Đó là sự giải
thích về con người, chúng sinh; chứ khi chúng sinh bắt đầu bước
xuống “Mê Tân” để tham dự cuộc chơi dưới dòng sông, bằng những trò chơi giành
giựt, lừa đảo, đâm chém, hơn thua với những Tham, Sân, Si của mình; thì đã tạo
dòng sông ấy thành bể khổ mênh mông (Khổ hải). Trò chơi nhấn chìm chúng sinh xuống
dưới đáy sông hay có lúc nổi lên trên mặt nước, hoặc chìm xuống lưng chừng ấy là
sự chìm nổi trong Lục Đạo Luân Hồi, không biết lúc nào thoát ra, vì mình bị người
khác hại mình do nơi mình đã hại người trước kia, nên họ nhất định phải đòi lại
hoặc trả thù. Cứ thế mà kéo dài cuộc sống trong cõi Luân Hồi không thôi. Lại có
nhiều người hay chúng sinh mãi mê đi chơi quá xa bờ; đến một lúc, người hay chúng
sinh nào đó cảm thấy chán nãn, không thích chơi nữa thì họ sẽ quay đầu lại để
tiến vào bờ ấy là “Hồi Đầu Thị Ngạn”. Họ tiến vào bờ bằng nhiều cách: Hoặc quyết
tâm, cắt bỏ tất cả (Đi Tu, Tu Sĩ), hoặc nửa Đạo, nửa Đời (Cư Sĩ), hay chỉ là
Thiện Tri Thức làm điều lành, lánh dữ, bỏ ác, làm thiện, tùy theo hoàn cảnh,
suy nghĩ của họ mà họ chọn con đường để đi. Khi đến bờ, bấy giờ gọi là “Bờ Giác”
(Giác Ngạn), và những ai bước được lên bờ trở thành Bậc Giác Ngộ, là Phật, là
Như Lai… có Tâm trong sáng, nhìn thấy rõ mọi điều vì có được Lậu Tận Thông, một
trong Lục Thần Thông. Cõi dung chứa những người, chúng sinh như vậy là Niết Bàn,
là Chơn Tâm, là Pháp Giới vô biên, hay Bồ Đề, Yêm Ma La Thức, Không Như Lai Tạng,
hoặc là Đại Viên Cảnh Trí.
Vậy, trong giáo lý nhà Phật,
Đức Phật đã hướng dẫn chúng sinh thoát vòng sinh tử như thế nào? Đức Phật đã khẳng
định rõ ràng là: “Ai ăn nấy no, ai tu nấy đắc, không ai có thể thay thế cho ai được”,
vì nghiệp của người nào đó do chính họ trói buộc ở nhiều đời nhiều kiếp, vì vậy
chỉ có họ mới tháo gỡ cho chính họ mà thôi! Người ta nói một quả bóng tuyết tròn
càng lăn xa thì tuyết bám vào càng nhiều, bóng ấy càng to ra. Cũng vậy, thì ở đây
Phật Tánh của mỗi người, chúng sinh từ khi rời nơi chốn khởi đầu thanh tịnh, càng
lăn lộn trong vòng chơi của Luân Hồi càng xa, càng lâu thì nghiệp chướng càng
nhiều, cho nên khi quay đầu lại để vào được bờ thì phải lâu hơn, sự tháo gỡ các
lớp bao phủ bên ngoài càng gian nan; nếu mà nhiều nhân ác chừng nào thì sự trả
quả càng kéo dài ra. Bởi thế, nên trong Đạo Phật khuyên người, chúng sinh cần hành
Thiện, vì với nhân thiện không phải trả quả và sớm được chấm dứt luân hồi.
Con đường nào mà Đức Phật
đã chỉ cho chúng ta tiến đến giải thoát và giác ngộ? Con đường ấy qua sáu điều
thực hành: “Lục Độ Ba La Mật”. Vậy Lục Độ
Ba La Mật là gì? Lục Độ là 6 điều hay 6 bước phải thực hiện; Ba la mật là năng
nỗ, tận cùng rốt ráo, làm đến đỗi mà không nhớ đến mình đã làm giống như mình
thi ân, làm phước mà không cần đến đền đáp báo ơn và cũng chẳng hề kể ơn. Sáu điều
ấy là Bố Thí Ba La Mật (bố thí cho người khác về tiền tài, vật lực hay nói, giảng
pháp); Trì Giới Ba La Mật (giữ giới nghiêm ngặt, không sơ hở trì hoãn); Nhẫn Nhục
Ba La Mật (nhẫn nhục tận cùng, tránh khởi tâm sân hận); Tinh Tấn Ba La Mật (càng
ngày càng tiến bộ hơn cho đến hết mức mình có thể thực hiện được); Thiền Định Ba
La Mật (tham thiền đến chỗ định được Tâm tối đa); và Trí Huệ Ba La Mật (đạt được
Sự Thấu Hiểu rốt ráo, tận cùng). Đó là con đường giải thoát mà Đức Phật hướng dẫn,
tuyên xưng mà người mong cầu đạt Đạo cần phải thực hiện, và phải do chính người
cầu đạo làm như tinh thần: “Tự thắp đuốc lên mà đi”!
Và cũng ở trong một phần
khác, nơi các phẩm trợ đạo, tức là những phương pháp phụ giúp, hỗ trợ cho người
thực hành sự giải thoát, thực hiện được dễ dàng hơn như: Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần,
Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Chánh Đạo; thì trong phần Bát
Chánh Đạo chỉ rõ các phần: Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng thuộc về “Giới”;
“Định” gồm có Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định; và khi được Định thì đạt đến
“Tuệ” hay gọi là “Tam Vô Lậu Học”. Nhưng tất cả phần nầy đúng như tên gọi chúng
chỉ là những phần “yểm trợ, trợ giúp” cho việc thực hành đạo, để củng cố tinh
thần, sự định tâm trên con đường Đạo Đế.
Tóm lại, Lục Độ, hay Giới
Định Tuệ là những giai đoạn thực hành để tiến đến sự Giác Ngộ cho người tu hành.
Người tu cần khiêm cung các giới luật lấy giới luật làm thầy; thực hành Thiền Định
cho tinh tấn, hết lòng thì sẽ đạt đến Trí Tuệ mà thôi. Còn trong Lục Độ Ba La Mật
thì chỉ rõ hơn là phần Bố Thí rộng khắp để chứng tỏ lòng từ bi của mình đối với
muôn loài không phân biệt.
Tại sao chúng ta rút lại
còn những phần chính yếu như vậy? Chỉ ở những phần thực hành trái với những gì đã
làm trong quá khứ, hay ở các tự viện thực hiện từ lâu. Điều nầy đưa đến cho ta
những giải thích như sau:
Chúng ta cần nhớ lại rằng:
Đức Phật sau bao năm đi tìm học những lý thuyết của những bậc thầy, nhưng không
tìm được lối tu nào thỏa mãn với ước nguyện; Cuối cùng Ngài quyết chí “tu chết
bỏ” dưới cội Bồ Đề, thì sau 49 ngày, Ngài đạt được Đạo. Ngài khám phá ra được các
chân lý tối thượng. Rồi từ đó, Ngài đi dong ruỗi trong hơn 45 năm để truyền bá
những “cái” mà Ngài “thấy biết” trong khi đạt Đạo. Đó là “Tri kiến” của Ngài cũng
như các Đức Phật trong thời quá khứ, hiện tại hay vị lai cũng sẽ “thấy” được như
vậy không khác; Thế cho nên những “Tri Kiến Phật” ấy được Ngài đi khai hóa cho
mọi người, chúng sinh được biết, được hiểu để tự mình dấn thân trên con đường
tu tập hầu giải thoát cho chính mình khỏi sự khổ đau, thoát vòng Luân hồi, và
trở về với bản thể trong sáng, sáng suốt, chiếu soi (Tự thắp đuốc lên mà đi).
Ngài thuyết pháp, rao giảng vào lúc đầu theo nhận thức cao siêu của Ngài, cho nên
mọi người không thể hiểu được vì do trình độ quá cao, khác với đời sống thường
nhật, do vậy người, chúng sinh ngơ ngác, không thể hiểu (như Kinh Hoa Nghiêm).
Sau đó, Ngài phải giảng thấp hơn, tùy theo căn cơ của chúng sinh mà giảng để mọi
người cùng hiểu được, mà chọn cho mình con đường thực hành. Những giáo pháp, bài
giảng do Ngài giảng ra chỉ là phương tiện để cho mọi người, chúng sinh hiểu; chứ
không phải để cho chúng sinh bám víu, dính chặt vào đó, biến thành mục tiêu cuối
cùng, là cứu cánh. Nhưng vì chúng ta không được sinh vào thời của Đức Phật, nên
sự hiểu không được rõ ràng, mà Kinh điển thì nhiều; Hơn nữa, nhiều ngôn từ chuyên
môn khó hiểu, khó tưởng tượng được cái khung cảnh, cảnh giới miêu tả trong Kinh;
lại thêm từ ngữ như chúng ta thưòng gặp với nhiều tiếng Hán Việt, cùng Phạn Ngữ
khiến cho người đời sau có thêm nhiều khó khăn để hiểu. Muốn hiểu thì phải học
Tiếng Hán Việt, tiếng Phạn, phải hiểu từ chuyên môn, vì thế khiến ta dính mắc vào
Kinh điển nhiều hơn. Rồi từ sự nghiên cứu, tùy theo ý thích mà người chọn Kinh
nầy, hay Kinh khác để sau đó biến thành tông phái riêng của mình, của nhóm. Cho
nên rốt cuộc cũng quanh quẩn vào giáo lý, chưa thoát ra khỏi “cái bè” giáo lý ấy;
thay vì chỉ muợn lấy cái bè đó để sang sông như trong Kinh Lăng Nghiêm có ghi:
“Các ông nên biết: Ta cũng
như người dùng ngón tay chỉ mặt trăng, các ngươi phải nhơn ngón tay mà xem mặt
trăng. Nếu chấp ngón tay cho là mặt trăng, thì chẳng những không thấy được mặt
trăng, mà cũng không biết luôn ngón tay. Vì cho ngón tay là mặt trăng, thì không
những không biết ngón tay là gì, mà cũng không biết thế nào là tối và sáng. Vì
mê chấp ngón tay là mặt trăng, thì tối và sáng làm sao rõ được”. (Phật Học Phổ Thông, Kinh Lăng Nghiêm, Hòa
Thượng Thích Thiện Hoa).
Hay cũng trong Phật Học
Phổ Thông, phần Kinh Viên Giác có đoạn:
“Nầy Thiện nam! Tất cả kinh
giáo của Như Lai đều như ngón tay để chỉ mặt trăng Viên Giác (chơn lý). Vậy các
ông phải biết: Đây là ngón tay kinh giáo chớ không phải mặt trăng Viên Giác. Nếu
các ông chỉ cố chấp ngón tay, thì không bao giờ thấy được mặt trăng. Những người
biết nhơn ngón tay kinh giáo nầy, mà nhận được mặt trăng Viên Giác, thì gọi là
Bồ Tát lên Thánh Địa, tùy thuận tánh Viên Giác”. (Chương Thanh Tịnh Huệ)
Nguyên Thảo,
04/04/2025.