Sunday, June 26, 2016

*Quê Người. (11)



Như tôi đã nói ở trên, sau kỳ nghỉ lễ Noel và Tết Tây các phái đoàn và Cao Ủy làm việc trở lại, từ đó nhiều người đã có danh sách đi định cư hàng tuần, làm tôi lại càng nôn nóng. Càng nôn nóng thì tôi lại càng lo âu: Vì sao mình chưa được đi? Không biết có phải mình không khai tình trạng nám phổi trước kia, bây giờ bị phát hiện nên bị đình chăng? Tôi càng nghĩ quẩn, thế nhưng cũng còn vài an ủi vì còn một số người cũng chưa có danh sách như tôi. Một ngày tôi đang đi thì có Bác quen với người tôi quen hỏi thăm thì ra đó là Bác Phương, bác cũng qua cùng một đợt và hãy còn chờ như tôi nên tôi nghe đỡ lo hơn. Lúc ấy, tôi lại thường tới lui với Cậu 7 Thành, Sáu Chí, họ cũng chờ ngày đi Canada, để chuyện trò cho quên ngày tháng ngoài việc đi dạy ở trường tiếng Việt và đi thư viện ghi chép những từ ngữ tiếng Anh để phòng hờ khi đến xứ người mà không tìm được cuốn tự điển Anh-Việt nào.
Người ở longhouse chỗ tôi đi nhiều nên bắt đầu dồn phòng lại, tôi đổi sang phòng phía trước đâu mặt với dãy longhouse bên kia chứ không còn ngó ra hàng rào nữa. Những ngày mưa thật là buồn. Nằm trong phòng ngó ra ngoài hiên, những giọt nước rơi xuống làm nước văng lên tung toé khiến tôi cảm nhớ đến vợ con rất nhiều. Bây giờ họ chắc bị mọi người đần ghê lắm: Quan điểm của người Cộng Sản mà! Người của chế độ cũ thì đã không đáng tin tưởng, người thuộc gia đình “phản quốc” bỏ đi vượt biên thì lại xấu hơn, người mà liên hệ với nước ngoài thì lại cần lưu ý, theo dõi… Nói tóm lại họ chẳng tin ai ngoài thành phần của họ, vì lúc nào họ cũng phải giữ vững chế độ bằng mọi cách. Họ sợ tình báo, họ sợ thành phần len lỏi vào, gây thế lực để sau nầy lật đổ trở lại cho nên những ai xuất xứ từ bên ngoài thành phần của họ, dù có tài giỏi cách mấy thì cũng đều phải được đánh dấu bằng chữ “nghi ngờ”, hoặc “sử dụng” mà như là “không sử dụng”. Họ chỉ nâng đỡ, đào tạo cho chính thành phần của họ mà thôi! Ngay cả những ngưòi họ cài vào bên ngoài để hoạt động cho họ ngày xưa, đến khi chiến thắng rồi họ vẫn không tin tưởng vì họ “vẫn có” nhiều nghi ngại!
Trong lúc tôi có nhiều mòn mỏi trong sự chờ đợi thì tin vui lại tới. Tôi và Thành có danh sách đi “Ăn-rồi-lết” tức Adelaide, thủ phủ Tiểu bang Nam Úc của xứ Úc-Đại-Lợi. Sở dĩ người ta nói “Ăn-rồi-lết” là nói trại ra cho vui từ âm đọc Adelaide theo kiểu đọc của tiếng Pháp là “A-đờ-lét” vậy mà! Danh sách ấy khá dài cỡ gần 40 người. Một hôm, anh Trọng dẫn chị Phát người đi chung tàu vượt biên với tôi cùng một cô đến chơi, được giới thiệu là cô Giang cũng sẽ đi Adelaide. Trong chuyện trò cô Giang cho biết là đến đó sẽ đi sang Tiểu bang khác vì cô có thân nhân ở trên Sydney và sẽ về trên đó sinh sống; cô còn nói: “Mấy ông về nơi đó giống như vào viện dưỡng lão”. Tôi hỏi nhưng cô nàng chỉ cười mà không trả lời (chắc cũng không biết gì để trả lời). Tôi thắc mắc trong lòng: “Tại sao cô nàng nói vậy?”. Từ đó tôi sẽ để ý và khám phá về Adelaide cho rõ hơn khi tôi được đến đó. Rồi gia đình anh Trọng cũng có danh sách đi Perth (Tây Úc), chị Phát đi Melbourne (Victoria). Lần lượt những người chung chuyến tàu vượt biên với tôi có diện đi Úc họ đi gần hết. Còn những người diện đi Mỹ thì đang được phái đoàn Mỹ phỏng vấn. Không khí trong trại sôi nổi hẳn lên. Người thì chuẩn bị rời trại, và người thì chuyển từ đảo Bidong sang cũng khá nhiều. Sau loạt tàu mang chữ PB đã hết thì sang đến MB nay đã là gần 200 rồi. Người ta đoán mò rằng trước kia KT là chữ viết tắt của Kuala Terengganu; PB là Pulau Bidong và MB là Malaysia Bidong. Nghe vậy mà không biết là có đúng không!
Càng gần ngày đi Úc tôi lại càng dành thời gian đi thư viện nhiều hơn để kiếm, chép vài từ ngữ để có thể có một số vốn tiếng Anh lúc đầu trên xứ người. Bạn bè thằng Thành là tụi Chót Ên con ông Yếu bên Mỹ gởi cho nó 20 đô Mỹ, nó trả cho người ta một ít và mua cái túi xách, chút quần áo còn lại khoảng mười mấy đô Mã để xài; lúc đó một đô Mỹ hơn hai đô Mã, còn đô Úc bằng hai đô Mã.
Chúng tôi được thông báo là ngày 14/03/1984 sẽ rời trại cho nên những công việc dạy học ở trường tiếng Việt tôi phải chuẩn bị bàn giao lại cho người khác, và tôi thường hay xuống Cậu Bảy Thành, Sáu Chí chơi để rồi thời gian ngắn sau từ giã họ và không biết đến bao giờ mới có dịp gặp lại nhau: “Mỗi người sẽ là một phương trời cách biệt”!
Sáng ngày 14/03 chúng tôi đem trả lại các thẻ cơm, thẻ lãnh vật dụng xài hàng hai tuần, mền mùng, đồ dùng đã mượn lại cho Cao Ủy, rồi đi từ giã những người thân quen, chúc họ có những may mắn trong tương lai. Họ cũng chúc chúng tôi những lời chúc tốt đẹp. Ai cũng chúc cho nhau lời tốt đẹp vì cuộc đời nầy đã vốn khổ quá nhiều người ta chỉ mong cho nhau được sung sướng hơn, vì thế nên tôn giáo nào cũng vẽ nên những Thiên Đàng đáp ứng cho mọi người cùng nhau mơ ước dù Thiên Đàng ấy là có hay không? Hay chỉ là giả tưởng! Tôn giáo mà mọi con người sẽ lấy làm chỗ bám víu sau cùng ở cõi đời trần tục nầy để luôn có “Hi vọng” mà sống giống như chuyện Thần thoại Hi lạp kể nàng Pandora mở nắp hộp quà tặng để cho mọi tai ương, dịch bệnh… bay ra gieo đến cho con ngưòi và khi nàng đậy lại chỉ còn có “Sự hi vọng” mà thôi!
Đến 2 giờ rưỡi chiều chúng tôi tập trung ở ngoài văn phòng của Cao Ủy Tị nạn ở gần cổng trại để được dặn dò và hướng dẫn lên xe buýt ra phi trường ở Kuala Lumpur. Có nhân viên Hội Trăng Lưõi Liềm Đỏ dẫn đi. Mọi người làm việc ở trại chúc chúng tôi được nhiều may mắn ở nước thứ ba. Rời trại tôi vẫn có nhiều lưu luyến dù nơi đây giam giữ chúng tôi cả hơn sáu tháng trời, với đầy ấp những lo âu, thiếu thốn nhưng vẫn còn hơn là ở chính quê hương mình! Nghĩ đến đây tôi lại thương cho vợ con và đồng cảm với biết bao nhiêu là đồng bào của tôi trong hoàn cảnh nghiệt ngã của một thời được gọi là hòa bình, chấm dứt chiến tranh!
Chắc chừng hơn nửa giờ sau chúng tôi đã được vào trong phi trường. Vì còn sớm cho nên phải đợi đến hơn bốn giờ chuyến bay mới đưa chúng tôi đến Singapore. Trong khi ngồi chờ đợi tôi nói chuyện với Bác Vĩ, Bác cũng là một trong vài người lớn tuổi nhất trong đoàn. Chẳng bao lâu chúng tôi được nhân viên Trăng Lưỡi Liềm Đỏ tập họp lại và phát vé máy bay rồi đưa chúng tôi đến quầy kiểm soát vé, lấy chỗ ngồi và tìm về cổng đợi chuyến bay. Tôi chỉ đi theo người ta chứ không biết gì cả vì đây là lần đầu mà tôi sẽ “được” đi máy bay. Hôm trước ở trong trại nhiều người cãi nhau vì có người nói đi máy bay “giằn” còn hơn đi xe đò. Người kia cho là “xạo” vì đi máy bay đâu có chạy trên đường làm sao giằn. Thế là cuộc cãi lộn không phân thắng bại, vì người nói giằn không chứng minh được cho người kia hiểu và người kia chưa từng đi máy bay thì lại không biết. Nhứt định hôm nay tôi phải tìm cho ra lẽ là “máy bay có giằn hay không”?
Đến giờ, nhân viên hội Trăng Lưỡi Liềm Đỏ dẫn đoàn chúng tôi đến cửa kiểm vé để chúng tôi vào trong máy bay dưới sự lãnh trách nhiệm của anh Trương Văn Nhiệm, người có thể được xem là tiếng Anh khá nhất được giao trọng trách hướng dẫn đoàn.
Máy bay cất cánh, chúng tôi giã từ phi trường Kuala Lumpur cùng đất nưóc Mã Lai đã bao dung cho chúng tôi khoảng mấy tháng trời dù là chúng tôi bị giam giữ, nhốt trong những hàng rào kẽm gai. Và chúng tôi theo cùng phi cơ để cất cánh lên cao, cũng như chúng tôi được cất lên bầu trời cao vút để thở cái không khí tự do mà bao nhiêu năm qua chúng tôi không thể có dù là thời gian dài ở trên chính quê hương mình.
Máy bay được định hướng bay về phi trường Singapore để ở đó chúng tôi sẽ chuyển máy bay bay về nước Úc-Đại-Lợi mà mình sẽ gắn liền với cuộc đời còn lại, và cũng có thể là cho mãi các con cháu về sau. Máy bay lên cao qua nhiều từng mây, ánh nắng chiều trải dài trên màu trắng mây giống như hàng khối bông gòn kết nối tiếp nhau. Máy bay “giằn”, lúc lắc hơi khá giống như xe đò đi qua những ổ gà trên các con đường xấu. Tôi đang suy nghĩ xem nó “vì sao?”, mặc dù tôi chưa tìm được câu trả lời, nhưng tôi đã mường tượng là do nơi khối không khí mà máy bay đang bay qua. Vấn đề đó tôi phải tìm hiểu cho được, nhất quyết không chịu bỏ qua.
Cuối cùng, máy bay đáp xuống được phi trường Singapore. Nhìn ra ngoài phi trường, phi trường thật là lớn, lớn hơn ở Kuala Lumpur nhiều; máy bay cũng dập dìu hơn, người hiểu biết nói là phi trường Singapore lớn vì nó là phi trường quốc tế nên nhiều máy bay các nước mượn đường qua đây nhiều hơn là ở Kuala Lumpur. Ai nói sao thì tôi cứ nghe vậy vì bây giờ tôi chỉ như là “Vịt nghe sấm”, “Ù ù cạc cạc” chứ những thứ nầy tôi chưa từng trải qua cho nên tôi không biết gì cả!
Rời máy bay, chúng tôi đi ra cửa vào phi trường, còn đang ngơ ngác thì có nhân viên “Hồng Thập Tự” thì phải, đến hỏi người trong đoàn, anh Nhiệm nói chuyện với họ. Họ cho biết là ngưòi có trách nhiệm đón và đưa đoàn ở tại phi trường nầy cho đến khi lên máy bay để sang Úc. Do thời gian còn khá dài vì lúc đó mới chỉ hơn 6 giờ chiều mà chuyến bay sang Úc đến khoảng hơn 10 hay 11 giờ đêm gì đó mới bay. Họ bảo chúng tôi đợi một chút. Lát sau họ đến phát cho mỗi người một phiếu ăn chừng 10 hay 15 đô Singapore để gọi là đi mua thức ăn trong khi chờ. Rồi họ đưa đến một khu vực nào đó trong phi trưòng để ngồi đợi. Nhiều người hành khách đi qua lại trong phi trường thấy đoàn chúng tôi họ thường nhìn, tuy nhiên không có tình trạng hiếu kỳ như ở Việt Nam, và chắc họ cũng không có thì giờ để tra hỏi hay thỏa mãn tính tò mò; hơn nữa đã không biết bao nhiêu đoàn ngưòi tị nạn từng ghé qua đây trước đó cũng chỉ để chờ máy bay đi định cư thì chắc họ không thấy lạ gì để mà quan tâm.

Nguyên Thảo,
26/06/2016.


No comments:

Post a Comment