Trên đường đi nầy không hiểu sao đầu óc tôi cứ lảng vảng về cái lý
thuyết của ông Marx mãi. Có lẽ do nơi dấu ấn của những người hướng dẫn đã cho tôi
nhiều ý niệm để có thể kiểm chứng các điều mà tôi “được biết” khi cố gắng đi tìm
hiểu về cái lý thuyết khó hiểu đó; nhưng điều quan trọng hơn cả là sự thực hành,
áp dụng chủ nghĩa ấy vào thực tế, nó hoàn toàn thực sự lại khác xa những gì tốt
đẹp mà mấy ông Tổ đã nghĩ ra! Hay, chỉ còn ngày hôm nay nữa là tôi sẽ đi xa cái
vùng đất quan trọng, mà một thời đã mang dấu ấn “sâu đậm” của cái lý tưởng mới
toanh được áp dụng vào? Tôi cũng không hiểu vì sao? Nhưng chắc chắn những cái hình
ảnh của các đoàn quân Hitler trong các phim kéo trí óc tôi lại trở về, cùng với
những ảnh tượng một thời khủng khiếp của Bức Tường “Ô nhục” Bá linh. Cái Bức Tường
ấy tôi đã đến thăm, sờ mó được nó trong ngày hôm qua. Nó chỉ là vật vô tri hiện
diện lên đó để làm chứng nhân cho những người liều mạng băng qua và phải bỏ mình,
giống như chúng tôi là những người vượt biển, băng rừng qua Lào, hay Kampuchia để
đào thoát. Liều chết để đi tìm tương lai cho mình và con cháu trong mai sau với
sự tự do hít thở khí trời!
Tôi nhìn theo những chiếc quạt gió lấy điện cao ngất cùng những luồng
dây điện cao thế chạy dài, băng qua các cánh đồng mênh mông trong ánh nắng chói
chang, rồi tôi lại chìm vào những thắc mắc cố hữu của cái hậu quả “thối lùi”
trong sự thực hiện cái chủ nghĩa mà người ta cho rằng ưu việt nhất loài người!
Không phải riêng tôi, mà bạn bè tôi cũng như bao nhiêu người khác lẫn người dân
thường nghèo đói cũng đều nhìn thấy như vậy! Nhất là những người trí thức họ lại
hỏi nhau: “Sao lại là như thế nhỉ”? Tôi nhớ trước kia, trong thời gian chiến
tranh chế độ trước phân tích, cho hay những điều xảy ra là như thế, hay do những
người từ ngoài Bắc đi vào kể lại không mấy ai tin, người ta chỉ cho là họ nói quá
đáng hay là tuyên truyền, bôi xấu, chứ làm gì có chuyện đó! Đến khi những người
từ trên Lộc Ninh băng rừng chạy về trại tiếp cư cho biết, người ta vẫn bảo rằng:
“Không thể”! Rồi ngày Thống Nhất đến, người ta vui mừng vì chiến tranh đã chấm
dứt, lòng người rộn rã, sẽ cùng nhau xây dựng lại quê hương. Chuẩn bị cho một
cuộc sống tự do và hạnh phúc! Nhưng không, tất cả hình như đều ngược lại! Sau
khi càn quét quân nhân, cán chính của chế độ trước vào những tại tập trung cải
tạo chính trị; thì tới tịch thu mọi sách báo, tác phẩm văn hóa được gọi là đồi
trụy, phản động, tàn dư của chế độ cũ; rồi tới đổi tiền mỗi gia đình chỉ được một
số ít chừng vài trăm đồng để chi phí, sử dụng. Mọi người tùy theo lứa tuổi, thành
phần, nghề nghiệp phải tham gia vào các tổ chức, đoàn thể sinh hoạt và kiểm soát
lấy nhau cùng học tập chính trị. Ngay lúc đó thì mọi người dân đều bàng hoàng cẩn
thận cho chính mình về tư tưởng, lời nói, cùng đề phòng với tất cả những người
chung quanh, không dám phát ngôn bừa bãi ngay với cả con mình. Rồi, người ta cũng
hiểu được thế nào là cái giá trị của một chiếc xe đạp, một cái đồng hồ và một cái
đài (radio) là do đâu? Trong sự nhốn nháo, phong trào thủy lợi được vận động xây
dựng tràn lan ở khắp nơi, tốn biết bao tiền của, công sức, để rồi về sau bỏ đi
và trở lại nguyên trạng lúc trước. Với tình hình ban đầu ai cũng tưởng rằng ở
chế độ mới sẽ có nhiều điều tốt đẹp hơn ngày trước theo tiêu chí “Cách mạng là
thay cũ đổi mới, mà cái mới tốt và đẹp hơn cái cũ”, nhưng không là như vậy! Cuộc
sống của người dân càng ngày càng khó khăn hơn! Rồi với sự đánh “Tư sản mại bản”,
quản lý thuộc về nhà nước các nhà máy thiếu thốn nguyên liệu đành phải ngưng trệ,
“Cải tạo công thương nghiệp” kéo dài người dân khan hiếm nguồn hàng hóa, hàng có
sẵn thì bị kiểm kê khiến khó có thể mua được để xài. Sau đó, xe cộ lại phải vào
công tư hợp doanh hoặc xe tập hợp vào công ty vận tải không thể chạy tự do như
ngày xưa, cho nên sự vận chuyển bị giới hạn, đôi khi trở nên bế tắc. Các chất đốt
được phân phối theo tiêu chuẩn vì thế đưa đến sự thiếu thốn so với nhu cầu, cho
nên các rừng bị người dân càn quét dù nó chỉ là rừng chồi. Sự ăn cắp gỗ để chế
biến hoặc sinh nhai từ các khu rừng đến bây giờ hãy còn ấy là nạn “lâm tặc” vậy!
Đó là chưa kể đến những kế hoạch quản lý to tát như ngân hàng, đất đai, phân phối,
giáo dục, thông tin, tuyên truyền,... đều là độc quyền nhà nước! Nhưng, cái đặc
trưng nhất trong chế độ mới là sự quản lý người dân theo “hộ khẩu”. Sự độc đáo
của nó là mỗi gia đình có một quyển sổ để qua đó người dân được mua hàng, phân
phối theo tiêu chuẩn cho mỗi thời kỳ hay mỗi tháng tùy theo thành phần, chức vụ.
Đến ngày có món hàng hay vài món gì đó được cơ quan phụ trách phân phối thì người
ta phải cầm sổ sắp hàng để được mua, chính vì thế mà chữ tắt XHCN được dân gian
đọc trại thành “Xếp Hàng Cả Ngày” mới mua được hàng! Hàng phân phối đâu không
thấy mà có địa phương thiếu món nầy thì nơi khác thừa ra bán không được, cho nên
dân chúng đành di chuyển bằng phương tiện thô sơ thuở trước như xe đạp để “buôn
bán lậu” vừa kiếm tiền sinh sống, vừa phân phối cho bà con, người cần; rủi bị
khám xét hay bị bắt thì lo lót chút đỉnh để trót lọt, sự “lo lót, hối lộ” ấy tùy
theo mức độ lớn nhỏ, sau nầy trở thành “thủ tục đầu tiên”, “biết điều”, “bao thư”
khắp mọi nơi; rồi người có quyền thế thì “đòi hỏi”, người có nhu cầu “đáp ứng”
bằng cách “quà tặng”, quà do em nuôi, bà con, bạn bè “biếu” ấy mà! Tình huống ấy
đã đánh bại được một đạo quân được xem là hùng mạnh và liêm chính của thuở ban đầu!
Có chuyện vui kể về chuyện sổ hộ khẩu: Người ta kể lại rằng: Vì nhu yếu phẩm phân
phối theo tiêu chuẩn hộ khẩu nên bà con không thể thăm viếng nhau được, vì đến
thăm mà ở lại vài ngày thì lại ăn vào phần nhu yếu phẩm của gia đình ấy nên việc
thăm viếng nhau không được như xưa; hoặc lấy xăng dầu đâu mà đi xa, vì vậy dù ông
nhà nước không cấm thì người ta cũng không đi được. Thêm nữa, mọi thứ ông nhà nước
kiểm soát, quản lý, phân phối (bao cấp) khiến đời sống dân chúng càng ngày càng
thiếu thốn, khó khăn thêm làm cho nhiều người trở nên túng cùng “sanh đạo tặc” đi
trộm, cướp. Dân “bắt được” giao cho chính quyền địa phương, địa phương không có
“tiêu chuẩn” để nuôi, vậy người bắt phải nuôi, cho ăn. “Ăn cắp” được thì quen
tay, “ở tù” mãi cũng “chai lì” nên chuyện “ăn cắp, cướp giựt, cướp của gết người”
trở nên tràn lan không có gì là lạ! Tâm tính con người cũng thay đổi khá nhiều
trong thời kỳ nầy, người làm thì ù lì, nhởn nhơ để người trên không dám giao công
tác theo cách “né tránh”: “Làm nhiều mới bị sai nhiều, sai nhiều mới bị chửi,
kiểm điểm nhiều. Không làm không sai thì lấy gì bị chửi”. Cái hiện tượng “tiêu
cực” ấy nhen nhóm càng ngày càng nhiều, đã thế mà người ta dùng mưu mẹo, lấy cớ
để dành nhau về vài món nhu yếu cần thiết. Có một lần anh chồng chị bạn là một người
có chức vụ trong một ngành nọ nói với tôi: “Xin lỗi thầy giáo nhe, nói thật chứ
trong xã hội có ngành nghề nào thì nghề giáo mấy ông đều có cả”! Tôi cảm thấy hơi
đau lòng, nhưng thực sự là như thế, tôi đã từng nghe chuyện “bán trôn nuôi miệng”,
hay nhiều chuyện khác lâu rồi; đạo đức con người giữ được hay không tùy theo hoàn
cảnh, không ai trách được bao giờ! Trong hoàn cảnh tình huống xã hội như vậy,
người ta mất phương hướng khá nhiều, rồi sầu đời hướng về ăn nhậu, không nhìn thấy
được tương lai không phải là ít!
Thả hồn theo tư tưởng, hồi ức xa xăm trải dài trên những cánh đồng mênh
mông trong nắng mai. Tôi chợt khựng lại với những rừng cây ven theo đường. Thông
trồng san sát vào nhau như để cho nó vượt lên, không nhiều nhánh để lấy gỗ sau
một thời gian nào đó, như nhiều nơi đã làm trong việc trồng cây xanh bảo vệ môi
trường. Thỉnh thoảng có nơi người ta đang khai thác ở một vài khu vực. Rồi xe lại
đi ra các khoảng rộng mênh mông cánh đồng. Tôi lại nhớ về các Hợp Tác Xã nông nghiệp
được tổ chức sau ngày Thống Nhất.
Không biết chuyện các Nông Trường hay Hợp Tác Xã ở Liên Xô và kể cả Đông
Âu nầy được tổ chức ra sao và có nhiều khó khăn không? Nhưng theo tôi nghĩ là
không khó mấy vì đất liền mênh mông như thế nầy thì số người chủ vào Hợp Tác Xã
sẽ không nhiều, và có thể sử dụng đến cơ giới, máy móc tất nó không phải ép buộc
lắm người ta mới vào. Mà nếu họ chống lại thì sự truất hữu cũng không là chuyện
lớn, hay gây khó khăn lắm cho ông nhà nước. Tôi không biết chuyện đất đai ở ngoài
Bắc sau năm 1954 ra sao, nhưng chuyện Cải Cách Ruộng Đất đã là dư âm còn vương
lại rất nhiều cho những thời gian sau. Khác với những Hợp Tác Xã ngành nghề, Hợp
Tác Xã nông nghiệp có nhiều nhiêu khê. Nếu Hợp Tác Xã đan đát hay vài ngành khác
thu hút được nhân sự khá dễ dàng, thì Hợp Tác Xã nông nghiệp trở nên khó khăn vì
người nông dân không muốn đem ruộng đưa vào, để rồi mình phải đi làm theo tiếng
“kẻng” và chấm công. Nếu bị bắt buộc thì người ta chỉ làm có lệ, thành quả tệ hơn
nhiều, rốt cuộc chẳng đi tới đâu; càng làm càng tệ hơn, nền kinh tế thêm lụn bại,
nạn sâu rầy tàn phá mùa màng vì không đủ thuốc trị, nên nạn đói thêm hoành hành.
Người dân mạnh ai nấy lo cho bản thân và gia đình. Trộm cắp tràn lan, con người
trở nên lì lợm, tới đâu thì tới. Cua cá trên đồng ruộng bị “quần thảo” đến đỗi
chúng không sinh sản kịp cho nhu cầu! Trên đường người dân đi buôn lậu “nhỏ” thật
nhiều và “tiền qua đường” càng lúc càng tăng! Trong bối cảnh chung như vậy, tôi
lại nhìn về lý thuyết mà ông Marx đã phát họa thì dù có “lạc quan Cách Mạng” cách
mấy đi nữa, thì xã hội trong tương lai vẫn có nhiều chứng tật khó mà chữa nỗi,
vì nó đã đánh thức “bản năng sinh tồn thú tính con người” trỗi dậy! Hơn nữa, có
lẽ vì muốn đẩy nhanh giai đoạn “giáo dục” tư tưởng mới cho người dân, những cuộc
họp, học tập “điều tốt đẹp” của thể chế liên tục được tổ chức tuyên truyền; nhưng
lại đang trong giai đoạn tồi tệ nhất của nền kinh tế, nên người dân dần không
tin tưởng. Thế rồi các buổi họp người thưa dần, không kết quả, đưa đến tình trạng
chung “chống không chống, theo chẳng theo”, “nhà nước nói gì thì nhà nước nói,
nhà nước làm gì thì nhà nước làm” dân không màng đến nữa, họ chỉ lo sinh hoạt tìm
phương cách sống, kiếm ăn: Đúng là dân “đã bất hợp tác” với chính quyền. Cái câu
“Dễ vạn lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong” quả lại đúng thêm
một lần nữa!
Nếu tôi nhớ không lầm thì trong lý thuyết có cảnh báo bằng câu: “Xây
dựng Xã Hội Chủ Nghĩa không khéo thì chỉ kéo dài thêm thời gian khốn khó cho toàn
xã hội” thì phải? Nhưng có một điều chắc chắn là lý thuyết của Marx nói đến cuộc
Cách Mạng bạo lực xảy ra khi Giai cấp Công Nhân kết hợp với Nông Dân nghèo đói đứng
lên lật đổ giới chủ và địa chủ, khi đó giới chủ chỉ là thiểu số, cho nên vấn đề
“dùng Bạo Lực Cách Mạng” đè bẹp, trấn áp cho thành phần đó không thể ngóc dầu lên
nỗi để chúng không có cơ hội khôi phục lại quyền thế, mà lật đổ chính quyền cách
mạng còn non trẻ. Tuy nhiên cho đến nay với thời gian lâu dài, tiếng nói phản
kháng của người dân luôn là những vấn đề “bị dập tắt, không được lưu tâm”, và mãi
là “phản động, âm mưu lật đổ chính quyền, là thế lực thù địch, là do sự giật dây
của ngoại bang”! Marx đâu có chủ trương chống lại với mọi người dân, mà chỉ “dùng
bạo lực Cách mạng trấn áp với những thành phần phản động, culag cơ mà”. Đồng thời,
khuyến khích hai giai cấp công nhân và nông dân thi đua sản xuất nhiều thành phẩm,
nhu yếu cung ứng cho toàn xã hội để mọi người được “ăn no, mặc ấm” trước tiên, rồi
sau đó là “Ăn ngon, mặc đẹp”, chứ đâu xem nhân dân là kẻ thù! Với quyền thế “độc
tôn” trong tay, con người dễ sinh ra “hống hách, lạm quyền”, dễ đưa đến nạn kiêu
binh, quyền thế, cấu kết nhau tham nhũng, cùng bao che cho nhau… được đan kết,
lũng đoạn ở cả một xã hội không có gì là để phanh phui, ngăn cản!
Tôi thẫn thờ với những hình ảnh không tươi sáng của một thời kỳ quá
khứ, trong đó tôi được trải qua chút ít, chẳng nhiều. Do biết thân phận mình mà
tôi cố gắng xa lìa để tìm lấy tương lai cho đàn con và gia đình. Rồi đến nay, những
ngày nầy tôi được đi trên các phần đất tiên phong và là cái nôi thực hiện của Chủ
Nghĩa Marx- Lénin, và được nghe phần nào về kết quả của nó. Như vậy là sau khoảng
70 năm thực hiện “gay gắt” để rồi chỉ trong thời gian ngắn bị sụp đổ nhanh chóng,
cái còn lại là một nền kinh tế “lẹt đẹt” đi phía sau của nhiều nước trên thế giới!
Cùng với “sự sợ hãi chế độ”, người dân, họ không muốn quay trở lại những ngày
gian nan, khốn khổ thời xưa cũ. Do vậy từ Nga sang Đức người ta không đưa chúng
tôi đến những nơi tưởng niệm Karl Marx, Engels, Lénin, Stalin hay những lãnh tụ của Đông
Đức một thời, mà chỉ là Bức Tường Bá Linh “ô nhục”, nơi mà người Đông Bá Linh
muốn đào thoát sang phần đất bên kia để có cuộc sống khác hơn là cái Thiên Đàng
ở phía Đông!
Rồi tôi lại chợt nhớ về trong khóa học Tiếng Anh của những ngày đầu định
cư trên đất Úc, khi học chung với một bạn trẻ người Kampuchia, hắn nhắc lại lời
ba hắn kể khi thoát khỏi lực lượng Pol Pot cho biết là Pol Pot giết rất nhiều
người mà không cần dùng đến súng đạn, đôi khi chỉ với búa và liềm. Quả thật, trong khoảng thời gian ấy đã có
phim “Killing field” trình chiếu trên truyền hình, cũng như là video được phổ
biến khá rộng rải. Phim đề cập đến chính quyền Pol Pot thực hiện chế độ Cộng Sản
lên đất nước và dân tộc Kampuchia một cách tàn khốc, đến đỗi thế giới xem đó là
một chế độ diệt chủng với nhiều triệu người dân bị sát hại!
Nguyên Thảo,
21/12/2020.