghiên cứu trở lại. Chúng tôi không nghĩ rằng Đạo Phật chủ trương điều ấy. Tuy nhiên, trong tín ngưỡng dân gian có những hiện tượng mà người ta không muốn tin cũng không thể được. Điều ấy qua những nhà ngoại cảm hiện nay, hay những ông đồng, bà bóng thực sự (chứ không phải giả) thì chúng ta cũng khó phủ nhận. Có những linh hồn vất vưỡng, lang thang thiếu đói, hiện hồn về báo mộng, hay qua các nhà ngoại cảm hoặc đồng, bóng để muốn cái này hay cần cái kia khiến cho người nhà phải cúng kiến, cung phụng như người đó khi còn sống. Từ đó trở thành một tập tục, cộng với “tinh thần hiếu thảo” của người Đông phương theo kiểu Nho giáo, lần nó xen vào trong hình thức tế lễ của Đạo Phật. Do đó, việc đốt vàng mã, xe hơi, nhà lầu bằng giấy… (đồ mã) thể theo yêu cầu của người nhà mà trở nên là “tập tục” của Đạo Phật; chứ thực ra trong Kinh Vu Lan Bồn, Đức Phật có đề cập đến:
Muốn cho cứu đặng mạng người
Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng
Pháp cứu tế Ta toan giải nói,
Cho mọi người thoát khỏi ách nàn.
Mười phương Tăng chỉ tụng kinh, hợp thần lực lại để giúp những linh hồn nghiệp chướng nặng được siêu thoát, chứ không đề cập gì đến vàng mã cả. Chắc chắn tập tục ấy không phải là của Đạo Phật mà chỉ là của tín ngưỡng dân gian pha trộn vào.
**Người ta cũng thường hay đề cập đến vấn đề cầu xin, xin xăm, xin keo,… Đây, theo chúng tôi nghĩ cũng là tập tục hay tín ngưỡng dân gian nữa thôi! Vì trong cuộc đời quá khổ, làm ăn có nhiều trở ngại... Cho nên trong dân chúng thường hay cầu xin vào những thần lực siêu nhiên nào đó để giúp đỡ. Họ được may mắn thành công, từ đó trở thành phong trào cầu xin đối với một bà chúa, hay ông thần … cũng như người ta đã hay cầu trời, và nay thêm “khẩn Phật” thế thôi! Tuy nhiên, riêng về Đức Bồ Tát Quán Thế Âm:
““Phật bảo ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: “Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sinh chịu các khổ não, nghe Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này một lòng xưng danh. Quán-Thế-Âm Bồ-Tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát” (Kinh Pháp Hoa, HT. Thích Trí Tịnh dịch, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản 1994, trang 493).
Hay:
“Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sinh, cho nên các ông phải một lòng cúng dàng Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.
Quán-Thế-Âm Đại Bồ-Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự vô úy, cho nên cõi Ta-Bà này đều gọi Ngài là vị Thí-Vô-Úy” (Kinh Pháp Hoa đã dẫn, trang 500)
Thì người ta cầu đến Bồ Tát Quán Thế Âm thì cũng hợp lý thôi!
Vì cầu với một lực siêu nhiên nên người ta không biết kết quả như thế nào, vì thế nhân gian bày ra “xin keo” để xác định ơn trên có đồng ý cho hay không? Hoặc ở một hình thức khác là “lắc xăm” rồi mới xin keo, để rồi người cầu xin hi vọng với điều cầu xin ấy mà sống với một niềm tin lạc quan yêu đời hơn!
** Coi ngày tháng tốt xấu, bói toán, tử vi, cúng sao, giải hạn: Có lẽ xác định đây không phải là công việc của những nhà sư; tuy nhiên chúng ta cũng có thể hiểu được rằng:
Ngày xưa, nếu nói về những người có nhiều Nho học thì không ai hơn những nhà sư ngoài các Thầy đồ và các Thầy thuốc. Bởi thế cho nên những nhà sư thường được dân gian nhờ coi trong lịch Tàu để biết những ngày nào tốt, xấu để dựng nhà, xây cất; dựng vợ gã chồng; đi xa; khai trương cửa tiệm… Mãi thành một thói quen. Rồi cũng với số vốn Nho học ấy, nhà tu có thích thú vào nghiên cứu Tử vi, Bói Toán, Bốc phệ, Dịch… thì đó đâu phải là Đạo Phật chủ trương mê tín dị đoan mà chỉ là do nhu cầu của dân gian mà nhà sư lại kiêm thêm vấn đề ấy. Chúng ta cũng nên hiểu đó không là của Đạo Phật! Đó là vấn đề cá nhân theo thị hiếu, yêu cầu của dân gian mà thôi!
Đồng thời với những môn đó, dân gian còn nhờ đến phương thức Cúng sao, giải hạn. Thực ra cúng sao giải hạn không phải của đạo Phật mà là công việc của những đạo sĩ (người tu theo đạo Lão). Nhưng đi tìm đạo sĩ không phải là dễ cho nên nó dần dần được dân gian nhờ đến cửa chùa và nhà chùa kiêm nhiệm, cho nên người ta tưởng chùa tạo cho dân gian thành mê tín dị đoan!
Đạo Phật là Đạo ra đời để hướng dẫn chúng sinh được Khai hóa với Trí Tuệ sẵn có của mình để giúp con người, chúng sinh đó tiến đến sự Giác Ngộ, thì tất nhiên Đạo Phật không thể đem điều mê tín dị đoan đến cho chúng sinh được. Nhưng trong quá trình phát triển, Đạo Phật khi đi vào dân gian bị “dân gian hóa” theo những tín ngưỡng của từng địa phương mà có ít nhiều biến thái hay thay đổi, để rồi qua thời gian dài, người ta cứ nghĩ là Đạo Phật là đạo mê tín dị đoan. Sự nghiên cứu nông cạn ngày nào đó, tất phải nhường bước cho sự thật và Chân lý của Đạo Phật mà những nhà nghiên cứu chân chính và khoa học hiện nay đang tìm hiểu, và nghiên cứu về Đạo Phật vậy!
Đã là Chân lý thì cho dù có bị xuyên tạc, bao giờ nó luôn vẫn là Chân lý!
Nguyên-Thảo,
29/6/2011.
Trong hệ phái Tiểu Thừa có thể vì còn giữ căn bản phương thức tu hành theo chân Đức Phật ngày xưa, nên sự biến đổi không nhiều và tập tục những xứ mà nó đã đi qua cũng không lưu lại những điều sâu đậm trong cách hành trì hay thể hiện, tu tập của người thực hành cũng như người tin tưởng nơi Đạo Phật.
Nhưng với phái Đại Thừa có nhiều vấn đề hơn, nhất là chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa cộng với tập tục dân gian của chúng ta xen lẫn vào.
Giáo lý Đạo Phật không đề cập đến vấn đề “mê tín dị đoan”, mà chỉ giải thích một cách biện chứng, có cơ sở trên đời sống con người. Sự quan trọng là mỗi con người đều có một bản thể riêng: Đó là tâm của mỗi chúng sinh. Trước kia, Tâm mỗi chúng sinh đều cùng “viên dung” (hòa hợp nhau như là một thể, một khối) ở trong cõi Chơn Tâm (cõi sau này khi tu hành đắc đạo trở về thì cõi đó được gọi là cõi Phật, hay Niết Bàn hoặc bằng những danh từ khác nhau), nhưng vì “không biết” (Vô Minh) tâm chúng sinh mới nảy ra “vọng tưởng” (mơ màng, mơ mộng huyễn ảo), và có ý “phân biệt” ta với người, chúng sinh khác; nên cõi Chơn Tâm ấy bị phá vỡ và Tâm mỗi chúng sinh mới mượn đến các Đại (đất, lửa, gió, nước) để làm thân và các giác quan; mượn Kiến đại để Thấy, nghe, hay, biết; và mượn Không đại để được tăng trưởng và lớn lên. Từ khi có thân xác, những nhu cầu nuôi thân, hưởng thụ khiến cho chúng sinh đi vào “Sát, đạo, dâm, vọng” gây những nghiệp ác, cùng với Thiện và “Vô ký” (không thiện, không ác); nhu cầu càng cao thì càng muốn thêm (ái dục; tham), không được thì “sân”, sân quá thì trở nên mê muội (si) để gây nghiệp ác từ Thân, Khẩu, Ý. Gây nghiệp tức là tạo “nhân” để rồi ngay trong kiếp hiện tiền nhận quả, hoặc là trong kiếp sau hay trong những kiếp lâu dài về sau.
Tùy theo những nhân tốt hay xấu nào trong kiếp kế tiếp sẽ đồng loạt trổ “quả”, cộng với nguyện lực (ý nguyện dũng mãnh trước và ngay lúc lâm chung) thì sẽ định con đường đi của sự tái sinh trong sáu nẽo Luân hồi (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, A-tu-la, Người, Trời). Khi chết rồi, nhưng đợi chờ để đi sang một kiếp khác được gọi là thân Trung ấm. Nếu Tâm người chết không luyến lưu hay do sự thù hằn nào “níu chân” thì họ sẽ đi đầu thai ở một thân xác khác; bằng không họ cứ lởn vởn, chập chờn trong một cõi vô hình đợi giải quyết xong rồi mới đi. Trong quá trình dài về số kiếp nếu ai có nhiều phước báu thì được sinh vào cõi Trời, hay hơn nữa là cõi người của Nam Diêm Phù Đề (Nam Thiệm Bộ Châu) hay cõi Ta Bà của chúng ta đây để mà tu hành, mong cầu được giải thoát thành A-la-hán, Bồ Tát hay Phật; vì chỉ có cõi Ta Bà này mới có Phật pháp và chỉ chúng sinh ở cõi Ta Bà mới tu thành Phật mà thôi! Nếu xét kỹ như vậy, thì đâu có gì gọi là “mê tín dị đoan”. Vả lại, trong đời sống con người, đạo Phật phân tích tâm lý con người một cách rất là khoa học và đầy “tính lý luận” (logic) qua Duy Thức Học hay còn được gọi là “Tâm lý học Phật giáo” đến đỗi những nhà Phân Tâm Học nỗi tiếng trên thế giới cũng phải “sững sờ” thì sao gọi là mê tín dị đoan nhỉ?
Con người thực hiện theo đường tu của Đức Phật, một giáo pháp “Thiện” từ đầu chí cuối và ngay cả “đoạn giữa” nữa; một phương pháp giải thoát rất hệ thống và khoa học không mang tính chất “lừa đảo” từ nơi người giáo chủ lẫn giáo hội như nhiều tôn giáo khác đã làm, thì thế nào để gọi là “mê tín dị đoan”? Một tôn giáo chân thật, thiện hoàn toàn; một giáo pháp hoàn chỉnh; một đường lối tu để “hoàn thiện lấy chính mình” và xã hội; một chủ trương mọi chúng sinh đều như nhau, bình đẳng từ bản chất cho đến tính Phật, thì không thể là “mê tín dị đoan” được.
Vậy thì “mê tín dị đoan” từ đâu xâm nhập vào? Đây là vấn đề mà chúng ta cần cùng nhau phân tích, tìm hiểu tận ngọn nguồn để trả lại sự trong sáng cho Đạo Phật vậy!
**Người ta thường bảo rằng: “Đạo Phật là đạo cho người chết”, vì người ta thấy những nhà tu thường tụng niệm cho người chết. Nhưng người ta không nghĩ rằng mọi tôn giáo đều dành cho người chết, vì tôn giáo nào cũng đưa về cảnh tượng (dù là thực hay tưởng tượng của vị giáo chủ) vẫn dành cho người chết cả: Những thiên đàng, những hình ảnh tốt đẹp nhất nhằm đáp ứng cho sự mong muốn của người trần gian -trong cuộc sống đầy đau khổ- mà họ đã mơ ước. Điều này cũng khiến cho những giáo hội qua những người học cao, học rộng lại càng thêu dệt thêm để lừa đảo tín đồ của họ, lừa đảo những người thiếu nhận thức, suy nghĩ. Người ta đâu hiểu rằng: Theo đạo Phật, thần thức người chết trong trạng thái chơi vơi ấy cần đến sự câu thông, giúp đỡ của chư tăng (ni) và nhiều người để hỗ trợ tinh thần, đem Phật pháp đến với họ để họ được nhẹ nhàng và cũng nhờ đó như là ánh sáng để soi rọi con đường tốt hơn cho họ đi tới của một kiếp sau. Việc tụng niệm để cho những “tâm thức” người mất như vậy không phải là mê tín dị đoan, mà là một phương thức cứu độ những vong hồn đã chết. “Cầu siêu” cho những linh hồn để họ hiểu Phật pháp mà đi tái sinh, không còn lẩn quẩn trong cõi vô hình hay “làm ma” để đôi lúc phá phách người khác; và chính đó cũng là “cầu an” cho người sống vậy. Vẹn cả hai, cũng có ích cho cả hai! Tại sao lại gọi là “mê tín dị đoan”?
**Tục đốt vàng mã, cúng kiến. Điều này chúng ta nên nghiên cứu trở lại. Chúng tôi không nghĩ rằng Đạo Phật chủ trương điều ấy. Tuy nhiên, trong tín ngưỡng dân gian có những hiện tượng mà người ta không muốn tin cũng không thể được. Điều ấy qua những nhà ngoại cảm hiện nay, hay những ông đồng, bà bóng thực sự (chứ không phải giả) thì chúng ta cũng khó phủ nhận. Có những linh hồn vất vưỡng, lang thang thiếu đói, hiện hồn về báo mộng, hay qua các nhà ngoại cảm hoặc đồng, bóng để muốn cái này hay cần cái kia khiến cho người nhà phải cúng kiến, cung phụng như người đó khi còn sống. Từ đó trở thành một tập tục, cộng với “tinh thần hiếu thảo” của người Đông phương theo kiểu Nho giáo, lần nó xen vào trong hình thức tế lễ của Đạo Phật. Do đó, việc đốt vàng mã, xe hơi, nhà lầu bằng giấy… (đồ mã) thể theo yêu cầu của người nhà mà trở nên là “tập tục” của Đạo Phật; chứ thực ra trong Kinh Vu Lan Bồn, Đức Phật có đề cập đến:
Muốn cho cứu đặng mạng người
Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng
Pháp cứu tế Ta toan giải nói,
Cho mọi người thoát khỏi ách nàn.
Mười phương Tăng chỉ tụng kinh, hợp thần lực lại để giúp những linh hồn nghiệp chướng nặng được siêu thoát, chứ không đề cập gì đến vàng mã cả. Chắc chắn tập tục ấy không phải là của Đạo Phật mà chỉ là của tín ngưỡng dân gian pha trộn vào.
**Người ta cũng thường hay đề cập đến vấn đề cầu xin, xin xăm, xin keo,… Đây, theo chúng tôi nghĩ cũng là tập tục hay tín ngưỡng dân gian nữa thôi! Vì trong cuộc đời quá khổ, làm ăn có nhiều trở ngại... Cho nên trong dân chúng thường hay cầu xin vào những thần lực siêu nhiên nào đó để giúp đỡ. Họ được may mắn thành công, từ đó trở thành phong trào cầu xin đối với một bà chúa, hay ông thần … cũng như người ta đã hay cầu trời, và nay thêm “khẩn Phật” thế thôi! Tuy nhiên, riêng về Đức Bồ Tát Quán Thế Âm:
““Phật bảo ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: “Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sinh chịu các khổ não, nghe Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này một lòng xưng danh. Quán-Thế-Âm Bồ-Tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát” (Kinh Pháp Hoa, HT. Thích Trí Tịnh dịch, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản 1994, trang 493).
Hay:
“Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sinh, cho nên các ông phải một lòng cúng dàng Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.
Quán-Thế-Âm Đại Bồ-Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự vô úy, cho nên cõi Ta-Bà này đều gọi Ngài là vị Thí-Vô-Úy” (Kinh Pháp Hoa đã dẫn, trang 500)
Thì người ta cầu đến Bồ Tát Quán Thế Âm thì cũng hợp lý thôi!
Vì cầu với một lực siêu nhiên nên người ta không biết kết quả như thế nào, vì thế nhân gian bày ra “xin keo” để xác định ơn trên có đồng ý cho hay không? Hoặc ở một hình thức khác là “lắc xăm” rồi mới xin keo, để rồi người cầu xin hi vọng với điều cầu xin ấy mà sống với một niềm tin lạc quan yêu đời hơn!
** Coi ngày tháng tốt xấu, bói toán, tử vi, cúng sao, giải hạn: Có lẽ xác định đây không phải là công việc của những nhà sư; tuy nhiên chúng ta cũng có thể hiểu được rằng:
Ngày xưa, nếu nói về những người có nhiều Nho học thì không ai hơn những nhà sư ngoài các Thầy đồ và các Thầy thuốc. Bởi thế cho nên những nhà sư thường được dân gian nhờ coi trong lịch Tàu để biết những ngày nào tốt, xấu để dựng nhà, xây cất; dựng vợ gã chồng; đi xa; khai trương cửa tiệm… Mãi thành một thói quen. Rồi cũng với số vốn Nho học ấy, nhà tu có thích thú vào nghiên cứu Tử vi, Bói Toán, Bốc phệ, Dịch… thì đó đâu phải là Đạo Phật chủ trương mê tín dị đoan mà chỉ là do nhu cầu của dân gian mà nhà sư lại kiêm thêm vấn đề ấy. Chúng ta cũng nên hiểu đó không là của Đạo Phật! Đó là vấn đề cá nhân theo thị hiếu, yêu cầu của dân gian mà thôi!
Đồng thời với những môn đó, dân gian còn nhờ đến phương thức Cúng sao, giải hạn. Thực ra cúng sao giải hạn không phải của đạo Phật mà là công việc của những đạo sĩ (người tu theo đạo Lão). Nhưng đi tìm đạo sĩ không phải là dễ cho nên nó dần dần được dân gian nhờ đến cửa chùa và nhà chùa kiêm nhiệm, cho nên người ta tưởng chùa tạo cho dân gian thành mê tín dị đoan!
Đạo Phật là Đạo ra đời để hướng dẫn chúng sinh được Khai hóa với Trí Tuệ sẵn có của mình để giúp con người, chúng sinh đó tiến đến sự Giác Ngộ, thì tất nhiên Đạo Phật không thể đem điều mê tín dị đoan đến cho chúng sinh được. Nhưng trong quá trình phát triển, Đạo Phật khi đi vào dân gian bị “dân gian hóa” theo những tín ngưỡng của từng địa phương mà có ít nhiều biến thái hay thay đổi, để rồi qua thời gian dài, người ta cứ nghĩ là Đạo Phật là đạo mê tín dị đoan. Sự nghiên cứu nông cạn ngày nào đó, tất phải nhường bước cho sự thật và Chân lý của Đạo Phật mà những nhà nghiên cứu chân chính và khoa học hiện nay đang tìm hiểu, và nghiên cứu về Đạo Phật vậy!
Đã là Chân lý thì cho dù có bị xuyên tạc, bao giờ nó luôn vẫn là Chân lý!
Nguyên-Thảo,
29/6/2011.
Tuesday, September 13, 2011
Đạo Phật 24: Thế Giới Cõi Âm!
Có hay không có một thế giới cõi âm? Điều đó trước kia chắc chúng ta còn phải ngập ngừng để nói là có hay không? Tuy nhiên trong những thời gian gần đây với những hiện tượng của các nhà ngoại cảm liên hệ được với những “Linh Hồn” (tạm gọi là như thế) của người chết, để giúp gia đình tìm được thân xác của họ; hay làm một vài điều gì đó. Điều ấy khiến người ta phải đặt lại vấn đề: “Mê tín dị đoan” hay “là một sự thật huyền bí”, hoặc một môn “cận tâm lý” ra đời!
Đã từ lâu, người ta đã nói nhiều đến một cõi âm; nhưng người thì tin tưởng rằng có thế giới cõi âm, còn những người chẳng hề gặp “ma” bao giờ thì họ cho rằng không có! Chính vì thế mà những người đồng bóng, hay những người làm nghề liên hệ đến cõi âm được xem như là làm nghề “mê tín dị đoan”! Nhưng dù gì trong dân gian vẫn không thể xóa được những điều kỳ lạ mà họ không thể giải thích được. Đó là nguyên nhân cho những tín ngưỡng dân gian được phổ quát cho đến ngày hôm nay:
Một linh hồn bị chết oan hiện về báo mộng cho người nhà để người nhà đi lấy xác về chôn. Một người bị bệnh, tưởng chết đi nhưng khi sống lại lại có khả năng kỳ lạ tiếp xúc với người cõi âm. Hay một người nọ bỗng dưng sau cơn bệnh lại trị bệnh cho người bằng nước lạnh. Đôi khi người chết lại báo mộng cho người nhà mình bị đói rách cần cơm ăn, áo mặc… Những điều kỳ lạ đó đã khiến cho người đời đôi lúc “không tin cũng không được”! Chính chúng là đầu mối của những tín ngưỡng mà dân gian đã duy trì trong thời gian thật là dài mà trong xã hội về sau này thấy có vẻ phản khoa học nên gọi là “mê tín dị đoan”!
Những hiện tượng “siêu hình” đó khiến cho con người ngày xưa không thể giải thích nỗi; cũng như những hiện tượng “mượn xác” lên đồng để trị bệnh hay giúp thân nhân liên hệ đến người đã khuất; Và những “bà cô”, “ông cậu” nhập thể vào thân xác người khác tự xưng là người này hay người nọ để “độ đời, cứu người”, là những nguyên nhân để đưa đến “tín ngưỡng dân gian”. Và với tín ngưỡng dân gian này đã đưa con người tin tưởng vào những vị “siêu nhiên” nào đó, hay những vị thần như thần sông, thần núi… và xa hơn nữa là đến ông thần độc quyền mà tượng trưng là “mặt trời” như: Thượng Đế, Ông Trời, hay Đức Chúa Trời chẳng hạn! Hay nói một cách khác, chính những hiện tượng đó bắt đầu cho một số tôn giáo được thành hình!
Nhưng nếu khi chúng ta cho rằng: Đấng nào đó toàn thiện, toàn năng… mà Đấng ấy đã tạo ra sóng thần, động đất, thiên tai, dịch bệnh, hồng thủy, bão lụt… để sát hại sinh linh; thì hóa ra Đấng ấy lại cũng là một Đấng tàn ác vô tiền khoáng hậu, chứ không là thiện như những người thừa hành hay giáo hội đã tuyên xưng; những điều thuyết giảng đó chỉ là ma mị để lừa đảo người khác, tín đồ!
Đạo Phật thì không như vậy! Đạo Phật không là đạo “mê tín dị đoan” như người ta lầm tưởng; nhưng nó có thể giải thích thỏa đáng được những thắc mắc về siêu hình mà trong dân gian đã gặp phải. Đối với những tôn giáo khác không có luận cứ nào để giải thích được, vì nếu một Đấng Tạo Hóa tạo ra loài người, cho họ sống trong một đời và họ lại sống, hành động theo ý muốn của Đấng đó thì thật là khó giải thích khi con người trở nên ác, và Đấng Tối Cao ấy trở nên là Đấng có tàn ác lẫn thiện lành… Nếu một tôn giáo không mang “được” tính chất Chân, Thiện, Mỹ thì tôn giáo ấy đã chẳng phải là Tôn giáo nữa; mà chỉ là một tổ chức, một giáo hội lừa phĩnh, lợi dụng tôn giáo để thực hiện một âm mưu hay ý đồ nào đó của con người, dù nó được mang tính chất địa phương hay trên toàn thế giới!
Nếu chúng ta lấy giáo lý để suy niệm về “thế giới cõi âm” thì có lẽ không mấy tôn giáo trên thế gian này có thể giải thích nỗi, ngoại trừ chỉ có Đạo Phật mà thôi!
Theo như chúng ta đã biết, sau khi chứng đạo, Đức Phật đã dùng đến Phật nhãn để nhìn trong vũ trụ, nhận thức và thuyết giảng về những thế giới, cõi Phật khác cũng như kể lại những câu chuyện trong thời quá khứ, hiện tại hay vị lai như trong Kinh điển đã ghi.
Đức Phật đã cho biết trong Luân hồi có nhiều chúng sinh “vô sắc giới” ở cõi Trời, cõi A-tu-la, Địa ngục, Ngạ quỷ. Tức là cõi “vô hình” có nhiều chúng sinh hơn cõi “hữu hình” như người và súc sinh. Vậy thì chúng sinh nào trong “thế giới cõi âm”?
Có lẽ, chúng ta nên phân biệt thế giới thần quyền của những chúng sinh trong cõi trời và đôi khi từ thế giới A-tu-la nữa. Đó là những vị “nhập xác” vào chúng sinh nào đó để thực hiện mục đích cứu người, độ đời mà những “xác” đó đã thực hiện với những việc làm cao quý, từ tâm và thiện lành, không tư lợi vì những ước nguyện, hay hạnh nguyện của chúng sinh “mượn xác” đó đã phát nguyện như vậy.
Còn những chúng sinh trong cõi địa ngục, ngạ quỷ thì họ đang chịu những hình phạt triền miên do họ “chiêu cảm”, vì những hành động họ đã làm trong những kiếp trước thì họ không thể thoát ra được để mà họ có mặt trong cõi âm, như trong Kinh Địa Tạng có ghi:
“Ngài Địa Tạng Bồ Tát nói với Ngài Phổ Hiền Bồ Tát rằng: “Thưa Nhơn Giả! Đó đều là do chúng sanh trong cõi Diêm-Phù-Đề làm những điều ác mà tùy nghiệp chiêu cảm ra những địa ngục như thế.
Nghiệp lực rất lớn, có thể sánh với núi Tu-Di, có thể sâu dường biển cả, có thể ngăn đạo thánh.
Vì thế chúng sanh chớ khinh điều quấy nhỏ mà cho là không tội, sau khi chết đều có quả báo dầu đến mảy mún đều phải chịu lấy” (Kinh Địa Tạng, HT Thích-Trí-Tịnh dịch, Chùa Pháp Bảo- Sydney ấn tống 1994, trang 80-81).
Hay:
“Nhơn giả! Những quả báo như thế trong mỗi mỗi ngục có trăm nghìn thứ khí cụ để hành hình, đều là bằng đồng, bằng sắt, bằng đá, bằng lửa. Bốn loại khí cụ nầy do các hạnh nghiệp quấy ác của chúng sanh mà cảm vời ra” (Kinh Địa Tạng đã dẫn, trang 83).
Như vậy, những chúng sinh trong “thế giới cõi âm” từ đâu mà có? Họ có những lúc hiện ra để làm cho người khác phải sợ; hoặc bắt người sống phải làm theo ý mình, nếu không thì hành hạ người đó trong một tinh thần ích kỷ, phá phách… Họ là những ai?
Chúng ta hay nghe người nhân gian phân biệt “cõi âm” và “cõi dương”. Cõi dương hay là dương thế là cõi của con người đang sống, cõi ban ngày ; và “cõi âm” là cõi của người chết hay cõi lạnh lẽo, ban đêm mà người đã chết thường hay xuất hiện ra với hình dáng ảo ảo, hư hư. Thông thường, những chúng sinh bị chết thình lình, những người lính chiến chết trên trận mạc, chết sông nước, tai nạn trên đường sá, hay oan ức, bị hại… người ta mệnh danh là những “cô hồn, các đảng” và người ta cũng tin tưởng những “oan hồn” của người ấy chưa được siêu thoát nên vẫn lẩn quẩn trong thế gian, vương vấn cõi hồng trần. Đôi lúc họ lại hiện ra để làm cho người sống phải sợ sệt; và có những lúc nhu cầu phụng dưỡng, thiếu đói nên họ cần thiết nhu cầu đòi hỏi qua những đồng, bóng để rồi trong thế gian có những “thầy cúng” cùng với vàng mã; vàng mã cũng theo thời đại mà tăng tiến từ nhà tô, đến nhà lầu, xe hơi, điện thoại, máy bay cùng giấy tiền vàng bạc, quần áo giấy… để đốt, mong cho người chết nhận được mà không phải thiếu thốn, lạnh lẽo trong thế giới của người cõi âm. Từ những tín ngưỡng nhân gian này mà trước kia người đời đã phân tu sĩ Phật giáo thành: Thầy tụng (thầy cúng) và thầy chùa. Ngày nay, với tinh thần và đường lối tu được hiểu rõ hơn, cũng như trình độ tăng sĩ được nâng cao; cho nên chuyện tu hành, làm Phật sự và cầu cho vong linh người chết được siêu thoát đã làm thay đổi khá nhiều quan niệm của người thế gian đối với Đạo Phật ở nước ta.
Và trong sự giao tiếp với người “cõi âm” của các nhà ngoại cảm có đề cập đến những vị đã chết lâu đời, nhưng vong linh vẫn chưa siêu thoát; cho nên nhà ngoại cảm hãy còn tiếp xúc được. Vậy thì, tại sao?
Trên nguyên tắc, sau 49 ngày vong linh người chết đi tìm một thân xác mới thành hình để chuyển sang một kiếp khác, tiếp nối những “quả” mà mình đã gây “nhân” ở kiếp vừa rồi hay “nhân” còn lại của những kiếp xa xưa. Trong thời gian đó, vong linh được gọi là “thân trung ấm”, tức là “thần thức” của xác trước đã mất và đang đợi chờ thân xác mới để “nhập thai” bắt đầu cho một kiếp sau. Nguyên tắc thì như thế! Nhưng trong Đạo Phật có đề cập đến “Cận Tử Nghiệp” và “Nguyện lực”. Hai vấn đề này rất quan trọng đối với một con người trước và khi lâm chung. Giả sử trước khi chết người ta còn nghĩ đến con cái còn nhỏ “cần” được săn sóc, và trong khi chết họ nghĩ họ “phải” săn sóc cho con; và “nguyện lực” bám theo con. Chính nguyện lực ấy mà họ không nỡ rời xa, và “thần thức” hay “thân trung ấm” của họ không đành đi, để rồi họ lẩn quẩn không biết đến bao giờ. Khi nào họ xong để ra đi? Cho nên có thể cả trăm năm sau của thế gian, họ vẫn còn có thể nhận ra con cháu qua những nhà ngoại cảm, ông đồng hay bà bóng!
Cho nên, Đức Phật đã giảng giải: “Trong vô lượng kiếp, chúng sinh đã từng là thân thuộc, cha mẹ lẫn nhau” nên sự luyến lưu, ân nghĩa, ganh ghét hay hận thù chỉ là kết nặng giây oan trái, gắn bó khiến cho người chết không nỡ phải ra đi; điều ấy chỉ làm cho người chết càng kéo dài thêm thời gian luân hồi của chính mình. Trong Đạo Phật không đề cập đến phải khóc lóc than van vì sinh, tử là vấn đề tự nhiên của con người. Khóc lóc, kể lễ thảm thiết, làm ra vẻ ưu sầu là theo tập tục báo hiếu của con cái đối với cha mẹ trong Đạo Khổng (Nho giáo), chứ trong Đạo Phật thì:
“Thần hồn người chết đó khi chưa được thọ sanh, ở trong bốn mươi chín ngày, luôn luôn trông ngóng hàng cốt nhục thân quyến tu tạo phước lành để cứu vớt cho”. (Kinh Địa Tạng đã dẫn, trang 111).
Và:
“Hàng thân quyến của người lâm chung đó, nên phải sắm sửa làm sự cúng dường lớn, tụng đọc Tôn kinh, niệm danh hiệu của Phật và Bồ Tát, tu tạo nhân duyên phúc lành như thế, có thể cho người chết thoát khỏi chốn ác đạo, các thứ ma, quỉ, ác thần thảy đều phải lui tan cả hết”. (Kinh Địa Tạng đã dẫn, trang 127-128).
Hay:
“Như có người nào sắp mạng chung, hàng thân quyến trong nhà nhẫn đến một người vì người bịnh sắp chết đó mà niệm lớn tiếng danh hiệu của một Đức Phật, thời người chết đó, trừ năm tội lớn vô gián, các nghiệp báo khác đều tiêu sạch cả.
Năm tội lớn vô gián kia dầu rất nặng nề đáng lẽ trải qua ức kiếp hẳn không ra khỏi đặng quả khổ, nhưng bỡi lúc lâm chung, nhờ người khác vì đó mà xưng niệm danh hiệu của Phật cho nên những tội nặng đó cũng lần lần tiêu sạch.
Huống là chúng sanh tự mình xưng danh hiệu của chư Phật, người nầy đặng vô lượng phước lành, trừ diệt vô lượng khổ”. (Kinh Địa Tạng đã dẫn, trang 137-138).
Và Ngài Địa Tạng Bồ Tát cũng bạch cùng Đức Phật rằng:
“Vì lẽ trên đó nên nay con đối trước Đức Phật Thế Tôn cùng với hàng Trời, Rồng, tám bộ chúng, người với phi nhơn vv… mà có lời khuyên bảo những chúng sanh trong cõi Diêm-Phù-Đề, ngày lâm chung, kẻ thân thuộc phải cẩn thận chớ có giết hại và chớ gây tạo nghiệp duyên chẳng lành, cũng đừng tế lễ Quỉ, Thần, cầu cúng ma quái.
Vì sao thế? Vì việc giết hại cho đến tế lễ đó, không có một mảy mún chi lợi ích cho người chết cả, chỉ có kết thêm tội duyên của người đó làm cho càng thêm sâu nặng hơn thôi”. (Kinh Địa Tạng đã dẫn, trang 106).
Vì, Ngài Địa Tạng giải thích như sau:
“Hàng thân thuộc nỡ nào lại làm cho tội nghiệp của người ấy nặng thêm!
Cũng ví như, có người từ xứ xa đến, tuyệt lương thực đã ba ngày, đồ vật của người đó mang vác nặng hơn trăm cân, bỗng gặp kẻ lân cận lại gởi một ít đồ vật nữa, vì vậy mà người xứ xa đó càng phải khốn khổ nặng nề thêm”. (Kinh Địa Tạng đã dẫn, trang 107).
Theo như vậy, “Thế giới cõi âm” chỉ là thời gian kéo dài “Thân trung ấm” của những chúng sinh đã mất đi, do vì sự luyến lưu, yêu mến những gì mình chưa thể xa lìa hay kết tụ những thù hằn, oán ghét mà mình chưa xóa được; hoặc vì “yêu quá cuộc đời, thân xác” này; hay là người thân “van nài, luyến lưu” làm họ chưa muốn ra đi, chưa muốn rời dòng sông đã chơi, để đi tìm một thân xác khác tái sinh. Họ cứ lởn vởn, khi ẩn khi hiện mà người dân gian gọi là “ma”; hay họ phá phách, dữ tợn hơn thì gọi là “quỷ”. Đó là thế giới “ma quỷ” hay là thế giới của “Cõi âm” vậy!
Nguyên Thảo,
7/8/2011.
Đã từ lâu, người ta đã nói nhiều đến một cõi âm; nhưng người thì tin tưởng rằng có thế giới cõi âm, còn những người chẳng hề gặp “ma” bao giờ thì họ cho rằng không có! Chính vì thế mà những người đồng bóng, hay những người làm nghề liên hệ đến cõi âm được xem như là làm nghề “mê tín dị đoan”! Nhưng dù gì trong dân gian vẫn không thể xóa được những điều kỳ lạ mà họ không thể giải thích được. Đó là nguyên nhân cho những tín ngưỡng dân gian được phổ quát cho đến ngày hôm nay:
Một linh hồn bị chết oan hiện về báo mộng cho người nhà để người nhà đi lấy xác về chôn. Một người bị bệnh, tưởng chết đi nhưng khi sống lại lại có khả năng kỳ lạ tiếp xúc với người cõi âm. Hay một người nọ bỗng dưng sau cơn bệnh lại trị bệnh cho người bằng nước lạnh. Đôi khi người chết lại báo mộng cho người nhà mình bị đói rách cần cơm ăn, áo mặc… Những điều kỳ lạ đó đã khiến cho người đời đôi lúc “không tin cũng không được”! Chính chúng là đầu mối của những tín ngưỡng mà dân gian đã duy trì trong thời gian thật là dài mà trong xã hội về sau này thấy có vẻ phản khoa học nên gọi là “mê tín dị đoan”!
Những hiện tượng “siêu hình” đó khiến cho con người ngày xưa không thể giải thích nỗi; cũng như những hiện tượng “mượn xác” lên đồng để trị bệnh hay giúp thân nhân liên hệ đến người đã khuất; Và những “bà cô”, “ông cậu” nhập thể vào thân xác người khác tự xưng là người này hay người nọ để “độ đời, cứu người”, là những nguyên nhân để đưa đến “tín ngưỡng dân gian”. Và với tín ngưỡng dân gian này đã đưa con người tin tưởng vào những vị “siêu nhiên” nào đó, hay những vị thần như thần sông, thần núi… và xa hơn nữa là đến ông thần độc quyền mà tượng trưng là “mặt trời” như: Thượng Đế, Ông Trời, hay Đức Chúa Trời chẳng hạn! Hay nói một cách khác, chính những hiện tượng đó bắt đầu cho một số tôn giáo được thành hình!
Nhưng nếu khi chúng ta cho rằng: Đấng nào đó toàn thiện, toàn năng… mà Đấng ấy đã tạo ra sóng thần, động đất, thiên tai, dịch bệnh, hồng thủy, bão lụt… để sát hại sinh linh; thì hóa ra Đấng ấy lại cũng là một Đấng tàn ác vô tiền khoáng hậu, chứ không là thiện như những người thừa hành hay giáo hội đã tuyên xưng; những điều thuyết giảng đó chỉ là ma mị để lừa đảo người khác, tín đồ!
Đạo Phật thì không như vậy! Đạo Phật không là đạo “mê tín dị đoan” như người ta lầm tưởng; nhưng nó có thể giải thích thỏa đáng được những thắc mắc về siêu hình mà trong dân gian đã gặp phải. Đối với những tôn giáo khác không có luận cứ nào để giải thích được, vì nếu một Đấng Tạo Hóa tạo ra loài người, cho họ sống trong một đời và họ lại sống, hành động theo ý muốn của Đấng đó thì thật là khó giải thích khi con người trở nên ác, và Đấng Tối Cao ấy trở nên là Đấng có tàn ác lẫn thiện lành… Nếu một tôn giáo không mang “được” tính chất Chân, Thiện, Mỹ thì tôn giáo ấy đã chẳng phải là Tôn giáo nữa; mà chỉ là một tổ chức, một giáo hội lừa phĩnh, lợi dụng tôn giáo để thực hiện một âm mưu hay ý đồ nào đó của con người, dù nó được mang tính chất địa phương hay trên toàn thế giới!
Nếu chúng ta lấy giáo lý để suy niệm về “thế giới cõi âm” thì có lẽ không mấy tôn giáo trên thế gian này có thể giải thích nỗi, ngoại trừ chỉ có Đạo Phật mà thôi!
Theo như chúng ta đã biết, sau khi chứng đạo, Đức Phật đã dùng đến Phật nhãn để nhìn trong vũ trụ, nhận thức và thuyết giảng về những thế giới, cõi Phật khác cũng như kể lại những câu chuyện trong thời quá khứ, hiện tại hay vị lai như trong Kinh điển đã ghi.
Đức Phật đã cho biết trong Luân hồi có nhiều chúng sinh “vô sắc giới” ở cõi Trời, cõi A-tu-la, Địa ngục, Ngạ quỷ. Tức là cõi “vô hình” có nhiều chúng sinh hơn cõi “hữu hình” như người và súc sinh. Vậy thì chúng sinh nào trong “thế giới cõi âm”?
Có lẽ, chúng ta nên phân biệt thế giới thần quyền của những chúng sinh trong cõi trời và đôi khi từ thế giới A-tu-la nữa. Đó là những vị “nhập xác” vào chúng sinh nào đó để thực hiện mục đích cứu người, độ đời mà những “xác” đó đã thực hiện với những việc làm cao quý, từ tâm và thiện lành, không tư lợi vì những ước nguyện, hay hạnh nguyện của chúng sinh “mượn xác” đó đã phát nguyện như vậy.
Còn những chúng sinh trong cõi địa ngục, ngạ quỷ thì họ đang chịu những hình phạt triền miên do họ “chiêu cảm”, vì những hành động họ đã làm trong những kiếp trước thì họ không thể thoát ra được để mà họ có mặt trong cõi âm, như trong Kinh Địa Tạng có ghi:
“Ngài Địa Tạng Bồ Tát nói với Ngài Phổ Hiền Bồ Tát rằng: “Thưa Nhơn Giả! Đó đều là do chúng sanh trong cõi Diêm-Phù-Đề làm những điều ác mà tùy nghiệp chiêu cảm ra những địa ngục như thế.
Nghiệp lực rất lớn, có thể sánh với núi Tu-Di, có thể sâu dường biển cả, có thể ngăn đạo thánh.
Vì thế chúng sanh chớ khinh điều quấy nhỏ mà cho là không tội, sau khi chết đều có quả báo dầu đến mảy mún đều phải chịu lấy” (Kinh Địa Tạng, HT Thích-Trí-Tịnh dịch, Chùa Pháp Bảo- Sydney ấn tống 1994, trang 80-81).
Hay:
“Nhơn giả! Những quả báo như thế trong mỗi mỗi ngục có trăm nghìn thứ khí cụ để hành hình, đều là bằng đồng, bằng sắt, bằng đá, bằng lửa. Bốn loại khí cụ nầy do các hạnh nghiệp quấy ác của chúng sanh mà cảm vời ra” (Kinh Địa Tạng đã dẫn, trang 83).
Như vậy, những chúng sinh trong “thế giới cõi âm” từ đâu mà có? Họ có những lúc hiện ra để làm cho người khác phải sợ; hoặc bắt người sống phải làm theo ý mình, nếu không thì hành hạ người đó trong một tinh thần ích kỷ, phá phách… Họ là những ai?
Chúng ta hay nghe người nhân gian phân biệt “cõi âm” và “cõi dương”. Cõi dương hay là dương thế là cõi của con người đang sống, cõi ban ngày ; và “cõi âm” là cõi của người chết hay cõi lạnh lẽo, ban đêm mà người đã chết thường hay xuất hiện ra với hình dáng ảo ảo, hư hư. Thông thường, những chúng sinh bị chết thình lình, những người lính chiến chết trên trận mạc, chết sông nước, tai nạn trên đường sá, hay oan ức, bị hại… người ta mệnh danh là những “cô hồn, các đảng” và người ta cũng tin tưởng những “oan hồn” của người ấy chưa được siêu thoát nên vẫn lẩn quẩn trong thế gian, vương vấn cõi hồng trần. Đôi lúc họ lại hiện ra để làm cho người sống phải sợ sệt; và có những lúc nhu cầu phụng dưỡng, thiếu đói nên họ cần thiết nhu cầu đòi hỏi qua những đồng, bóng để rồi trong thế gian có những “thầy cúng” cùng với vàng mã; vàng mã cũng theo thời đại mà tăng tiến từ nhà tô, đến nhà lầu, xe hơi, điện thoại, máy bay cùng giấy tiền vàng bạc, quần áo giấy… để đốt, mong cho người chết nhận được mà không phải thiếu thốn, lạnh lẽo trong thế giới của người cõi âm. Từ những tín ngưỡng nhân gian này mà trước kia người đời đã phân tu sĩ Phật giáo thành: Thầy tụng (thầy cúng) và thầy chùa. Ngày nay, với tinh thần và đường lối tu được hiểu rõ hơn, cũng như trình độ tăng sĩ được nâng cao; cho nên chuyện tu hành, làm Phật sự và cầu cho vong linh người chết được siêu thoát đã làm thay đổi khá nhiều quan niệm của người thế gian đối với Đạo Phật ở nước ta.
Và trong sự giao tiếp với người “cõi âm” của các nhà ngoại cảm có đề cập đến những vị đã chết lâu đời, nhưng vong linh vẫn chưa siêu thoát; cho nên nhà ngoại cảm hãy còn tiếp xúc được. Vậy thì, tại sao?
Trên nguyên tắc, sau 49 ngày vong linh người chết đi tìm một thân xác mới thành hình để chuyển sang một kiếp khác, tiếp nối những “quả” mà mình đã gây “nhân” ở kiếp vừa rồi hay “nhân” còn lại của những kiếp xa xưa. Trong thời gian đó, vong linh được gọi là “thân trung ấm”, tức là “thần thức” của xác trước đã mất và đang đợi chờ thân xác mới để “nhập thai” bắt đầu cho một kiếp sau. Nguyên tắc thì như thế! Nhưng trong Đạo Phật có đề cập đến “Cận Tử Nghiệp” và “Nguyện lực”. Hai vấn đề này rất quan trọng đối với một con người trước và khi lâm chung. Giả sử trước khi chết người ta còn nghĩ đến con cái còn nhỏ “cần” được săn sóc, và trong khi chết họ nghĩ họ “phải” săn sóc cho con; và “nguyện lực” bám theo con. Chính nguyện lực ấy mà họ không nỡ rời xa, và “thần thức” hay “thân trung ấm” của họ không đành đi, để rồi họ lẩn quẩn không biết đến bao giờ. Khi nào họ xong để ra đi? Cho nên có thể cả trăm năm sau của thế gian, họ vẫn còn có thể nhận ra con cháu qua những nhà ngoại cảm, ông đồng hay bà bóng!
Cho nên, Đức Phật đã giảng giải: “Trong vô lượng kiếp, chúng sinh đã từng là thân thuộc, cha mẹ lẫn nhau” nên sự luyến lưu, ân nghĩa, ganh ghét hay hận thù chỉ là kết nặng giây oan trái, gắn bó khiến cho người chết không nỡ phải ra đi; điều ấy chỉ làm cho người chết càng kéo dài thêm thời gian luân hồi của chính mình. Trong Đạo Phật không đề cập đến phải khóc lóc than van vì sinh, tử là vấn đề tự nhiên của con người. Khóc lóc, kể lễ thảm thiết, làm ra vẻ ưu sầu là theo tập tục báo hiếu của con cái đối với cha mẹ trong Đạo Khổng (Nho giáo), chứ trong Đạo Phật thì:
“Thần hồn người chết đó khi chưa được thọ sanh, ở trong bốn mươi chín ngày, luôn luôn trông ngóng hàng cốt nhục thân quyến tu tạo phước lành để cứu vớt cho”. (Kinh Địa Tạng đã dẫn, trang 111).
Và:
“Hàng thân quyến của người lâm chung đó, nên phải sắm sửa làm sự cúng dường lớn, tụng đọc Tôn kinh, niệm danh hiệu của Phật và Bồ Tát, tu tạo nhân duyên phúc lành như thế, có thể cho người chết thoát khỏi chốn ác đạo, các thứ ma, quỉ, ác thần thảy đều phải lui tan cả hết”. (Kinh Địa Tạng đã dẫn, trang 127-128).
Hay:
“Như có người nào sắp mạng chung, hàng thân quyến trong nhà nhẫn đến một người vì người bịnh sắp chết đó mà niệm lớn tiếng danh hiệu của một Đức Phật, thời người chết đó, trừ năm tội lớn vô gián, các nghiệp báo khác đều tiêu sạch cả.
Năm tội lớn vô gián kia dầu rất nặng nề đáng lẽ trải qua ức kiếp hẳn không ra khỏi đặng quả khổ, nhưng bỡi lúc lâm chung, nhờ người khác vì đó mà xưng niệm danh hiệu của Phật cho nên những tội nặng đó cũng lần lần tiêu sạch.
Huống là chúng sanh tự mình xưng danh hiệu của chư Phật, người nầy đặng vô lượng phước lành, trừ diệt vô lượng khổ”. (Kinh Địa Tạng đã dẫn, trang 137-138).
Và Ngài Địa Tạng Bồ Tát cũng bạch cùng Đức Phật rằng:
“Vì lẽ trên đó nên nay con đối trước Đức Phật Thế Tôn cùng với hàng Trời, Rồng, tám bộ chúng, người với phi nhơn vv… mà có lời khuyên bảo những chúng sanh trong cõi Diêm-Phù-Đề, ngày lâm chung, kẻ thân thuộc phải cẩn thận chớ có giết hại và chớ gây tạo nghiệp duyên chẳng lành, cũng đừng tế lễ Quỉ, Thần, cầu cúng ma quái.
Vì sao thế? Vì việc giết hại cho đến tế lễ đó, không có một mảy mún chi lợi ích cho người chết cả, chỉ có kết thêm tội duyên của người đó làm cho càng thêm sâu nặng hơn thôi”. (Kinh Địa Tạng đã dẫn, trang 106).
Vì, Ngài Địa Tạng giải thích như sau:
“Hàng thân thuộc nỡ nào lại làm cho tội nghiệp của người ấy nặng thêm!
Cũng ví như, có người từ xứ xa đến, tuyệt lương thực đã ba ngày, đồ vật của người đó mang vác nặng hơn trăm cân, bỗng gặp kẻ lân cận lại gởi một ít đồ vật nữa, vì vậy mà người xứ xa đó càng phải khốn khổ nặng nề thêm”. (Kinh Địa Tạng đã dẫn, trang 107).
Theo như vậy, “Thế giới cõi âm” chỉ là thời gian kéo dài “Thân trung ấm” của những chúng sinh đã mất đi, do vì sự luyến lưu, yêu mến những gì mình chưa thể xa lìa hay kết tụ những thù hằn, oán ghét mà mình chưa xóa được; hoặc vì “yêu quá cuộc đời, thân xác” này; hay là người thân “van nài, luyến lưu” làm họ chưa muốn ra đi, chưa muốn rời dòng sông đã chơi, để đi tìm một thân xác khác tái sinh. Họ cứ lởn vởn, khi ẩn khi hiện mà người dân gian gọi là “ma”; hay họ phá phách, dữ tợn hơn thì gọi là “quỷ”. Đó là thế giới “ma quỷ” hay là thế giới của “Cõi âm” vậy!
Nguyên Thảo,
7/8/2011.
Tuesday, August 23, 2011
*Thơ Nguyên Thảo. (tt)
*Phút Giây!
Lặng im nghe cõi hồng trần
Gió xao xao động, ngập ngừng lá bay
Trên đời nhuốm những chua cay
Hồn như vất vưỡng, ngày mai không chừng
Khi nào ta lại bỗng dưng
Chợt nghe tiếng gọi, vội ngừng cuộc chơi
Để tâm ý vị thấm đời!
Nguyên Thảo,
23/08/11.
*Hoài Niệm Xưa!
(Tặng các bạn học cũ)
Ngày xưa trên lớp học
Từng đứa trẻ học trò
Ngây ngô và nhỏ dại
Vội ôm ấp giấc mơ!
Năm mươi năm rồi nhỉ?
Những đứa trẻ thấm đời
Đời vui, đầy nước mắt
Thấm ướt tuổi mồ côi!
Thời gian như cuộn chỉ
Chỉ có tháo không ngừng
Trong bao nhiêu dồn dập
Lại vào khoảng mông lung!
Cùng nhau về tuổi trẻ
Ôn lại lúc xa xưa
Nghe mình nhiều trầm lắng
Bao nhiêu đủ để vừa!
Nguyên Thảo,
23/08/11.
*Đạo Phật 22: Sự Nhập Thế Của Đạo Phật.
Chắc không có giáo chủ nào sau khi ngộ đạo, năng nỗ đi hành đạo với một cách hòa ái và nhu nhuyễn như Đức Phật suốt trong hơn 45 năm. Hành đạo không vì cho mình mà chính là cho mọi người, không tự xưng, không vọng động, không sân si, không tham ái và cũng không mệnh lệnh o ép người khác. Hành đạo bằng đầu trần, chân đất, bằng tấm y màu vàng và một bình bát để đi khất thực, lê từ nơi này đến nơi khác cũng vì cho chúng sinh. Mục đích ấy được nói rõ ràng trong Kinh “Diệu Pháp Liên Hoa” như sau:
“Xá-Lợi-Phất! Sao nói rằng các đức Phật Thế-Tôn chỉ do một sự nhơn duyên lớn mà hiện ra nơi đời? Các đức Phật Thế-Tôn vì muốn cho chúng sinh khai tri-kiến-Phật để được thanh tịnh mà hiện ra nơi đời; vì muốn chỉ tri-kiến-Phật cho chúng sinh mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sinh tỏ ngộ tri-kiến-Phật mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sinh chứng vào đạo tri-kiến-Phật mà hiện ra nơi đời.
Xá-Lợi-Phất! Đó là các đức Phật do vì một sự nhơn-duyên lớn mà hiện ra nơi đời” (Kinh Pháp-Hoa, HT Thích-Trí-Tịnh dịch, trang 55)
Đức Phật dấn thân vào cuộc đời nhằm “khai”, “chỉ” (thị), cho chúng sinh hiểu những tri-kiến mà các Đức Phật đã “nhận biết” (tri-kiến-Phật) để từ đó chúng sinh có thể “ngộ” (tỏ ngộ), “nhập” (chứng vào đạo) tri-kiến-Phật: Đó là nguyên nhân (nhơn duyên lớn) để Đức Phật thị hiện ra nơi đời! Tại sao các Đức Phật phải làm như thế?
Một câu hỏi đơn giản nhưng cũng khiến cho chúng ta phải có nhiều suy ngẫm? Các vị Phật đã là những người giác ngộ, hiểu được Chân lý của vũ trụ qua Lậu-Tận-Thông cho nên thấy chúng sinh không những đã mê mờ và hãy còn mê mờ, nên luôn bị lôi cuốn trong vòng đời đau khổ của Luân-hồi. Trải qua bao nhiêu số kiếp khổ đau để rồi vẫn còn mãi chìm đắm trong đau khổ mà chưa hề biết cách để thoát ra khỏi!
Chư Phật cũng là chúng sinh đau khổ, nhưng các Ngài đã tìm được đường để thoát khỏi khổ đau và vòng Luân-hồi. Nhưng do tình thương vô bờ mà các Ngài nguyện lực trở lại cõi đời để giáo hóa, độ chúng sinh. Sự thị hiện đó nhằm giúp chúng sinh hiểu được những Chân lý mà chư Phật đã biết, đã thấy để chỉ cho chúng sinh tự cứu, tự gỡ lấy những đường tơ “nghiệp chướng” mà họ đã tạo ra, tự trói lấy mình như một con tầm nằm trong tổ kén. Thế cho nên chư Phật ra đời để: Khai, Thị cho chúng sinh thấy được Khổ-đế, Tập-đế; rồi biết chọn cho mình (ngộ và nhập) con đường Đạo-đế để chấm dứt khổ đau cho chính mình trong Diệt-đế giống như chỉ cách cho con tằm biết cách phá vỡ tổ kén để thành bướm (con ngài) mà bay ra ngoài vòng kiềm tỏa! Thế cho nên Tứ-Đế được xem là Tứ-Thánh-Đế và cũng là bài pháp đầu tiên mà Đức Phật đã thuyết với năm anh em Kiều-Trần-Như khi Ngài bắt đầu cho cuộc “chuyển pháp luân” của mình!
Đức Phật còn “nhắc nhỡ” cho chúng sinh rằng chúng sinh có khả năng “thành Phật”, chứ không riêng gì các vị Phật; Vì tất cả chúng sinh đều có Phật tính như nhau, giống như Phật không khác, cho nên “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Nhưng vì chúng sinh không biết mình cũng có viên ngọc quý (Phật-tính) trong chéo áo để rồi cứ tưởng mình là kẻ khốn cùng nghèo khổ mà lang thang từ xứ này đến nơi khác (đứa cùng tử). Đi khắp trong ba cõi, sáu đường (luân-hồi) cũng như vất vưỡng trong thế giới trần lao đầy lửa nóng (Tam giới như hỏa trạch) mà cứ mãi vui chơi (trong nhà lửa), không hề nghĩ đến cách thức để tìm lối ra.
Vai trò Đức Phật ra đời như là một người cha đi tìm đứa con “cùng tử” để trao của báu; hay như vị trưởng giả tìm cách dẫn dụ những đứa trẻ vui chơi trong nhà lửa đang cháy để đưa chúng ra khỏi đó.
Đức Phật đã không dừng ở đó! Nếu bao nhiêu đó đã đủ thì Đức Phật sao phải bỏ ra hơn 45 năm hành đạo; phải đầu trần, chân đất, khất thực rày đây mai đó thuyết giảng cho chúng sinh hiểu; đồng thời tùy theo căn cơ từng nhóm, từng chúng sinh mà nói pháp, đề cập cách thực hiện các pháp để đạt đến kết quả sau cùng và trở thành một Bậc Giác-Ngộ. Kết quả bao nhiêu năm ấy là sự tập hợp lại thành một kho tàng Kinh điển của Đạo Phật mà ngày nay chúng ta còn nhiều nghiên cứu và thực hành, từ một người con Phật bình thường cho đến hàng Cư sĩ và Xuất gia đang hành trì để tự cứu mình và cứu người trong tương lai (tự độ và độ tha).
Sự “Nhập thế” của Đức Phật quả là vĩ đại! Và sự hiện diện của Ngài với những mục đích “cao cả” không thể lấy gì mà tán thán cho hết lời, vì những mục đích đó chỉ là “cho chúng sinh” mà thôi! Điều ấy khiến cho chúng ta là những người con Phật hay là những người tìm hiểu vào Phật pháp cần suy nghĩ để định hướng mà có phương pháp tiếp tục mục đích thị hiện ra đời của Ngài trong sự nghiệp “vì sự nghiệp Giác-Ngộ của chúng sinh”!
Sự chia sẻ nhận thức, hiểu biết, tìm hiểu giáo lý Phật pháp sau thời Đức Phật diệt độ của tất cả những ai đã từng tìm hiểu đều là những ý kiến hữu ích để cho chúng ta tìm đến Chơn lý của Giáo-lý đạo Phật mà hành trì cho đúng: “Nhận thức đúng thì sẽ đi đúng đường”, nhìn đúng theo hướng ngón tay của Đức Phật thì chúng ta sẽ thấy mặt trăng hay sẽ đi đến được mặt trăng, bỡi vì chúng ta là những người “sinh sau Phật” tức là một nạn trong tám nạn của kiếp sống con người! Cùng nhau tìm hiểu, nghiên cứu để được Chính-Kiến, Chính-Tư-Duy thì chúng ta mới có con đường đúng được, có con đường đúng thì chúng ta cũng sẽ hành trì đúng, tất nhiên hành giả sẽ đạt đến mục đích sau cùng là giải thoát và Niết-Bàn.
Đã từ lâu, Đạo Phật ở nước ta có rất nhiều trở ngại khó cho vấn đề tìm hiểu dù đa số người dân đều ngưỡng vọng về Đạo Phật. Kinh điển bằng chữ Hán, đọc tụng cũng bằng chữ Hán; cho nên với đại chúng có ít người hiểu về Đạo Phật. Cũng may phong trào chữ quốc ngữ phát triển, đồng thời với những phong trào chấn hưng Phật giáo do những nhà trí thức khởi xướng nên Phật giáo bắt đầu khởi sắc. Nhiều nhà trí thức, học giả đi sâu vào nghiên cứu Kinh điển; các tăng ni trẻ nâng cao trình độ học vấn cũng như nghiên cứu, do đó giáo lý Đạo Phật càng ngày càng được phổ quát và được nhận định một cách đứng đắn và khoa học hơn; đồng thời loại bỏ được những điều mê tín dị đoan từ những tín ngưỡng dân gian pha trộn vào. Tuy nhiên, những bộ giáo lý đơn giản dễ hiểu cho người phật tử từ bình dân cho đến trí thức, từ trẻ cho đến già để phổ cập trong dân chúng là điều còn cần thiết. Đó cũng là điều mà những ai quan tâm đến sự phát triển của Đạo Phật cũng còn có nhiều ưu tư trong mục đích “thị hiện ra đời của Đức Phật”!
Ở trên, là “sự Nhập Thế” của Đức Phật và giáo lý Đạo Phật. Còn sự nhập thế của hàng “Bồ-Tát” ra sao?
Sự Nhập thế của các vị Bồ-Tát với những đại nguyện quên mình để tiến lên quả vị Phật; đôi khi Bồ-Tát lại chưa muốn thành Phật để còn được độ chúng sinh nhiều hơn. Điều ấy chúng ta có thể thấy ở trong Đại nguyện của Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát như sau:
“Từ nay đến tột số chẳng thể kể xiết ở đời sau, tôi vì những chúng sinh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày nhiều phương tiện làm cho chúng đó được giải thoát hết cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật đạo” (Kinh Địa-Tạng, HT Thích-Trí-Tịnh dịch, chùa Pháp-Bảo -Sydney ấn tống 1994, trang 25).
Và số chúng sinh mà Ngài Địa-Tạng hóa độ đến Đức Phật còn tán thán:
“Đức Phật bảo Ngài Văn-Thù-Sư-Lợi rằng: “Đến Ta dùng Phật nhãn xem hãy còn không đếm xiết! Số Thánh, phàm nầy đều của Ngài Địa-Tạng Bồ-Tát từ thuở kiếp lâu xa đến nay, hoặc đã độ, đương độ, chưa độ, hoặc đã thành tựu, đương thành tựu, chưa thành tựu”. (Kinh Địa-Tạng đã dẫn, trang 22).
Còn Ngài A-Nan trong Kinh Lăng-Nghiêm đã phát đại nguyện:
“Hôm nay con nguyện mau đặng thành quả Phật, để trở lại độ chúng sanh nhiều như hằng sa. Con nguyện đem thân tâm này, phụng sự các đức Phật nhiều như vi trần. Thế mới gọi là đền ơn chư Phật.
Cúi xin đức Thế-Tôn chứng minh cho lời thệ nguyện của con: “Trong đời ngũ trược tội ác này, con thề vào trước để cứu khổ chúng sanh. Nếu còn một chúng sanh nào chưa được thành Phật, thì con thề chẳng lãnh quả vui Niết-Bàn.
Phật là đấng Đại-hùng, Đại-lực, Đại-từ-bi. Cúi xin Ngài tiêu trừ các điều mê lầm vi tế cho con, khiến cho con sớm đặng thành quả Phật, để hóa độ chúng sanh khắp cả mười phương thế giới. Giả sử hư không kia có thể tiêu diệt hết, chớ chí nguyện của con đây chẳng hề lay động” (Kinh Lăng-Nghiêm, PHPT khóa VI-VII, HT Thích-Thiện-Hoa, trang 113).
Và với Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát chúng ta có thể thấy ở Chú Đại-Bi như sau:
“Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát bạch Phật rằng: “Lạy Đức Thế-Tôn, nếu các chúng sinh tụng chú Đại-Bi, mà còn sa vào ba ngã ác (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh), con thề không thành chánh giác, tụng chú Đại-Bi nếu không được sinh sang cõi Phật, con thề không thành chánh giác; tụng chú Đại-Bi nếu không được tam muội hùng biện, con thề không thành chánh giác; tụng chú Đại-Bi trong đời này cầu gì chẳng được nấy, thì không thể gọi là chú Đại-Bi được”.
Tuy nhiên, trong Kinh Pháp-Hoa ở phẩm Phổ-môn mới nói rõ về những sức uy thần cao lớn của Bồ-Tát Quán-Thế-Âm, cùng với ứng hiện 32 hóa thân tùy theo quốc độ hay thân gì mà để cứu độ và nói pháp:
“Phật bảo ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: “Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sinh chịu các khổ não, nghe Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này một lòng xưng danh. Quán-Thế-Âm Bồ-Tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát” ((Kinh Pháp Hoa, HT. Thích Trí Tịnh dịch, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản 1994, trang 493).
“Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sinh, cho nên các ông phải một lòng cúng dàng Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.
Quán-Thế-Âm Đại Bồ-Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự vô úy, cho nên cõi Ta-Bà này đều gọi Ngài là vị Thí-Vô-Úy” (Kinh Pháp Hoa đã dẫn, trang 500)
Đó là Đại nguyện nhập thế để cứu độ chúng sinh trong các cõi nước chứ không riêng gì ở cõi Ta-Bà, thì chúng ta không thể nói Đạo Phật là đạo bi quan hay xuất thế. Nếu xuất thế thì vai trò cứu độ và nói pháp của Phật và các vị Bồ-Tát không thể thực hiện được. Vì vậy, thế gian đã có nhiều nhận thức sai lầm về Đạo Phật mà họ có từ lâu!
Hơn nữa, một phần người phật tử đã không thấy sự quan trọng của chúng sinh “người” của chúng ta, mà chúng ta hãy còn nhiều “mặc cảm” tự ti, hèn mọn khi mình tiến vào con đường tu tập. Ngày xưa, khi chúng tôi bắt đầu cầm quyển sách mỏng chỉ dẫn về Thiền Yoga, khi đọc sơ qua thấy những từ ngữ trí căn, huệ căn… hình tướng đẹp, nhất là tướng của Phật phải có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Nhìn lại mình chẳng có tướng nào đẹp cả, thì cứ nghĩ chắc chắn mình không bao giờ có thể thành Phật thì cần gì phải nghĩ đến Phật, mặc dù lúc ấy chúng tôi đang ở trọ trong chùa để đi học. Thế từ ấy trở về sau, chúng tôi không hề để ý đến đạo Phật chứ chưa nói đến học hay tìm hiểu một chút giáo lý nào.
Nhưng việc nào cũng có cơ duyên, qua cơn bệnh và buồn chán chúng tôi đã cố gắng định lại “Tâm” của mình trên giường bệnh. Không ngờ, trong sự cố gắng ấy đã khiến cho chúng tôi cảm nhận được một số hiện tượng. Chính vì những hiện tượng ấy và sự “thôi thúc nào đó” trong tâm, chúng tôi phải cố dành thời gian đi tìm Kinh điển của Đạo Phật để tìm xem những hiện tượng, mà mình cảm nhận đó, có trong Kinh điển của Phật hay không? Từ ấy những bài viết về Đạo Phật của chúng tôi được ra đời mãi cho đến ngày hôm nay, mà bài đầu tiên là bài “Nhân một câu chuyện… (hay: Phiền não thị Bồ-Đề)”.
Cũng qua những thời gian nghe các băng giảng, cũng như khi đi vào kinh điển của Đạo Phật, và nhất là sau khi đọc bộ “Phật Học Phổ Thông” của Hòa-Thượng Thích-Thiện-Hoa; chúng tôi thấy có những sự nối kết lạ kỳ giữa các Kinh Lăng-Nghiêm, Viên-Giác và Kim-Cang, rồi từ đó một số đề tài khác được nhắc tới nhằm chia sẻ cùng quý vị độc giả cũng trên trang nhà “Đạo Phật Ngày Nay” này. Và cũng ở đó, chúng tôi đã được nghe Hòa-Thượng Thích-Tâm-Thanh giảng về con người và bát nạn trong một cuồn băng giảng:
Được làm con người trong cõi Ta-Bà là đáng quý vì chỉ ở cõi Ta-Bà này mới có Phật pháp mà thôi! Các cõi khác (Bắc-Câu-Lư-Châu; Đông-Thắng-Thần-Châu và Tây-Ngưu-Hóa-Châu) ngay cả cõi Trời đầy phước báu cũng không có, chứ đừng nói chi đến cõi A-tu-la, Địa ngục, Ngạ quỷ hoặc Súc sinh. Chúng sinh trong các cõi khác muốn thành Phật thì cũng phải tái sinh về “làm người” trong cõi Ta-Bà này. Khi được làm người trong cõi Ta-Bà là ta đã tránh được một số nạn trong “bát nạn” (1-Địa ngục, 2- Ngạ quỷ, 3-Súc sinh, 4-Bắc-Uất-Đan-Việt hay Bắc-Câu-Lư-Châu, 5-Trường-Thọ-Thiên), nạn thứ sáu là đui điếc câm ngọng; nạn thứ bảy là Thế trí biện thong; và nạn thứ tám là sinh vào thời trước Phật, sau Phật. Xem như thế ta không bị các nạn của con người mà còn tiếp thu được Phật pháp (mặc dù là sinh sau Phật) thì ta vẫn có thể tu tập, hành trì theo giáo pháp của Phật để tiến tu giải thoát. Với những điều kiện như vậy, chúng ta chẳng là những con người được đầy phước báu sao? Xem như thế, chúng ta chẳng đang được đứng tại cửa ra của vòng sinh tử Luân-hồi sao? Chúng ta chỉ cần tu tập để mở cửa ra mà thôi như chúng tôi đã phân tích vấn đề trong bài: “Đạo Phật: Nhập Thế hay Xuất Thế?”
Hôm nay, trong bài này chúng tôi muốn chứng minh cùng quý vị về “sự nhập thế” của Đạo Phật; và chúng ta hiện tại là những người đang thực hiện sự nhập thế đó, nhất là những vị Cư-sĩ cũng như Xuất-gia.
Tại sao trong thời gian dài những vị xuất-gia vẫn trầm ngâm ở nơi u tịch để lo sự tu hành? Hay những vị cư-sĩ về già lập tịnh thất, am để tu mong cầu cho kiếp sau; hoặc những người phật tử tụng kinh sám hối với sự hồi tâm của mình sau thời gian bương chải, lăn lộn trong cuộc sống đầy trần lao này? Điều ấy cần cho chúng ta nhiều suy nghĩ!
Nếu chúng ta thử hỏi họ thì có lẽ chúng ta sẽ được trả lời thông thường là: “Để cho kiếp sau!”, chứ ít ai trả lời: “Để thành Phật!” như Lục Tổ Huệ-Năng. Và vì trong Kinh điển muốn thành Phật như Phật thì phải có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, thế thì như chúng ta bây giờ biết đến bao giờ mới thành Phật? Sự không mong cầu cao xa đó, khiến cho người tu an phận của mình và tu cứ cho mình, riêng cho mình thôi; ít khi nào nghĩ đến giúp người khác mặc dù là tu theo phái Đại Thừa. Họ lại càng không nghĩ mình hiện nay đang trên đường lên đến nấc thang của A-la-hán hay Bồ-Tát. Chính vì thế mà họ lại càng không nghĩ nhiệm vụ A-la-hán hay Bồ-Tát là của mình! Tức là họ không nghĩ đến vai trò nhập thế của mình bằng giáo hóa, cứu khổ, cứu nạn, hay giúp chúng sinh tìm đến được sự an lạc trong đời sống cũng như tinh thần.
Có nhiều người nghĩ rằng: “Tự lâu nay đã có ai thành Phật chưa?”, như một Đại đức Huệ Nhật thối chí đường tu đã cải sang đạo Tin Lành làm Mục sư, và phỉ báng Đạo Phật không tiếc lời. Chỉ tiếc cho ông ấy mà thôi! Bao nhiêu năm tu ở chùa, hành trì nghiên cứu Đạo Phật nhưng chẳng hiểu gì về Đạo Phật cả, để rồi bị “ma chướng” đi vào con đưòng ma, vì ông đã chẳng hiểu được đoạn Kinh sau:
“Khi ấy, Ông Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu có người phát tâm Bồ Đề, thì làm sao hàng phục vọng tâm và làm sao an trụ chơn tâm?”
Phật dạy: “Tu Bồ Đề! Nếu có người phát tâm Bồ Đề, thì phải dụng tâm như vầy: Ta hóa độ tất cả chúng sanh, nhưng không thấy có mình độ và chúng sanh được độ. Tại sao vậy? Nếu Bồ Tát còn thấy mình độ và chúng sanh được độ, thì Bồ Tát còn tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh và tướng thọ giả, tức nhiên không phải là Bồ Tát. Tu Bồ Đề! Thật không có một pháp gì gọi là phát tâm bồ Đề” (PHPT Khóa XII, Kinh Kim Cang, HT Thích Thiện Hoa, trang 134-135); hay:
“Phật dạy: “Tu Bồ Đề! Ông chớ lầm tưởng: Như Lai nghĩ rằng: “Ta độ chúng sanh”. Tại sao Vậy? Nếu Như Lai có nghĩ: “Ta độ chúng sanh”, thì Như lai còn chấp bốn tướng Ngã, Nhơn, Chúng sanh và Thọ giả, tức nhiên không phải Như Lai. Bởi thế nên, Như Lai thật không có độ chúng sanh nào cả”. (PHPT khóa XII, Kinh Kim Cang, trang 168)
Để hiểu được điều này, chúng tôi thiết nghĩ Huệ Nhật nên đọc bài “Những Điều Đức Phật Cảnh Giác” của chúng tôi đã tìm hiểu và ghi nhận, để có một nhận thức đứng đắn hơn. Hi vọng qua đó Huệ Nhật sẽ hiều được “Chánh” với “Tà” của một tôn giáo!
Chúng tôi trở lại vấn đề: May cũng nhờ thời cuộc và do nhu cầu bức bách, cần thiết nên giới tăng sĩ trẻ được đi học, du học nâng cao trình độ kiến thức để họ có thể cống hiến cho đời thêm nhiều công trình nghiên cứu, và đi sâu vào Kinh điển để soi rọi Chân lý của Phật pháp được rõ ràng hơn. Những điều kiện ấy đã khởi sắc cho Đạo Phật trước những âm mưu cải đạo của những tôn giáo khác mà những giáo điều của các tôn giáo đó khiến cho những nhà khoa học lẫn trí thức không mấy hài lòng vì sự mâu thuẫn cũng như không hợp lý của nó!
Ở đây, chúng tôi muốn chứng minh cùng Quý vị vị trí “sắp là A-la-hán hay Bồ-Tát” của những người tu sĩ Phật giáo để họ vững thêm niềm tin trong sự tu tập của họ; nhưng cũng là để họ có vài suy nghĩ mà có được những lý tưởng, “hạnh nguyện” phát nguyện độ đời, độ chúng sinh trong tương lai nhằm đem lại một sự tốt đẹp đến cho xã hội và thế giới trong một khung cảnh tràn đầy yêu thương, từ bi không hận thù trải rộng khắp cho loài người và mọi chúng sinh!
Xem như vậy, chúng ta cũng thấy được ai là người đã có phước báu hơn ai! Nhưng chính vì chưa thấy được cái “vị trí quan trọng” mà mình đang ở; nên có nhiều người nhìn qua, nhìn lại rồi bị ma chướng và bị ngã ngựa để trở lại đời thường, bỏ đi những phước báu của mình! Và cũng chính vì đó mà họ cũng quên đi những hạnh, phát nguyện cho vai trò “sắp” là A-la-hán hay Bồ-Tát của họ!
Đức Phật ra đời để giáo hóa chúng sinh biết được những chân lý chân thật, biết được mình có Phật tánh và tu để thành Phật; cùng giúp chúng sinh hiểu được con đường tu để hành trì cho đúng và không hiểm nguy. Đó là mục đích Khai, Thị, Ngộ, Nhập Tri-Kiến-Phật mà những ai nối tiếp “Tác sự Như Lai” cần năng nỗ hơn để giáo hóa được toàn chúng sinh trong cõi Nam-Diêm-Phù-Đề này.
Các Vị Bồ-Tát nguyện nhập vào các cõi kể cả ba đường dữ để cứu độ chúng sinh, hay cứu khổ cứu nạn, đem lại an vui cho chúng sinh mà mình là người thành Phật sau cùng. Điều ấy khiến cho chúng ta có nhiều suy ngẫm về “Sự Nhập Thế” của Đạo Phật trong thời buổi ngày nay.
Nhập Thế bằng giáo lý, bằng từ thiện, nuôi trẻ mồ côi, trợ giúp người nghèo, giúp học sinh nghèo, người nghèo bệnh tật, người già, dạy thêm cho học sinh nghèo, giúp huấn nghệ, chữa bệnh, giáo dục… Quả là những công việc với đầy lòng từ ái, và hạnh nguyện cũng rất đang cần để đem lại an vui cùng cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh! Ấy là sự nhập thế của toàn thể thành viên, cơ cấu của Đạo Phật nhất là đại chúng Phật tử vậy!
Nguyên-Thảo,
27/6/2011.
Subscribe to:
Posts (Atom)