Saturday, May 23, 2020

*Quê Người! (31)



Tính ra tôi, Thành về ở với Trọng, chị Yến đã hơn tháng rồi tiền nhà thì chúng tôi hùn nhau để trả, mỗi tuần phải trả 20 đô tính theo đầu người. Tiền điện, tiền nước lố khi nào có hóa đơn về thì góp tiền đi đóng. Thức ăn thì hùn tiền để mua, khi nào hết thì đóng góp phần sau. Chị Yến lo việc nấu nướng, chúng tôi thì phụ cùng nhau dọn dẹp. Khi nào chị Yến mệt mỏi thì chúng tôi phụ nhiều hơn vì chị đang có bầu. Tôi, Thành vẫn còn đi học Anh Văn trong trung tâm Pennington. Thường thì chỉ học một buổi, còn một buổi về nhà lo công việc ở nhà hay đi những công chuyện mình cần làm. Thỉnh thoảng thì Trí, Mai hoặc Huynh chở vợ con đến chơi. Ông Hoài, bà Sa thì thường là cuối tuần vì họ làm trong hãng làm mâm xe hơi gần khu nhà chúng tôi đang ở.
Trời mùa Đông lúc nầy lại lạnh nhiều hơn, công việc “farm” trên núi ít đi. Trọng, Huynh, Trí nghĩ thường xuyên, cho nên thường tới chơi, hay xem phim tập Hồng Kông được chuyển âm sang tiếng Việt, vì từ khi dời về đây Trọng đã mua được truyền hình, đầu máy cassette. Trọng biết về máy móc, truyền hình do khi Trọng học ở Trường Bưu Điện thì cũng đã có học, sau 75 lại làm nghề sửa radio, truyền hình, cassette. Trọng vừa vui tính, vừa biết về máy móc, nên bạn bè làm chung cũng thích giao tiếp; đôi khi họ muốn nhờ Trọng hướng dẫn hay coi dùm để họ mua truyền hình, dàn máy, hay cassette. Chính nhờ đó mà tôi quen nhiều người chứ thực sự về ngoại giao, giao tế tôi rất dở!
Một hôm, khi Trọng đi làm về, nó nói: “Ê Thạch, làm farm vào mùa Đông nầy chăm quá, mà công việc thì không có bao nhiêu, một ngày làm ba bốn ngày nghỉ thì đâu có được bao nhiêu. Bữa nay Ba Anh nói với tao, theo kinh nghiệm thì nó thấy có thợ hàn là dễ xin việc hơn. Nếu biết hàn mà biết lái “forklift” thì lại càng dễ xin việc hơn nữa. Để tao coi chỗ nào có thể học hàn được, tao rủ mầy đi”. Nghe nó nói tôi cũng “ừ”, mặc dù tôi chẳng biết gì về hàn cả, còn nó thì đã biết hàn chì, hàn các mạch trong các bộ phận điện tử rồi. Thôi thì tôi nương vào nó, đi với nó cho vui. Biết thêm một nghề cũng tốt!
Buổi sáng nọ, trên đường đi học, tôi thấy có hai vợ chồng ông Úc già dẫn nhau đi trên đường giữa trời Đông lạnh lẽo. Tôi thắc mắc: “Trời lạnh như thế nầy, sao mấy ông già, bà già không ngủ, hay ở nhà cho khoẻ mà lại dẫn nhau đi chi thế nầy”! Họ đi đón xe buýt, ông thì đi khom khom với cái lưng hơi còng, bà thì đi kế bên tay xỏ vô tay ông cùng đi. Mà ngộ thiệt, mấy ông bà già bên nây sửa soạn, chải chuốt quá. Bà thì diện đồ đẹp, nếu nhìn từ phía sau tới thì có thể tưởng lầm họ còn trẻ. Ông thì áo bỏ vào quần rất tươm tất, râu cạo sạch sẽ. Lúc ấy tôi mới nhớ lại: Đàn ông bên xứ mình lúc thanh niên thì diện quần áo bảnh bao, râu tóc gọn gàng, già thì họ để râu, chứng tỏ mình già. Còn bên nây thì ngược lại: Trẻ thì muốn chứng tỏ mình bụi đời, lại để râu tùy theo ý thích, ăn mặc thì theo thời thượng, nhưng về già thì họ lại chưng diện, quần áo bảnh bao, râu tóc gọn gàng, nhẵn nhụi. Nhưng không phải chỉ hai ông bà ấy thôi, mà có mấy bà đang ngồì đợi xe buýt ở đằng trạm nữa. Họ nói chuyện mà ra khói vì trời quá lạnh nên hơi thở vừa ra khỏi miệng đã thành khói, thành hơi nước. Rồi xong buổi học tôi kể chuyện cho cả nhà nghe, Trọng nói: Chắc ở nhà họ buồn nên ra đón xe buýt đi tới trung tâm thương mại chơi đó, ra đó gặp bạn bè không vui hơn sao; xong ăn uống rồi về. Mùa Đông khi tới shop thì họ không trả tiền điện cho lò sưởi, mùa Hè thì họ không tốn tiền máy lạnh, “nhứt cử lưỡng tiện” đó mà! Tôi nghĩ ra điều giải thích của Trọng có lý, rồi tôi lại bỗng dưng nhớ đến câu thơ của Tố Hữu ca tụng về cái Xã Hội Chủ Nghĩa: “Sữa để em thơ, lụa tặng già”, Tố Hữu làm câu thơ ấy khi tôi đọc tôi cũng tưởng là nó tốt đẹp, ưu ái đến trẻ con và người già lắm, nhưng khi đến xứ Úc nầy tôi đã thấy khi đứa bé ra đời đã được chính phủ trợ cấp cho tiền mua sữa, nuôi nấng; già thì được trợ cấp tiền già, với số tiền ấy người ta mua biết bao là hộp sữa, và người già thừa mua lụa để mặc mà đâu cần đến chế độ, hệ thống tổ chức của Xã Hội Chủ Nghĩa đâu? Có một lần tôi cùng mấy người trong trường đến phòng Thương Nghiệp để mua hàng cho trường, trong thời gian ấy có loại vải về tương đối coi là được. Có một ông khách cứ nói với mấy cô bán trong thương nghiệp: “Vải nầy coi được à tụi bây, thôi tụi bây để cho tao vài mét để may cái quần coi”! Mấy cô bán hàng cứ nói: “Không được! Vải nầy bán theo tiêu chuẩn”. Không biết ông khách ấy nói chơi hay nói thật, hồi lâu thấy không được, ông ấy mới nói: “Xếp tụi bây còn ngán tao, mà tụi bây không ngán tao hen”! Nghe câu ấy tôi tức cười mà cố nén lại, rồi tôi buột miệng: “Xếp mấy cổ mới biết ông là ai thì mới ngán ông, chứ mấy cổ có biết ông là ai đâu mà mấy cổ ngán”! Ông ấy nghe tôi nói, liền quay lại tính cự tôi, nhưng không hiểu thế nào, ông ấy khựng lại, rồi nói: “Ừ hén, xếp mấy cổ mới biết mình là ai, chứ mấy cổ đâu có biết mình là ai mà ngán”! Thực ra, khi vào tới quầy của phòng Thương Nghiệp tôi đã ngờ ngợ ông khách ấy rồi, tôi nghĩ không lẽ ông nầy là Thường Vụ Huyện Ủy của huyện vì có lần ông đứng trên bục giảng để giảng trong lớp học Chính Trị Hè của toàn giáo viên trong huyện. Bây giờ, ở trên đất Úc tôi mới thấy, đâu cần phải theo cái “Tổ chức theo cơ chế chính quyền Xã Hội Chủ Nghĩa” người già và trẻ thơ mới được ưu đãi đâu, mà ở trong chế độ Tư Bản nầy người già, trẻ thơ, kể cả những cha mẹ đơn thân hay tàn tật đều được ưu đãi, săn sóc gắp trăm lần theo cái điều mà Tố Hữu đã viết! Tôi lại nghĩ không lẽ chế độ Cộng Sản đã lỗi thời rồi chăng? Từ đó tôi lại càng để ý về cái hệ thống tổ chức ở xứ Úc nầy hơn nữa để xem: “Tại sao nơi nầy người ta không cần theo chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa hay là Cộng Sản mà người ta lại tổ chức được những điều mà người Cộng Sản mơ ước cho một cái xã hội trong tương lai. Người ta đâu phải cần đến sự “Trấn áp bằng bạo lực của một Nhà Nước Chuyên Chính Vô Sản” để ép người dân vào một khung cảnh nghèo đói, khó khăn, mất nhiều quyền tự do của con người khiến lúc nào người dân luôn ngầm có sự chống đối, phản kháng để Nhà Nước lâm vào nhiều cảnh khó khăn mà đối phó”. Tôi đã nhìn thấy sự thoải mái của một chế độ trên xứ Úc, nơi mà người dân muốn đi đâu thì đi không cần phải xin phép, muốn làm gì thì làm, hay nói gì thì nói miễn là đừng phạm pháp hay làm phiền đến người khác; già thì được cấp tiền già, trẻ con sinh ra được nhà nước trợ cấp nuôi nấng, người tàn tật neo đơn được ưu đãi săn sóc. Ai bệnh thì được vào nhà thương có nhà nước trả tiền cho mình mà bác sĩ, y tá rất là nhiệt tình, sốt sắng chăm sóc không phải hối lộ, lo lót, không bị hoạnh hoẹ; đi khám bệnh không phải tốn tiền, mua thuốc được giảm giá; còn ở trường học thì học sinh không phải tốn tiền nếu học ở trường công, và sinh viên ở Đại học thì được chính phủ cho mượn tiền để đi học cho đến khi ra trường đi làm mới trả lại từ từ, quan trọng hơn là không phải hối lộ cho quan chức hay “nhét” tiền “bo” cho họ họ mới làm. Trái lại mọi người được phục vụ rất nhiệt tình, vui vẻ… và còn rất nhiều điều khác nữa. Nhìn thấy mọi sự như thế, tôi mới thấy mình thật sự may mắn khi được Chính phủ cũng như người dân Úc đã cho tôi đến nơi nầy để dung thân, sinh sống và “chọn nơi nầy làm quê hương”! Rồi tôi lại nhớ đến quê hương mình “Chế độ gì nói là của người dân mà người dân lại bị nhiều áp bức, ngột ngạt nhiều đến như thế”, ai biết cho chăng?
Đến lúc nầy, tôi thấy rõ tôi đã học ở Trọng được nhiều vấn đề. Nếu không có Trọng tôi phải tốn rất nhiều thời gian để thích ứng vào đời sống ở Úc nầy mà trong đó có cả vấn đề đi thi lấy bằng L của việc học lái xe trong tương lai. Những lúc rảnh rang Trọng chở chúng tôi đi cùng từ đi “shop” cho đến việc đi thăm bạn bè dù là của Trọng, từ đó tôi lại quen thêm được nhiều người khiến cuộc sống của mình tương đối được dễ dàng hơn. Rồi một chiều, Trọng cho hay là nó đã tới đằng “Park” để hỏi khoá học hàn căn bản, lớp học vào buổi chiều, thuận lợi giờ giấc cho cả nó và tôi. Tới tuần sau là bắt đầu.
Ban ngày tôi đi tới lớp học Anh Văn, đường đi khoảng chừng cây số bằng khoảng mà tôi, Kim, Liêm đã đi từ căn “flat” đi ra đến trạm xe buýt ở đường Hanson, nên cũng tiện. Ngoài giờ về nhà làm vài công việc chung ở nhà, rồi cùng nhau ăn uống nghỉ ngơi, tối thì quay quần coi phim hay truyền hình. Hồi nào Trọng “nổi hứng” thì nó kêu ra xe chở đi chỗ nầy hay chỗ kia chơi. Nhưng cái chuyện quan trọng nhất đối với tôi vẫn là chuyện cố gắng học tiếng Anh, để sau nầy có tách ra thì tôi vẫn đủ tự tin tiếp xúc với bên ngoài trong cuộc sống trên xứ người; ngoài ra tôi sẽ phải tự lo cho chính gia đình khi mà vợ con tôi được phép đến xứ Úc nầy! Chuyện học Tiếng Anh trong khóa nầy tôi thấy tôi có nhiều tiến bộ, nghe cũng đỡ hơn khóa trước khá nhiều, từ ngữ thì dần dà cũng phong phú hơn. Tôi nghĩ chắc là từ ngày tôi “nói chuyện quá chừng” với cô Helena mà bây giờ tôi được “lột lưỡi” như kéc hay nhồng đi chăng? Rồi lại được ở chung với Trọng nên có những chữ nào trên truyền hình mà tôi nghe không nỗi nên hỏi nó, hoặc những từ nào tôi thắc mắc không biết thì nhờ nó giúp hoặc cùng nhau hội ý để hiểu rõ hơn. Còn nếu không thì hôm nào Bob, Joeff đến chơi thì hỏi mấy người đó. Có một lần tôi, Kim, Liêm, Báu, Kiệt, Thành, Trọng kéo nhau xuống nhà Bob ở gần biển để phụ giúp Bob dọn dẹp lại nhà cửa. Bob nói đó là nhà của ba ông ta, không biết ông ấy làm gì mà trên kệ có khá nhiều sách cũng đã cũ rồi, dọn dẹp nhưng chúng tôi cũng không hề xem đến quyển sách nào, bởi vì chúng tôi không đủ trình độ Tiếng Anh để mà xem! Riêng Joeff thì thường hay nói chuyện với tôi hơn. Tôi cũng ráng vận dụng vốn Tiếng Anh của mình để diễn đạt trong các câu hội thoại. Tôi biết rằng mình nói có nhiều lúc không đúng với kết cấu câu hay văn phạm, nhưng tôi nhớ đến điều mà mấy cô Helena, Sally đã nói là mình đừng quá chú trọng đến văn phạm mà cứ học theo những câu mẫu để đối đáp, rồi lần lần mình sẽ chỉnh sửa về sau. Thế là từ đó tôi cứ “phang đại”, nghĩ sao thì nói như thế đấy. Vậy mà tôi cũng làm cho Joeff hiểu được nhiều vấn đề! Tôi thấy Joeff thường hay hỏi về vấn đề xã hội của Việt Nam trong chế độ Cộng Sản sau ngày giải phóng. Nhận xét, quan sát của tôi được bao nhiêu thì kể lại bao nhiêu với vốn ngôn ngữ của tôi đang có. Lắm lúc tôi “bí” không thể diễn tả được thì tôi nhờ Trọng giải thích, diễn đạt thêm dùm.
Một buổi trưa khi đi học về Trọng đưa cho tôi lá thư, thì ra đó là thư của vợ tôi gởi qua hộp thư của Trọng. Trong bao thư có cả thư của ba má tôi nữa. Thư cho biết là đã nhận được thùng quà rồi và cho biết tình hình bên nhà cùng sức khỏe. Vợ tôi vẫn còn được cho đi dạy không bị đuổi nhưng cũng có nhiều khó khăn, dù vậy được đi dạy cũng có điều vui, mấy con tôi bị giới hạn ở Đội Thiếu Nhi, chúng hơi buồn. Tôi biết rõ điều ấy, nhưng tất cả đều không có gì là quá thì tốt rồi. Tôi đỡ lo hơn vì bước đầu ít ra tôi đã giúp được cho gia đình trong những cơn túng quẫn.

Nguyên Thảo,
30/04/2020.




Friday, May 22, 2020

*Đi Nga. (9)


Tôi và anh Thới cùng nhau thán phục cái công phu của những người xây dựng Nhà Thờ nầy, không những về kiến trúc mà còn cả các hoa văn, trang trí, hình ảnh được vẽ bên ngoài lẫn bên trong Nhà Thờ: Rất nhiều và rất công phu! Tất nhiên là phải mất thời gian lâu dài để hoàn tất, thật là những công trình chỉ có ở Đức Tin mới có thể  thành hình trọn vẹn. Chúng tôi kéo nhau ra ngoài để xem khung cảnh chung quanh, cùng ngắm nghía các kiến trúc khác của Nhà Thờ và đứng trên cầu bắt ngang qua kênh đào Griboyedov để chụp hình kỷ niệm. Nhưng phần trên đỉnh của Nhà Thờ bị che lại để sửa chữa nên không thể nhìn được trọn vẹn cái hình dáng của nó. Đến gần 3 giờ chúng tôi trở ra xe để đi sang nơi khác. Thành phố nầy có nhiều công viên rộng rãi đang trở lại màu xanh của mùa Xuân ấm áp, các cây dọc đường nhiều nơi thường được cắt ngọn tương đối bằng nhau nên khung cảnh có nét gọn đẹp qua tầm mắt nhìn của du khách. Xe đi qua những con đường mới cho nên Cô Hướng Dẫn có thuyết minh về các dinh thự hay các building quan trọng có tiếng ở Thành phố Saint Peterbourg nầy. Không biết các anh chị khác có hiểu nhiều không, chứ riêng tôi thì chỉ loáng thoáng thôi vì hai lẽ: Một là Tiếng Anh mình không giỏi mà lại nghe giọng người Nga nên không bắt kịp được, hai là cứ lo chú trọng vào cảnh vật hoặc quay phim, chụp hình thành ra cũng bị lỡ mất dịp. Thôi thì mình bắt được cái gì trong chuyến đi thì cứ làm như thế đó, đã dở mà bắt luôn cả hai thì không thể được rồi! Lòng vòng thì chúng tôi cũng lại ở bên dòng sông Neva của Thành phố, nhưng cứ dòm mãi mà không chán mắt. Chắc vì thế mà Saint Peterbourg là Thành Phố được xem là nơi du lịch có nhiều thích thú, nhất là từ nơi nầy đã khởi sự cho cuộc Cách Mạng Vô Sản đầu tiên trên thế giới do Lénin lãnh đạo và cũng là Chủ Nghĩa Marx-Engel được áp dụng vào thực tế trong xã hội loài người. Do đó người ta đem ghép hai tên của Marx và Lénin lại thành Chủ Nghĩa Mác-Lê. Chính tôi cũng tò mò về địa điểm nầy vì chính chủ nghĩa thực tế ấy mà dân tộc chúng tôi dù trong hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc, chết chóc hàng giờ đã chẳng ai bỏ nước để ra đi, nhưng khi chính quyền Cộng Sản được thực hiện thì không biết bao nhiêu người liều chết để vượt biển, vuợt biên giới để đào thoát và bỏ quê hương thân yêu của mình mà chọn xứ người làm quê hương thứ hai. Đó là chưa kể đến thời gian 20 năm gây ra chiến tranh tàn phá đất nước, chết có thể lên đến hàng trăm ngàn người và sự nghèo đói của đất nước sau thời gian thống nhất. Tất cả chỉ cho một Thiên Đường ảo trong tương lai: “Cùng sống chung trong một thế giới Đại Đồng sung sướng, hạnh phúc không có người bốc lột người”! Nhưng hiện tại nước lớn, mạnh đang ức hiếp các nước nhỏ để dần thực hiện một đế quốc toàn cầu mà các nước khác phải phục tùng họ như những nước nô lệ, chư hầu giống như truyện Tàu kể đến chuyện làm “Bá Chủ Võ Lâm”! Nếu Chủ Nghĩa Cộng Sản đã tốt thì sau khi sụp đổ thì người Nga đã quay trở lại Chế độ Cộng Sản rồi, chứ họ không vui vẻ sống trong cuộc sống như hiện nay. Thế mà nhiều chế độ, nhiều nhà lãnh đạo vẫn mơ ước về một Thiên Đường mà một nhà văn nữ nào đó đặt tên cho cuốn sách là “Thiên Đàng mù”! Không biết ai mù đấy nhỉ? Chắc là những “Đỉnh Cao Trí Tuệ Của Loài Người” chưa được “Sáng Mắt Sáng Lòng”, chưa thấy được sự oằn oại đau thương của con người, của dân chúng trong những cảnh lầm than, áp bức của nhà cầm quyền với “Sự Trấn Áp Bằng Bạo Lực Cách Mạng”!

Xe buýt cho chúng tôi xuống vào lúc 3 giờ 40 để chúng tôi thăm viếng nhà thờ Saint Isaac’s Cathedral của Công Giáo Orthodox có kiến trúc đẹp và huy hoàng nổi tiếng ở Saint Peterbourg nầy. 
Nhà Thờ Saint Isaac's.

Ngẫm nghĩ lại tôi nói với anh Thới để cùng nhau cùng cười: “Cứ đi du lịch ở phương Đông thì mãi ngắm chùa hay đền thờ”, còn đi phương Tây thì ngó nhà thờ”, mình chưa đi Trung Đông để ngắm đền thờ Hồi Giáo, chắc ráng để khi nào đó mình đi cho đủ bộ”!
Chúng tôi rời khu nhà thờ vào lúc 4 giờ 30 để chạy dọc theo sông Neva và vài đường phố, để sau cùng tắp vào lề đường cho chúng tôi xuống đứng nhìn một chiếc tàu đã cũ nằm bên bờ sông, con sông nầy là một nhánh của sông Neva có tên là Bolshaya Nevka và chiếc tàu kia là chiếc Aurora. Nó là chiếc tàu chiến có trang bị nhiều súng đại bác, cao xạ với ba ống khói cao lên phía trước là đài quan sát. Hình như chiến hạm nầy có quá trình lịch sử từ cuộc chiến tranh giữa Nga-Nhật, rồi trở về biển Baltic từ năm 1906. Sau đó nó hoạt động khắp ở Ấn Độ Dương, Đại Tây Dương và Địa Trung Hải, nhưng nó trở nên quan trọng vì nó đã nổ phát súng báo hiệu đầu tiên, súng lệnh cho cuộc nổi dậy tấn công vào Cung Điện Mùa Đông và Cuộc Cách Mạng Tháng Mười Nga năm 1917 để lật đổ chế độ trước đó và lập chính quyền Xô Viết do Lénin lãnh đạo. Bây giờ chiến hạm Rạng Đông (Aurora) được nằm tại đây như là một bảo tàng, một chứng tích lịch sử của nước Nga vào thời kỳ Xô Viết.
Tàu Aurora.

Trời mưa lâm râm, gió lành lạnh, chúng tôi chỉ đứng bên bờ để nhìn, chụp hình chứ không được lên tàu. Chiếc tàu có võ ngoài cứng cỏi với lớp sắt chắc dày lắm, cùng nhiều súng đại bác, cao xạ ở hai bên cùng phía trước. Sau gần nửa tiếng thì chúng tôi lại lên xe để di chuyển sang nơi khác. Thì ra nơi con tàu nầy đâu cũng không xa mấy với nhà thờ Saint Peter and Paul. Xe buýt đưa chúng tôi về khách sạn để chuẩn bị cho bữa ăn chiều và nghỉ ngơi, kết thúc một ngày nữa trên Thành phố cố đô của nước Nga. Chiều nay khu bán đồ lưu niệm của khách sạn được một phen “sốt gió” vì  mua món “hổ phách” của cô nàng Dung được mọi người chú ý vì “hổ phách” (amber) của nơi nầy có tiếng, mà mấy người sành điệu ở Melbourne gọi sang nhờ Dung mua dùm. Từ đó mọi người lại chú ý đến nó.
Sau khi tắm rửa đi ăn tối xong, tôi về phòng gởi ảnh về cho mấy con, cháu rồi mới đi vào “internet” để tìm hiểu về Saint Peter nầy thì lại thấy đặc biệt là “đêm trắng” (white night) ở đây. Tôi cứ suy nghĩ hoài về “đêm trắng”. Trong mấy hình có màu sắc giống như đêm trăng sáng tỏ làm tôi phải vận dụng những kiến thức về địa lý mà mình đã học được trong nhiều năm ở trường học để giải thích về hiện tượng. À! Có thể hiện tượng đêm trắng do Bắc Bán Cầu được nghiêng về phía mặt trời vào mùa Hè, nên vùng Cực Bắc nhận được nhiều ánh sáng trong ngày mà xảy ra hiện tượng ấy chăng? Sự khúc xạ ánh sáng khiến dù về ban đêm vùng Cực Bắc cũng luôn có ánh sáng để sáng tỏ, nếu ánh sáng hoàng hôn kế tiếp với ánh sáng hừng đông thì ban đêm vẫn liên tục có ánh sáng dù không có mặt trời. Suy nghĩ như vậy thì tôi cũng cần kiểm chứng nó để xem sao! Thế là tôi canh giờ nửa đêm để quan sát nó. Tôi chợt thức vào khoảng hơn 2 giờ sáng, sau khi đi vệ sinh, tôi liền vén màn che cửa sổ nhìn ra ngoài thì quả thật quang cảnh bên ngoài vẫn nhìn thấy tương đối là khá rõ, hơn ánh trăng sáng tỏ bình thường. 
Đêm trắng (White night)

Tôi lấy mobil phone chụp vài hình để gởi về cho con cháu thấy cảnh ngộ nghĩnh đó. Xong mới ngủ tiếp. Quả thật người ta nói “có đi mới học điều mới lạ”, hay “đi một ngày đàng, học một sàng khôn” là đúng thật! Trong mỗi chuyến đi tôi học được vài điều mới dù mình phải vất vả về mọi thứ mà chỉ đáp ứng cho cái “thích, tò mò” của mình cũng như cho “con mắt” được thỏa mãn với “cái nhìn”!
Sáng chúng tôi không phải dậy sớm, thời gian thư thả hơn để đi ăn sáng. Trong những thời gian còn lại chúng tôi lo soạn lại đồ đạc, bỏ vào trong vali trước, chuẩn bị cho sáng mai vì chúng tôi phải ra phi trường đi sang Berlin của Đức sớm. Tới khoảng 9 giờ rưởi, xe buýt mới đưa chúng tôi đi. Xe đưa chúng tôi đến hai trụ đỏ mà mấy hôm trước đã đi ngang qua. Thì ra chúng có tên là The Rostral Column nằm trên đảo Vasilievsky, sở dĩ vào ban đêm chúng được đốt cháy sáng lên giống như thay thế cho ngọn hải đăng nhằm giúp những tàu thuyền ở đây thấy rõ để tránh tai nạn. Đảo nầy là một trong những đảo của cửa sông Neva khi chảy ra vịnh Phần Lan, các đảo khác là Petrogradskii, Krestovskii, Decabritov và mấy đảo nhỏ như Elagin, Kamennui và Đảo Thỏ (Zayachii, nơi có pháo đài và nhà thờ The Saints Peter và Paul). Đến đây vào lúc 10 giờ 10, trời nhiều mây có mưa lai rai, gió lành lạnh, mặt sông sóng nhấp nhô. Chắc vì vậy mà chúng tôi cảm thấy cảnh thú vị và đẹp hơn chăng? Chúng tôi cùng nhau đi tìm những góc cạnh để chụp hình cho đẹp hơn. Tôi thì vội quay một vòng tổng quát trước khi tính tới việc chụp hình, nhứt định phải gom cảnh vào trong một đoạn phim mới được. Những líp hoa tulip được nhiều du khách ái mộ để làm cảnh cho hình của mình. Hai trụ Rostral không còn cháy nữa. 
The Rostral Column.

Cái cảnh khiến cho nhiều người chụp nhứt là cảnh ở bờ sông. Vì đây là đoạn sông rộng vừa có cầu nối các đảo, có nhiều du thuyền qua lại lẫn các dinh thự bên kia bờ tạo nên khung cảnh vừa nên thơ vừa hùng tráng trên những làn sóng nhấp nhô và trên bầu trời đầy mây, xám xịt. Vừa co ro, lành lạnh mà chụp hình thì thật là thú và tức cười! Sau 20 phút chúng tôi lại lên xe dời đi. Xe lại chạy vòng trở lại để đến Bức Tượng bằng đồng tưởng niệm vua Peter The Great cưỡi ngựa trước một dinh thự và bên cạnh một công viên. Chúng tôi được dịp ngắm nghía cái nét đẹp, công phu của người điêu khắc trên một tảng đá lớn và bức tượng hùng tráng của vua Peter trên lưng ngựa, đồng thời để chụp hình kỷ niệm ở một công trình nghệ thuật của Thành phố Saint Peterbourg. Ở nơi đây khoảng 40 phút thì chúng tôi được lệnh ra xe và di chuyển về Cung Điện Mùa Đông trong 15 phút sau. Sau khi xuống xe buýt thì được hướng dẫn sắp hàng sau những đoàn du khách khác và mỗi người được phát một vé vào cửa Cung Điện mà nay là Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật của Cố Đô. Theo như trên vé thì giờ chúng tôi vào cửa sẽ là 12 giờ 15 phút, tuy nhiên với sự sắp hàng đông đảo như thế nầy thì không biết là bao lâu mới đến chỗ kiểm soát vé. Cô Hướng Dẫn người Nga đi lên phía trước hồi lâu thì khi về cô nói nhỏ với Jennifer cùng Bernard. Sau đó cô ta chạy lên phía trước lần nữa. Khoảng sau cô ta trở về kêu Jennifer dẫn một nhóm và Bernard dẫn một nhóm, còn cô ta dẫn vài người đi theo trong đó có vợ chồng tôi. Tôi đi theo nhanh nhanh, ra ngoài hàng và đi lên phía trước. Cô nói: “May quá! Nhóm của người bạn chung công ty với cô đang hướng dẫn người ở phía trước, mình lên nhập chung với họ”. Chúng tôi lên và chen vào chung nhóm của bạn cô người Nga. Trong khi đó cô thường điện thoại đến Bernard kêu dẫn lên nhanh bằng “tiếng lóng Rainbow” vì cây dù của Bernard có màu sắc của Cầu Vòng. Thế là đoàn chúng tôi đã đốt giai đoạn, và không phải mất nhiều thời gian để sắp hàng! Nhưng khi vào cổng cũng đã là 12 giờ 16 phút!
Qua khỏi cổng chúng tôi được phát mỗi người một cái máy nghe để đến nơi nào đó thì Cô Hướng Dẫn sẽ thuyết minh về những gì ở nơi đó để khỏi phải ồn. Nói đến điều nầy làm tôi nhớ lại khoảng năm 2001, vợ chồng tôi hộ tống ba tôi đi thăm mấy chú, cô tôi ở Mỹ, Áo thì có qua Pháp để anh chị tôi hướng dẫn thăm Paris có ghé qua Cung Điện Versaille. Lúc đó chưa có máy nghe như bây giờ, nên sự thuyết minh của nhiều đoàn đều bằng loa cầm tay nên rất ồn ào và nhức đầu. Mỗi đoàn có máy nghe chắc khác tần số nhau nên ít khi bị chệch choạc. Thế mà máy của tôi lại gặp trở ngại: Không nghe được tiếng của cô Hướng Dẫn mà lại nghe được Tiếng Ý, nên phải nhờ cô Hướng Dẫn chỉnh lại đôi ba lần!

Nguyên Thảo,
12/04/2020.





Thursday, May 21, 2020

*Nói Chuyện Tào Lao!



Đã từ lâu, Đồ Ngông tôi thường viết bàn về những câu chuyện mà Đồ Ngông tôi gọi là “những chuyện tào lao” hay nói đẹp đẽ hơn theo danh từ Hán Việt là “Tào Lao Thế Sự” để bàn bạc vui chơi cùng quý độc giả, cùng góp thêm vài ý kiến riêng hay cóp nhặt được từ trong dân gian, quần chúng cho có thêm mùi vị cuộc đời. Nay, nhân lúc phải ngồi nhà để giữ khoảng cách ly vì con Virus Covid- 19, hay có người gọi đó là con Virus Vũ Hán hoặc là con Virus của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, nó đang hoành hành đến mọi nơi, mọi nước trên thế giới và gây đến hàng trăm ngàn người phải chết và cả mấy triệu người lây nhiễm lẫn các nước phải đình trệ về kinh tế, đời sống và thiệt hại về ngân sách không biết bao nhiêu mà kể. Cả một thế giới đang lao đao, hàng tỉ người thấp thỏm không biết mình sẽ bị bệnh vào lúc nào, lại rồi về vấn đề tài chính và kinh tế cho cá nhân, gia đình sẽ phải đi về đâu? Đã thế mà phải bị giới hạn ở trong nhà hay khu vực hàng cả nửa tháng trời, thật là buồn chán! Người ta không biết trách ai bây giờ, thế mà kẻ gây ra cứ huênh hoang cho mình là người dẫn đường, đi trước thiên hạ!
Ở trong cái thời đại “Toàn Cầu” nầy khiến cho mấy nước nhỏ khó lòng mà toan tính được, không biết nên đi theo ai bây giờ? Theo ông lớn nầy thì lại mếch lòng với ông kia, mà đi ở cửa giữa thì không ông nào lại tin mình, mà theo một ông thì mình chỉ là chư hầu, nô lệ cho ông lớn đó mà thôi! Điều nầy làm cho tôi lại nhớ đến thời mình còn “con nít” đi chơi với mấy thằng lớn. Khi chúng nó thuận thảo nhau thì mình đi chơi chung vui vẻ; khi mà tụi nó nghịch nhau, hiềm khích thì mình chỉ là tay sai, chúng biểu mình ra khích bác đánh nhau để chúng giành lấy hơn thua theo kiểu “nhứt tướng công thành, vạn cốt khô”. Không nghe lời chúng thì chúng không cho chơi, vì ham chơi mình phải nghe lời chúng. Khổ nhất là lúc mình một mình, đang ngồi ở chỗ nào đó, chúng nó sai người vẽ lằn ranh đến sát chân mình không cho mình bước vào: Đó là lằn ranh lãnh thổ của nó, bước vào là nó đánh. Vì “sức yếu, thế cô” nên mình phải ngậm đắng, nuốt cay, yên lặng chịu thua mà rút lui. Mình tưởng mình lúc nhỏ bị cảnh đó là phải rồi, nhưng hơn mấy mươi năm sau, không ngờ đất nước mình lại giống y như cảnh hồi đó: Biển đảo của mình, nó lại lấn chiếm rồi lại vẽ lằn ranh, bước vào đó thì biết nó. Nó là “Người bạn tốt cùng giai cấp vô sản, bảo vệ chủ thuyết Thế Giới Đại Đồng”, nhưng Đại Đồng của nó không là bình đẳng, tương trợ cùng nhau, mà đều là có dụng ý. Nó tán đồng chia đôi đất nước của mình để rồi nó đưa vũ khí cho mình giết nhau, đánh nhau chí tử, phá nát tan hoang nhằm cho mình suy yếu đi để rồi nó không mệt mỏi mà thống trị, bắt mình làm chư hầu cho nó vì mình nợ nó quá nhiều! Mình đánh nhau để cho đất nước nó được an toàn, nó giúp mình chẳng qua để nước nó không bị hăm dọa lật đổ, hoặc chiến tranh.  Chứ nó chẳng tốt lành gì! Bây giờ mình suy yếu sau những trận chiến đánh nhau tương tàn thì nó tha hồ khuynh đảo trên đất nước mình qua nhiều lãnh vực, phương diện, mình phải cúi đầu lặng thinh giao cho nó! Chủ nghĩa Đại Đồng bình đẳng bây giờ thành chủ nghĩa Đại Đồng của ông thầy “Vạn Thế Sư Biểu” Khổng Tử ngày xưa: Đại Đồng theo kiểu phải quy phục về một mối, một Triều Đại duy nhất theo “Mệnh Trời” mà Hoàng Đế là do Trời ban cho, hay còn gọi là “Thiên Tử”. Kiểu cách đó trong truyện Kiếm Hiệp của Kim Dung gọi là kiểu làm “Bá Chủ Võ Lâm”!
Chủ Thuyết Đại Đồng của Marx-Engel thật thích hợp với dã tâm làm bá chủ thế giới của những quốc gia muốn thống trị thiên hạ nên nó càng được phát triển hơn, qua bạo lực trấn áp quyết liệt mà trong lý thuyết Marx gọi là “bạo lực cách mạng”. Và đồng thời với chiêu bài “chủ nghĩa quốc tế vô sản” nó được nêu lên để an lòng đối với những tổ chức ở nước nhỏ nhằm cho họ thao túng mọi tình huống qua danh nghĩa vì “Đại Cuộc”, chỉ tội cho những con người lãnh đạo nhẹ dạ lại “hiến dâng” đất nước mình một cách vui vẻ vì “Đại Cuộc” cho một xã hội Đại Đồng không tưởng trong tương lai!
Vì “Đại Cuộc” người ta không từ nan bất cứ mọi thủ đoạn nào để có thể giành được “Thắng Lợi”. Người ta có thể âm thầm phát triển vũ khí độc hại nhất miễn làm sao để thắng được kẻ thù; chinh phục bằng lấn áp, áp bức với kẻ thấp kém hơn; bằng nói “hòa bình” nhưng thực sự sau đó là chuẩn bị phát triển chiến tranh; bằng kiểu “dương đông kích tây” hòng chiếm thêm đất đai, lập đồn lũy để củng cố vị thế về quân sự của mình càng thêm lớn mạnh… Sự hùng cường về quân sự, kinh tế sẽ giải quyết được nhiều vấn đề trên ưu thế về sức mạnh. Lịch sử đã chứng minh điều ấy! Hơn nữa để biết, hiểu kẻ thù phải tận dụng lòng tin của chúng để “cướp” được tất cả những gì mà kẻ thù có để làm hành trang “tiến công” kẻ thù, như trong thời chiến tranh người ta đã có câu “lấy vũ khí của giặc để đánh giặc”. Ngoài ra người ta cũng có thể học theo lối “Ngụy Quân Tử” của “Nhạc Bất Quần” trong một bộ truyện nào đó của Kim Dung để lừa thiên hạ, cho thiên hạ thấy mình tốt mà theo phe! Tâm địa con người biến hóa thật là không thể lường được!
Bây giờ lại đến chuyện dùng con Vi khuẩn nhỏ bé để làm vũ khí, NẾU nó đúng là loại “vũ khí sinh học” thì quả thật người ta đã thành công một cách mỹ mãn, vẹn toàn vì nó gieo rắc tai họa cho thiên hạ, nhân loại vô vàn. Nương vào tình trạng lúng túng ứng phó của khắp nơi, người ta có thể thống lĩnh thế giới dễ dàng, đã thế mà còn chứng minh là mình là kẻ đáng thống lĩnh thiên hạ! Và nếu người ta tố cáo hành vi âm mưu của mình thì mình cứ tố cáo lại người ta trong luận cứ giống vậy để tạo nên “trận hỏa mù” mà thiên hạ bên ngoài không biết đâu mà rờ! Đó là “sách lược” mà người xưa đã để lại, ta cứ theo đó mà làm, tất nhiên sẽ có những con người “nhẹ dạ” sẽ nghe theo!
Ôi! Quả thật con Virus Vũ Hán nầy thật là độc đáo, có thể xem là độc nhất vô nhị: Người bệnh chẳng biết mình bị bệnh, đi tiếp xúc với bao người để rồi lây lan theo mức độ nhanh chóng theo cấp số nhân. Kẻ thù mà bị dịch bệnh rồi chỉ lo đối phó về y tế không thôi thì đã mệt, chứ chưa nói đến ảnh hưởng về kinh tế một cách khủng khiếp, mọi sinh hoạt trong dân chúng bị đình trệ. Trên thực tế đã cho thấy chỉ một số người nhiễm bệnh từ Vũ Hán lên máy bay đi đến đâu thì tạo thành những ổ dịch ở nơi ấy, và rồi sự lây lan nhanh chưa từng thấy. Hiện tình ở 213 quốc gia trên toàn thế giới đang phải ứng phó với dịch bệnh là một bằng chứng hiển nhiên: Với hơn 5 triệu người nhiễm bệnh, lẫn hàng trăm ngàn người chết. Nếu không là “mục đích” cho chiến tranh vi trùng thì tại sao người ta phải dấu diếm, hủy tang chứng, không cho người khác kiểm tra… với những hành động quyết liệt như vậy. Chính vì thái độ ấy, Đồ Ngông tôi thật là nghi ngờ, và không bao giờ tin được những luận điệu mà kẻ gây ra đã biện hộ, nhất là từ hiện tại cũng như trong quá khứ họ đã chẳng bao giờ là “Sự Thật”, mà chỉ là “Gian Trá”!

Đồ Ngông,
22/05/2020.




Saturday, May 9, 2020

*Những Điều Suy Nghĩ!



Đã từ lâu tôi không muốn suy nghĩ nhiều nữa về nhiều vấn để, nhất là về vấn đề chính trị. Có lần tôi phản đối với ông anh khóa trước của tôi khi anh gởi email cho mọi người muốn thành lập một trang web thứ hai cho nhóm Cựu học sinh để viết về chính trị và về mọi vấn đề. Thực ra tôi phản đối anh không phải về đường hướng ấy, mà tôi muốn rằng mọi cựu học sinh không phải gặp nhiều khó khăn khi tham gia hay đọc về trang web của cựu học sinh, khi mà phần lớn cựu học sinh còn phải nằm trong tầm kiểm soát, còn bị nhiều khó khăn về vấn đề chính trị. Đối với những người không nằm trong “rọ” thì viết hay đọc cái gì cũng được, còn người trong “rọ” thì muôn vàn khó khăn. Hở một chút là có thể đi nằm “nghỉ mát” ngay, hoặc là trong cuộc sống của họ sẽ phải đối đầu với mọi kiềm chế, theo dõi, quan sát trong mọi lúc. Tôi cứ luôn nghĩ là anh ấy không hiểu được được những cái điều đó sẽ xảy ra; nhưng tôi cũng chỉ phản đối chiếu lệ mà thôi! Còn ai thích gì thì cứ làm!
Đối với tôi trong thời gian không gọi là quá ngắn, nhưng cũng chẳng là dài để tôi có thể hiểu được nhiều vấn đề, nhất là tôi lại hay để ý những vấn đề về ngoài đời cùng cái đại loại gọi là “quan điểm”, cái mà coi hời hợt như vậy, nhưng rất là quan trọng. Người ta không cho mình đi ngược lại cái phương hướng mà người ta mong muốn, người ta muốn mình chỉ đi một chiều, trên tư tưởng một chiều: Cứ lẳng lặng và cứ nhìn theo hướng chỉ định mà đi, đi giống như những con ngựa được che bớt tầm nhìn và phải chịu nặng nhọc mà kéo xe! Cứ theo lịnh mà đi không được bàn cãi hay thoái thoát! Mà nếu có bàn cãi hay thoái thoát thì cũng chẳng được gì, vì bản thân chỉ là một hạt cát, mà hạt cát ấy là vô danh tiểu tốt, thì có cũng như không! Vậy thì hạt cát ấy sẽ làm được gì? Chỉ có nước “cuốn theo chiều gió”!
Tôi nhớ lại lúc trước người ta thường hay nói đùa cái câu “Các anh đừng có ‘no”, còn vế sau chắc bạn đã biết rồi! Cái chữ “no” đó nó chỉ là trại giọng nói thôi, nhưng nó lại có điều là đúng. Đúng về nghĩa đùa cũng lại đúng luôn về nghĩa thật: Mình có “lo” cho lắm thì cũng chẳng giải quyết được gì, vì có lo cho lắm thì cũng đã có tổ chức “lo” rồi. Cái “lo” của tổ chức mới là cái lo quyết định. Tổ chức “lo” như thế nào thì nhiệm vụ của mình là cứ làm như thế đó, chứ mình không được có ý kiến gì hết, vậy thì mình lo để làm gì, thêm cho mệt xác! Chính vì vậy mà mọi người lúc nào cũng cặm cụi, cắm cúi mà đi: Đi trong sự yên lặng, lầm lủi lo chạy lấy những đồng tiền cho cuộc sống của một gia đình hoặc chìm vào những ly rượu mà quên đi “sầu đời” sau một ngày vất vả! Có nhiều người quan trọng hơn mình nhiều, nhưng họ cũng chẳng “lo” được gì! Thế là mình cứ đi, đi theo dòng đời “nghiệt ngã” thế thôi!
Có lẽ tôi viết như thế đó sẽ có người cho tôi là thiếu “lạc quan” hay “tư tưởng tiêu cực”, mặc dù tôi rất muốn “lạc quan”, nhưng nhìn lại tôi không thể “lạc quan” được vì tôi không hề thấy con đường phía trước có chút gì để “lạc quan” nào cả. Như ngày trước tôi đã chờ đợi vào một bộ sử được cho là soạn thảo công phu và đầy đủ nhất, nhưng khi tôi có được nó trong tay, tôi thất vọng ngay từ những trang giới thiệu ở đầu, chứ chưa nói đến nội dung bên trong: Những giai đoạn hào hùng của dân tộc, của Tổ tiên chống giặc ngoại xâm tôi không thấy đâu, mà chỉ thấy những thần thoại của lịch sử chẳng có phần nào “chống giặc ngoại xâm”. Rồi từ đó tôi chẳng hề để ý đến sử nữa. Thế là tôi lại mất thêm một sự suy nghĩ! May là tôi chỉ là một tên tiểu tốt nên không cần phải lo, nếu mà tôi có lo thế nào đi nữa thì người ta cũng sẽ tước quyền “lo” của tôi mà dành quyền riêng cho họ. Họ có độc quyền ấy mà thôi! Và dù bạn có nói gì cũng không lọt vào tai họ! Thế rồi, chưa tới 10 năm sau, tôi nghe được người trong xứ ấy nói họ học trong trường với lịch sử cho rằng “nước của tôi” chỉ là một tỉnh của họ mà thôi. Thế là tôi “ngộ” ra rằng bộ lịch sử được xem là công phu, vĩ đại trước kia chỉ là “cái” được soạn theo phương hướng “làm nô lệ” cho một chủ nghĩa quốc tế “nô lệ” mà mình đã đút đầu vào! Nhưng tôi có “lo” thì cũng chẳng làm được gì!
Thông thường người ta khi “lãnh đạo” cái gì đó người ta phải nhìn vào cái thành quả, cái đạt đưọc đã đem đến cho mọi người trong thời gian nào đó sự sung sướng, hạnh phúc cho người dân hay đất nước để biết được đường lối “đúng” hay “sai”. Nếu không đạt được kết quả tốt tức là mình đã sai rồi! Thế nhưng, người ta đã chẳng nhìn vào cái thực tế ấy mà cứ nghĩ đường hướng mình đi là đúng đắn; do đó mà không hề có sự thay đổi nào dù cho người dân đang oằn oại trong sự khổ đau, thiếu thốn cứ kéo dài từ năm này sang tháng khác. Trong khi đó do hoàn cảnh thiếu thốn, nghèo nàn những kẻ được ban phát quyền lộc trở nên thành những “kẻ kiếm tiền” từ những người dân đen qua các hành động gây “khó khăn”, chần chờ để mọi người phải lo lót, hối lộ nên người dân đã khổ lại càng khổ hơn. Nếu không như vậy thì cứ tìm cách xây cái nầy, dựng cái kia để có công quỹ rót về mà “bòn rút”, chia chác cùng nhau. Xã hội cứ kết bè chia nhau giống như bầy chim giành giựt nhau một cái miếng mồi chung, chẳng nghĩ gì đến cái gọi là “Chí công vô tư", “Cần kiệm, liêm chính”. Thiên hạ trong cuộc sống “băn khoăn” về điều đó, nhưng có lo nhiều chi chăng nữa thì cái lo ấy cũng vô ích vì đã có “người khác” lo rồi! Cái lo của mình chỉ là cái lo vẩn vơ, vô ích!
Bạn cứ thử nghĩ đi: Nếu làm một công việc gì đó, mà bạn biết bạn sai để sửa sai tức thời thì hậu quả của nó không có gì là nghiêm trọng. Nhưng nếu bạn làm nhiều năm mà người ta chỉ cho mình sai, nhưng mình cứ nghĩ là đúng thì chuyện năm, mười năm sau khi bạn biết sai để sửa sai thì nó đã tốn quá nhiều thời gian và đã hư hại đến bao nhiêu rồi. Vậy thì trên vấn đề lãnh đạo bạn cứ làm như thế thì bạn đem lại tai hại, hoang phí không biết bao nhiêu mà kể. Vậy bạn có phải là “tội đồ” hay là bạn “có công”? Mọi người lo lắm, nhưng cái quyền lo của họ đã bị tước đi mất tự lâu rồi!
Đã lâu lắm, từ khi tôi muốn tìm hiểu về một lý thuyết được “vẽ vời” ra như một “Thiên đường” cho loài người trên trái đất nầy, cho một lý tưởng sống mà bao nhiêu người trí thức cũng “mê mẩn” tin vào; nhưng tôi lại thắc mắc: Tại sao lý thuyết nói tốt đẹp như vậy mà không ai muốn sống trong đó, mà họ phải từ chối, trốn chạy để xa rời không kể đến sự sống chết, mà chẳng phải là một nơi mà gần như hầu khắp cả vùng miền trên thế giới! Có lẽ đối với những người sống đã “kinh qua” giữa hai chế độ thì không còn lạ gì, vì người ta đã sống qua cái thời gian trong một chế độ tự do khi muốn mua gì thì chỉ cần ra tiệm mà mua không cần phải có giấy tờ, hộ khẩu hay sắp hàng cả ngày; muốn đi đâu thì xách xe ra đi hoặc muốn đi thăm bà con hay người quen không phải đem theo thực phẩm “tiêu chuẩn” của mình, và còn nhiều thứ lắm… Đời sống mà một người cha đi làm có thể nuôi cả gia đình, chứ không phải ai cũng đi làm: Nhỏ làm theo nhỏ, lớn làm theo lớn mà vẫn không đủ chi. Ôi! Cái Thiên Đường “đào tạo những mẫu người” giống hệt nhau như các sản phẩm của cùng một nhà máy sản xuất ra trên cùng một mô hình, cùng một khuôn mẫu mà tất cả đều phải suy nghĩ như nhau và “biết tự khen mình” như những con rối được lồng vào cùng “một phần mềm” cho cuộc sống! Những người chỉ biết làm theo mệnh lệnh từ khi bước vào, họ tiêu cực thì được yên thân, sống thọ không phiền hà. Nếu ai tích cực, sốt sắng làm hăng say, nhiệt tình thì dễ sai lầm: Làm nhiều mới trật nhiều, trật nhiều thì bị phê bình, khiển trách đôi khi là tội đồ bị vướng vào lao lý. Thế mà người ta vẫn lao vào như những con thiêu thân, cứ tưởng mình là thành phần “ưu tú” hơn người, rồi chỉ đợi một ngày: “Một ngày để chết”!
Cho nên sự suy nghĩ của tôi được gọi là “ngưng trệ” nửa chừng. Tôi không muốn suy nghĩ nữa, giống như một “con chim”, con chim của nhà thơ “Tố Hữu” ngày xưa đã thốt lên. Tôi xin chép tặng Quý Vị lại bài thơ ấy để gọi là kết thúc “Những điều suy nghĩ” của tôi!


Con Chim Của Tôi.

Nó chết rồi, con chim của tôi
Con chim sẻ sẻ mới ra đời
Hôm qua nó hãy còn bay nhảy
Chỉ một ngày giam, đã chết rồi!

Tôi muốn cô đơn dịu bớt sầu
Nên tôi yêu nó có gì đâu!
Tình thương vô ý gây nên tội
Tôi đã tù, sao bắt nó tù?

Sao nỡ dù trong giây phút thôi
Bắt con chim nhỏ hận câm lời
Sao không trả nó về mây gió
Cho nó say sưa uống ánh trời?

Tôi dẫu dành cơm mớm nó ăn
Đủ làm sao được: Thiếu không gian!
Sao tôi không hiểu, sao không hiểu?
Để tội tình chưa, nó chết oan!

Tố Hữu,
Xà lim số 1, lao Thừa Thiên
Tháng 5- 1939.




Đồ Ngông,
10/05/2020.




Saturday, May 2, 2020

*Quê Người! (30)



Dần dà, hơn một tuần trôi qua. Tôi phải vào trường học để ghi tên cho lớp kế tiếp. Đa số chúng tôi đều như vậy. Bác Vỹ, Bác Phương cũng như Liêm là những người có trình độ Tiếng Anh giỏi ở Việt Nam mà cũng còn than là: Tụi Úc nói khó nghe quá, mà qua bên nay tiếng Anh dở thì khó mà định hướng được con đường mình sẽ chọn để đi. Thôi thì ráng học để cứng cáp hơn thì mình sẽ quyết định! Thế là chúng tôi cùng nhau tính học hết khóa sau nầy rồi sẽ chọn cho mình con đường để đi. Với thời gian rỗi rảnh, tôi và Thành ráng coi tài liệu học thi bằng L của chương trình học lái xe. Có nhiều đêm nhất là những ngày cuối tuần có vợ chồng Huynh hay Trí, Mai đến chơi thì cũng bàn bạc đến chuyện thi bằng lái. Rồi có thêm nhiều ý kiến, kể cả những người thi trước kia họ ghi được nhiều câu trả lời, rồi góp lại để cho người sau làm “bửu bối”. Từ khi Trọng và chị Yến bị Kiệt, Hường đuổi đi và Trọng ra mướn nhà nầy thì Kiệt, Hường không có lần nào đến, nhưng bù lại thì có rất nhiều bạn bè đi làm chung ghé chơi với Trọng trong những ngày rảnh rang như anh Tú, anh Nam, anh Bảy trẻ hoặc Ba Anh, nhất là vợ chồng ông Hoài ngoài vợ chồng Huynh, Trí Mai thì ghé thường xuyên. Nhờ vậy mà tôi quen được nhiều người trong điều kiện mà mình không thể có. Từ câu chuyện thi bằng lái xe tôi mới được biết là khi đi thi bằng L có khoảng 40 câu trả lời nhưng thứ tự các câu sắp xếp khác nhau trong 3 bản thi trắc nghiệm A, B hay C (kiểu trả lời a, b, c khoanh). Những người thi trước mỗi người nhớ một ít rồi kết hợp với nhau để gom góp bản trả lời tương đối cho những người thi sau, chẳng hạn bảng A thì câu 1 trả lời là (b); câu 2 (c); câu 3 (a)…chẳng hạn. Cũng vậy, người ta có bảng B lẫn bảng C mặc dù không đủ nhưng có được câu nào hay câu nấy. Đó là do những người thi trước đã bị rớt khá nhiều, nên kinh nghiệm khiến họ nghĩ ra cách đó. Kiểu học “gạo” ấy chỉ giúp ích là khi nó đúng và đúng vào bảng mà mình thi. Dù gì thì các câu trả lời gom góp nầy cũng giúp thêm kinh nghiệm cho mình chiêm nghiệm để trả lời trong lúc thi. Bob và Joeff cũng thường hay đến mỗi khi họ rảnh, bây giờ có Trọng rành Tiếng Anh hơn nên các câu chuyện cũng đủ thú vị chứ không nhạt nhẽo cho lắm, đôi lần Joeff cố tìm cách giúp tôi về đàm thoại, nhưng trở ngại là từ ngữ tôi không có nhiều cho nên khá khó khăn. Tôi biết được điều ấy nên ráng cố gắng lục lọi từ tự điển bằng hình ảnh hay sách khác mà tôi có thể học để làm cho vốn từ ngữ của mình được tốt hơn. Tiếng Anh sẽ là vấn đề quan trọng trong cuộc sống của tôi từ đây về sau, mặc dù người Việt mình càng ngày càng định cư nhiều theo chương trình tị nạn cùng đoàn tụ gia đình. Nhưng hiện nay chương trình “Đi theo diện đoàn tụ” đã bị nhà nước Việt Nam đình chỉ từ sau ngày tôi đến Úc cho đến bây giờ và chẳng biết kéo dài bao lâu. Tôi không dám hi vọng nhiều, nhưng chuyện làm thủ tục cứ tiến hành, rồi đến đâu thì hay đến đó. Nhiệm vụ của tôi là cố gắng làm để kiếm tiền gởi về cho vợ con lẫn cha mẹ để họ đỡ khổ trong hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, còn chuyện nhà nước có sắp xếp gia đình tôi vào loại chính trị nào thì cũng đành chịu thôi, mà cũng chẳng phải là gia đình của một mình mình!
Trước khi vào lớp học mới, tôi và Thành được Trọng chở đi xuống dưới chỗ đăng bộ xe để thi lấy bằng L. Chúng tôi thi trước mấy câu bằng hình. Khi trả lời đúng sáu câu đó mới được thi tiếp bằng trắc nghiệm a, b, c khoanh của bốn mươi câu kế tiếp. Tỉ lệ không đúng là tám câu, nếu sai trên tám câu thì bị rớt, phải thi lại, tốn thêm mười lăm đô nữa. Tôi và Thành đã vượt qua được kỳ thi ấy! Vậy là tôi và Thành tiến thêm một bước nữa trong cuộc sống xa lạ nơi quê người! Còn Tiếng Anh thì chúng tôi phải tiếp tục mà Bob lẫn Joeff là trợ giúp cho chúng tôi thực hành về đàm thoại khi mỗi lần họ đến chơi.
Lớp học mới của tôi, có thêm nhiều người mới, trong đó có một người Lào và một người Kampuchia có cả anh Đồng, người biết tiếng Kampuchia và Tiếng Pháp, cô Hương, Hiếu và Thế (người đã bảy năm tới Úc và đang làm ở hãng xe hơi Holden đang muốn học thêm). Lớp được hướng dẫn do cô Sally. Học được vài ngày Thông nghe bạn bè nói ở trên cơ sở mới của hãng xe Holden trên vùng Elizabeth có nhận người vào làm, thế là Thông rũ tôi lên trên đó xin việc. Chúng tôi hẹn ngày. Sau khi học xong tôi và Thông ra ngay trạm xe buýt gần trường để đón xe đi. Chúng tôi phải đón hai tuyến xe mới đi tới được trên đó. Từ trạm xe lội bộ đến văn phòng của hãng khá xa. Vào văn phòng hai đứa gặp nhân viên hỏi cần giúp gì. Chúng tôi đáp cần xin việc làm. Nhân viên chỉ nói câu: Không có việc trong lúc nầy. Thế là chúng tôi không biết nói gì hơn là thui thủi ra về.
Ra đến trạm xe buýt thì lại là hai trạm gần nhau. Thông hỏi tôi mình đón ở trạm nào, tôi chỉ trạm phía đàng kia vì tôi đã coi trên sơ đồ của tuyến xe kỹ rồi, nhưng Thông không thích đi thêm nữa nên đành đón ở trạm gần nầy. Tôi theo ý của Thông. Tất nhiên lộ trình của xe buýt mà chúng tôi đi không theo ý của mình vì nó có lộ trình của nó. Thế là chúng tôi phải đi lên tận trên Modbury của vùng Đông Bắc. May là anh Y trước kia có hướng dẫn, nếu mình đi xe buýt mà bị lạc thì cứ nhắm hướng xe chạy về City mà đón để về đến City, rồi mình đón xe buýt về nhà vì mọi xe buýt đều chạy về City, trừ tuyến xe chạy vòng vòng. Về đến nhà tôi lại nghĩ: Mình có thêm được một bài học đáng nhớ!
Với lớp học mới được vài tuần thì cô Sally chuyển đi Tiểu bang khác, nên người mới là Thầy Paul cũng còn trẻ phụ trách. Trong thời gian nầy Thông được bạn bè hướng dẫn và giúp đỡ nên đã đi hái cam ở trên Renmark. Ngày Thông chuẩn bị có vào lớp học giã từ chúng tôi: Kim, Liêm, tôi và mọi người. Quả Thông giỏi thật, trên bước nào Thông cũng đi trước nhiều người cả, điều ấy khiến tôi thấy Thông giỏi hơn tôi quá nhiều!
 Trong khoá học nầy tôi thấy tôi tương đối nghe khá hơn, và không thụ động như trước, nhưng điều là từ ngữ của tôi không được nhiều, nên sự thực hành Tiếng Anh của tôi bị giới hạn rất nhiều không những ở sự đàm thoại mà ngay ở cả về nghe. Khi nghe một câu mà có vài từ không hiểu thì tôi cũng chẳng hiểu luôn, vì vậy mà đoán mò là căn bản. Điều ấy làm cho tôi nhớ lại khi nói chuyện với người Tàu hay Kampuchia về Tiếng Việt mà họ không hiểu thì họ chỉ cười hay gật gật cái đầu, thì bây giờ tôi cũng lâm vào tình trạng giống như vậy. Sở dĩ như thế là vì khi mình thú thật mình không hiểu nhiều quá thì cũng thấy “kỳ” hay “ngại” với người đối thoại, cho nên phải “cười” lấy lệ để họ vui lòng! Không ngờ sau nầy tôi cũng phải xài cách ấy mà khi còn ở Việt Nam không bao giờ tôi nghĩ tới!
Có một hôm chị Hương trả lời cho Thầy Paul một câu hỏi, chị nói khi chị biết tiếng Anh nhiều làm cho chị “tự tin” hơn khi giao tiếp bên ngoài. Điều ấy khiến cho tôi thấy sự hợp lý, “đúng nhất” trong việc học Tiếng Anh, nhất là chúng tôi đang chọn xứ Úc, quê hương nói tiếng Anh, là quê hương thứ hai của mình! Còn “quê cha đất Tổ” dành riêng cho người Cộng Sản! Dù thế, học Tiếng Anh cũng không hề đơn giản, nhất là đối với tôi vì trí nhớ kém, học nhiều nhưng chẳng nhớ được bao nhiêu!
Tôi đành phải dành nhiều thời gian để đi đến những tiệm sách hay thư viện để mượn tài liệu, băng cassette về để nghe hay học thêm từ ngữ, hoặc luyện cho mình về giọng đọc. Có một lần tôi đón xe buýt đi ra “City”, tức trung tâm thành phố, nơi đó cũng có những lớp học Anh Văn ở trên đường Rundle Mall là cái phố đi bộ dành cho những người đi mua sắm. Trên xe buýt có một anh chàng người Úc to con thường nhìn vào tôi, khiến tôi phải e dè mà né tránh cái nhìn của anh ta. Tôi lại nhớ đến tình cảnh kỳ thị của người Úc say rượu đã “cự” Kim, Hiệp và tôi trên xe buýt thuở nào, cho nên tôi lại cẩn thận và dè dặt hơn!
Đã thế khi tôi xuống xe ở chỗ tượng người cỡi con ngựa thì anh ta cũng lại cùng xuống với tôi. Tôi lại càng sợ hơn. Tôi đi chậm để chờ anh ta đi qua, nhưng anh ta cũng đi chậm theo và rồi anh ta hỏi tôi đi đâu. Tôi nói tôi đi đến trung tâm Anh Văn ở Rundle Mall để mượn sách, thì anh ta cũng đi đến đó. Trong câu chuyện anh ta cho biết tên là John, rồi câu chuyện chúng tôi cũng khá nhiều, lúc nầy tôi mới biết là Tiếng Anh của tôi có tiến bộ vì qua cuộc đối thoại tôi thấy mình không bị trở ngại cho lắm. Lên thang máy xong tôi từ giã John để làm công việc của mình, John đi công việc của John. Sau khi mượn sách và băng cassette xong, tôi xuống thang máy để ra đường đón xe buýt đi về. Ở trong thang máy, tôi đi chung với vài người Tàu. Họ rất là tự nhiên cười nói ồn ào. Lúc nầy tôi mới hiểu được tâm trạng bực bội của nhiều người trong vấn đề xã giao cũng như lịch sự. Trong khoảng kín không gian của buồng thang máy, mình nghe sự ồn ào, lớn tiếng khiến cho lỗ tai của mình rất là khó chịu, muốn “bưng cái đầu” ra! Hơn nữa với ngôn ngữ mình không hiểu thì nó lại càng thấy khó chịu, làm cho mình khó đồng cảm với họ. Từ đó tôi mới hiểu tại sao mấy người đi trước cho biết là người Úc họ không lớn tiếng nơi công cộng hay chỗ đông người, thì ra họ biết lịch sự đối với những người chung quanh và không làm cho người khác phải khó chịu vì những hành động vô ý của mình!
Lại thêm một ngày khác, nhằm ngày rảnh rang tôi cũng đón xe buýt đi ra mấy tiệm sách ở ngoài Rundle Mall lục lọi những sách để học về từ ngữ. Tôi đi vào tiệm sách và đi mãi vào phía trong cùng là nơi để sách về Ngoại ngữ để tìm kiếm. Mãi mê lục, xem vài cuốn thì có một anh nước da hơi ngâm ngâm cứ luôn nhìn tôi. Lúc đầu, tôi tưởng anh thấy tôi có nét gì khác nên nhìn thế thôi! Nhưng dần về sau anh nhìn tôi nhiều hơn khiến tôi thấy hơi bối rối. Cuối cùng anh hỏi tôi: “Anh có phải người Việt không?”, Tôi nghe nhẹ nhỏm: “Dạ!”. Anh tự giới thiệu: “Tôi là Mục sư Hợi”, tôi cũng tự giới thiệu lại với anh. Anh hỏi tôi muốn tìm gì? Tôi trình bày với anh về ý định của mình. Anh chỉ cho tôi cuốn Tự Điển có tên là: “Longman LEXICON of Contemporary English”, anh nói: Nếu anh muốn học về từ ngữ thì nên mua cuốn nầy hay hơn. Tôi làm Thông Dịch cũng nhờ vào nó đó. Nó rất tiện cho mình. Sau đó thì tôi và anh có những câu chuyện xã giao, làm quen nhau. Anh Hợi là người Việt sinh sống ở bên Lào, anh theo Đạo Tin Lành và có vợ người Úc, anh đến Úc nầy cách nay vài năm. Sau câu chuyện ngắn thì anh giã từ tôi và cho tôi một danh thiếp về địa chỉ và số phone để thỉnh thoảng nói chuyện nhau chơi!
Với quyển tự điển Lexicon tôi đỡ vất vả hơn khi muốn tìm những từ ngữ để học. Tôi cố gắng viết ra để mỗi ngày đọc một ít. Tôi học theo kiểu “Mưa lâu thấm đất”, chứ học theo kiểu thuộc lòng thì tôi chịu thua vì đơn giản là “Trí nhớ tôi quá tệ” đã là tự từ xưa tới giờ!

Nguyên Thảo,
31/03/2020.




*Đi Nga. (8)



Theo lịch trình thì sáng nay chúng tôi sẽ khởi hành đi thăm viếng nhiều nơi trong thành phố, nhưng vì ngày hôm qua mới đến Saint Peterbourg rồi lại đi cả ngày nên ai cũng mệt mỏi cho nên thời gian khởi hành sẽ là 9 giờ sáng để mọi người được thơi thả hơn. Tuy thế, chúng tôi cũng phải tính đến thời gian mà sắp xếp giữa thức dậy đi ăn sáng và chuẩn bị. Có người chuẩn bị tức là thức dậy vệ sinh, soạn đồ đạc trước rồi mới đi ăn sáng, sau đó thì họ ra xe di chuyển đi luôn. Có người thì đi ăn trước rồi mới trở về phòng lo chuẩn bị để xuống xe đi. Nhưng chúng tôi (đoàn Adelaide) đa số chọn đường thức dậy sớm làm mọi việc vệ sinh, chuẩn bị đồ đạc xong mới đi ăn sáng, rồi trở lên phòng đi vệ sinh, nếu cần, và lấy đồ đạc xuống xe cho cuộc hành trình thì tiện hơn vì với thời gian dài mình không phải bị động trong vấn đề vệ sinh.
Xe khởi hành từ lúc 9 giờ sáng, chỉ cần đánh vòng đi ngược lại một cái bùng binh rộng với những cột cao của cái cổng lớn trang trí giữa bùng binh thì là đường trở về city thành phố. Từ đó xe buýt cứ hướng tới trung tâm. Chỉ hơn 15 phút sau thì xe chạy ngang qua tượng Tưởng niệm Hoàng Đế Nicholas I, nhưng tượng hình như đang được sửa sang như thế nào đó mà được bao vòng kín bằng những hàng rào với hình nhà vua đang cưỡi ngựa lớn in trên tấm bạt căng che tượng thật bên trong. Cũng như những người Hướng Dẫn khác khi đi  tours trong thành phố thì khi đến những nơi nào đó, cô Hướng Dẫn vẫn thuyết minh cho chúng tôi là đang đến nơi nào hay những tòa nhà gì, nhưng có lẽ do tiếng Anh của mình không khá lắm hoặc lo nhìn ngoại cảnh bên ngoài, hoặc do lo chụp hình quay phim nên cũng ít ai chú trọng vào cái nghe. Xe chạy dọc theo con đường bên bìa sông nên mọi người vừa nhìn cảnh được bên kia sông với những cầu hay du thuyền, tàu bè trên sông. Trời nhiều mây khiến bầu trời khá u ám lẫn mưa nhỏ, rồi với gió mặt nước sông sóng gợn lô nhô nhìn cảnh thật là nên thơ. Trên đường đi có nhiều công viên và những tượng đài tưởng niệm của các nhân vật nổi tiếng nào đó của Nga hay của Thành phố, nhưng thú thực tôi chẳng hiểu nhiều về lịch sử nước Nga nên chẳng biết những người đó là ai và chỉ nghe loáng thoáng về sự thuyết minh của cô Hướng Dẫn thôi, vì thế mà chẳng lĩnh hội được nhiều! Vả lại như tôi đã nói ngay từ đầu vì trước khi chuyến đi tôi đã xem vài cái Vlog du lịch rồi, thấy người ta làm Vlog thì hứng thú hơn nhiều, còn mình viết thì không hấp dẫn cho lắm, nên trong chuyến đi nầy tôi không định ghi lại. Do vậy mà cái viết ở đây chỉ là những kỷ niệm dành riêng cho mình, chúng được nằm vào trong cái blog riêng tư như là những gia vị của một đời người mà tôi được trải qua. Tôi cố ghi lại những điều mà tôi ghi nhận, hiểu được cùng những nhận xét lẫn so sánh về cuộc sống nước nầy trong thời Cộng Sản, mà một phần cuộc đời của tôi cũng được “kinh qua” giữa hai chế độ! Tất nhiên là những người Cộng Sản sẽ không thích mấy, vì mục đích của họ chỉ là “muốn đào tạo con người chỉ biết một chiều, cùng nhìn về một hướng” để xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội thôi, dù con đường ấy đưa đến sự đau khổ, túng quẩn, kềm chế con người trên nhiều phương diện, nhưng mọi người “bắt buộc” vẫn phải “lạc quan về con đường Cách Mạng”!
Với thời gian ở Moscow vài ngày qua ít ra tôi cũng nghe, hiểu được một phần nào về cái thực tế của Chủ Nghĩa Xã Hội hay Chủ Nghĩa Cộng Sản được thực hiện trên đất Liên Xô, là nơi được gọi là “Cái Nôi” của chế độ được gọi là “Ưu Việt” ấy. Những năm đầu sau ngày Thống Nhất đất nước 30/ 04/ 1975 tôi cứ nghe người ta nói về “Chủ Nghĩa Ưu Việt” là “Đỉnh Cao Trí Tuệ Của Loài Người” tôi cứ hỏi nhiều người về “Đỉnh Cao Trí Tuệ” ấy? Người thì trả lời là “Những người lãnh đạo, cấp trên” ấy; người thì không biết, nghe người trên nói thì cứ nói như vậy thôi; người thì nói là về lý thuyết: Tức là những sự “mù mờ” được giải thích cũng một cách mù mờ. Ngày hôm qua lẫn hôm nay tôi đang ở trong cái Thành phố mà trước kia được vinh dự mang tên của nhà “thực hiện” cuộc Cách Mạng Vô Sản của Nga vào Tháng Mười Nga năm 1917, và cũng là cuộc Cách Mạng Cộng Sản đầu tiên trên thế giới! Nhà Cách Mạng ấy là Lenin! Trong thời kỳ Cộng Sản nắm chính quyền, thực thi lý thuyết của Marx- Engel thành hiện thực. Thành phố nầy từ nguyên thủy trước kia tên là Saint Peterbourg được đổi sang là Petrograd sau Đệ Nhứt Thế Chiến, rồi đến thời Cộng Sản được gọi là Leningrad, tức là Thành Phố Lenin. Sau khi sụp đổ của chế độ Cộng Sản vào năm 1991, Thành phố nầy được trưng cầu dân ý lấy lại tên ban đầu là Saint Peterbourg! Tuy vậy, cô Hướng Dẫn người Nga cũng hóm hĩnh: Biết đâu về sau Thành phố nầy lại có tên “Putingrad” cũng không chừng! Cô nói xong cô lại cười!
Sau ngày 30/ 04  tôi được “lưu dung” để dạy lại trong chế độ mới. Vì tôi vốn là môn “Sử Địa” thế mà sử lớp chín tôi chẳng hiểu gì hết. Nào là “cách mạng vô sản”, nào là “Xô Viết Nghệ Tĩnh”; thế nào là “Xã Hội Chủ Nghĩa” và sao là “Chủ Nghĩa Xã Hội”... Học trò hỏi thì tôi cũng chẳng biết để trả lời. Thế là tôi phải cố gắng tìm hiểu, tôi phải bỏ ra rất nhiều thì giờ đọc hết cái nầy đến cái khác, sẵn để tìm hiểu về cái chủ nghĩa “mới tinh” nầy! Sau những câu trả lời của nhiều người không thích đáng về “Đỉnh Cao Trí Tuệ Của Loài Người” tôi lại nhớ lại cái mớ lý thuyết “bòng bong” mà tôi tìm hiểu được, tôi nghĩ: “Không lẽ là lý thuyết của Marx đã xây dựng nên là từ Tổng hợp của nhiều tư tưởng của người đi trước thuộc “đỉnh điểm” vào thời ấy được kết hợp lại như: Thuyết Tiến Hóa của Darwin để xây dựng những bước tiến của Xã hội như từ Xã HộI nguyên thủy đến chiếm hữu rồi phong kiến tới Tư Bản để rồi tới xã hội có tổ chức đến Cộng Sản chăng? Từ Biện Chứng Pháp của Hegel cộng với quan niệm Duy Vật của Feuerbach để thành hình Duy Vật Biện Chứng và Duy Vật Sử Quan? Hay từ cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ tiến đến Tư Bản Chủ Nghĩa và Chủ Nghĩa Đế Quốc đi chiếm thuộc địa để mở rộng thị trường cùng kiếm nguồn tài nguyên… Và còn nhiều thứ nữa mà tôi không thể hiểu được vì quá khả năng hiểu biết của tôi. Nhưng tựu chung lại là Karl Marx tổng hợp những tư tưởng hiện có đương thời để tạo nên một lý thuyết mới định hướng trong tương lai. Lý thuyết ấy hấp dẫn cho nhiều người trí thức trong xã hội vì lý tưởng của nó là đem đến hạnh phúc cho tất cả mọi người, cùng với sự công bằng xã hội, không có người áp bức, bốc lột người tiến đến loài người cùng nhau tạo lập một Thiên Đàng nơi hạ giới (trên trái đất nầy). Và tiến xa hơn lý thuyết ấy được Karl Marx cùng Engel kêu gọi biến thành hiện thực trong Bản Tuyên Ngôn Của Đảng Cộng Sản vào năm 1848.
Không biết theo cái kiểu suy luận của tôi có đúng không, chứ đến ngay bây giờ tôi cũng chưa được “cái” tài liệu nào chứng minh cho tôi thấy cái “Đỉnh cao trí tuệ của loài người” ấy là thỏa đáng cả. Nếu nói “Đỉnh cao” là những người lãnh đạo thì nó có đúng không? Có thỏa đáng không? Khi mà thực hiện cơ chế, hay chế độ đó người dân đã phải chịu nghèo đói, đau khổ, bị ép chế trên nhiều phương diện qua cái biện pháp đàn áp bằng “Bạo lực Cách mạng” mà những người lãnh đạo cũng không biết đến thì như vậy họ chẳng là “đỉnh cao trí tuệ” rồi!
Trong khi tôi nhìn khung cảnh bên ngoài mà đầu óc có nhiều miên man thì có tiếng của cô Hướng Dẫn cho biết là mình sẽ xuống xe, rồi cô cho biết mấy giờ mình sẽ trở lại đây, tức là chỗ xe buýt đang đậu. Chúng tôi xuống xe trong cơn mưa nhè nhẹ, gió hơi lành lạnh, mọi người khoát áo mưa hay che dù đi trong mưa đi vào khu nhà thờ mà có đỉnh tháp nhọn cao vút lên trên như là một cây kim màu vàng “gold” sáng chói.
Thánh Đường Saint Peter Và Saint Paul.

Bước qua sân rộng rãi lát gạch, chúng tôi bước vào bên trong của nhà thờ. Khác với những nhà thờ khác mà chúng tôi đã vào ở bên Mạc-Tư-Khoa (Moscow), nhà thờ nầy có những đèn, vật trang trí, hình tượng đều bằng màu vàng gold hay dát vàng tôi chẳng biết, nhưng nhìn qua đã thấy chói lọi cùng ánh đèn sáng của những chùm đèn điện bên trên ngay giữa nhà thờ. Ở đây không có vẽ nhiều tranh tượng ở trên vách hay cây cột, nhưng ở hai bên lại có những gì giống như là những “nấm mộ” để chôn người chết. Mà thật vậy, theo Cô Hướng Dẫn thì đó là những nấm mộ của gia đình Sa Hoàng cuối cùng Đế chế Nga là Nicholas II bị cuộc Cách Mạng giết chết chôn ở đâu đó, rồi sau khi chế độ Liên Xô bị sụp đổ thì người ta mới đi tìm, gom góp đem về an táng trong nhà thờ Saint Peter và Saint Paul nầy vào ngày 17 tháng 7 năm 1998 nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày họ bị thảm sát. Hình như người ta chưa tìm được xác đứa con nhỏ nhất của hoàng gia nên còn bỏ trống. Người đến xem khá đông mặc dù còn mưa và khá sớm, mới hơn 10 giờ sáng.

Sau hơn nửa tiếng chúng tôi trở ra xe, mưa đã dứt hột, nhưng trên bầu trời mây xám xịt, gây cho mình một cái cảm giác buồn buồn mà gió lại hơi lành lạnh khiến mình phải kéo vạt áo ấm cho kín hơn chút nữa, rồi tôi lại nghĩ về “quan điểm diệt tận gốc hay sự chống đối của kẻ thù” ở người Cộng Sản khi họ dùng đến “bạo lực cách mạng” để trấn áp mọi thế lực thù địch; mà lý lịch của kẻ thù luôn luôn được chú trọng đến. Đó là lý do mà con cháu của kẻ thù không thể “ngóc đầu lên nổi” cho dù chúng là những thiên tài!
Xe chạy trở lại con đường cũ quay trở về. Bây giờ tôi mới để ý đến hai trụ cao, màu đỏ trong cái công viên nhỏ được đốt cháy ở trên đỉnh như hai ngọn đuốc lớn. Không biết đó là đài tưởng niệm hay là để soi sáng vào ban đêm cho các tàu bè như là ngọn hải đăng chăng? Bên dưới du khách đang thăm viếng khá nhiều dù trời đang lạnh trong cái âm u của bầu trời. Mặt nước sông sóng lô nhô phản chiếu màu xám trên trời, tương phản với màu trắng của các du thuyền đang chạy hay đậu trên sông. Trong công viên treo nhiều cờ Nga đang phất phới theo chiều gió. Xe đi lại trong thành phố băng qua mấy con kênh đào mà mặt nước yên lặng hơn. Kênh đào ở đây có hai bên đường là xe hơi chạy chứ không phải là nhiều xe đạp như ở bên Hòa Lan. Dọc đường tôi thấy có vài building đang sửa chữa, nhưng nhìn với cách họ xây gạch và kiểu cách thì có lẽ họ phải giữ nét cổ kính của nó. Tôi còn trong ý nghĩ về nhận xét của mình thì xe đang dần vào bãi đậu xe và chúng tôi đi vào nhà hàng để ăn trưa. Sau khoảng một tiếng đồng hồ thì chúng tôi được đưa vào trong một cửa hàng bán đồ lưu niệm. Cửa hàng nầy tương đối lớn có đủ nhiều mặt hàng để mình chọn các món làm quà cho gia đình, bạn bè và con cháu. Vợ tôi và tôi cũng mua vài món để cho mấy đứa cháu.
Xe rời khu nầy vào lúc 2 giờ. Thông thường thì tới những nơi quan trọng hay di tích nào đó dù không ghé vào, nhưng Cô Hướng Dẫn cũng thuyết minh cho biết vài thông tin về nơi đó. Tuy nhiên vì một phần tiếng Anh của chúng tôi, đa số là ngưòi lớn tuổi, không rành lắm, một phần do giọng thuyết minh hơi khó nghe vì cô ấy là người Nga. Lại thêm phần nữa là chúng tôi thường hay tập trung vào nhìn cảnh cũng như chụp hình hay quay phim nên không lĩnh hội được nhiều, mà chỉ nghe loáng thoáng thôi!
Đến khoảng 2 giờ 20 thì chúng tôi xuống xe để đi vào thăm viếng nhà thờ nổi tiếng nhất của Thành phố Saint Peterbourg nầy: Đó là nhà thờ “Savior on the Spilled Blood”. 
Nhà Thờ "Savior on the Spilled Blood"

Nhà thờ nầy có cách kiến trúc thật là qui mô, nhất là những hoa văn bên ngoài rất công phu mang tính cách đặc biệt của Nga mà chúng ta thường thấy, màu sắc thì tối của màu chocolate từ nhạt đến đậm, xen lẫn với các màu vàng gold và các màu xanh dương, lá cây ở các nóc vòm trên cao. 

Những màu ấy chắc nổi hẳn lên khi vào mùa Đông tuyết đổ trắng xóa khắp nơi khiến cho kiến trúc có vẽ hùng mạnh hơn, và nó hùng mạnh ngay cả trong khoảng thời điểm mà chúng tôi đang thăm viếng nầy. Bên trong của nhà thờ thì đa số hình vẽ các Thánh trên tường, trần, trên các cột nhà thờ cũng chọn màu tối nhiều khiến mình thấy cái âm u, trầm lắng làm tăng cái khung cảnh Thần Thánh hơn thêm, xen vào ánh sáng chói rọi từ bên ngoài qua những cửa sổ để vào bên trong cộng với các chùm đèn treo lơ lửng từ trần xuống. Du khách tha hồ chiêm ngưỡng công trình cũng như chụp hình và quay phim, nhưng không được dùng đến ánh đèn flash. Chắc người ta sợ ánh flash sẽ ảnh hưởng làm hư đến màu sắc của tranh chăng?

Nguyên Thảo,
10/04/2020