Monday, December 8, 2025

*Vấn Đề III: Đạo Phật Có Phải Là Câu Chuyện Thần Thoại?


Thú thật là tôi không nghiên cứu nhiều về Đạo Phật, nhất là trong thời gian trước kia, cái thời gian mà mình chưa bị “trí óc dồn ép” khiến phải suy nghĩ quá nhiều, thiếu điều quẫn trí. Không hiểu sao những chuyện buồn, và những sự việc không thuận lợi, chán nản dồn dập đưa tôi đến tình huống khá quẫn bách như thế. Người xưa nói “Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí”, điều ấy khá đúng với tôi vào thời kỳ đó. Từng bước tôi cố tìm cách tháo gỡ, nhưng sau khi tương đối ổn định, thì tình trạng sức khỏe không được tốt, tôi lại phải vào bệnh viện để giải phẩu ở xương sống, điều trị cho sự đau đớn chạy xuống tận bàn chân. Lúc nầy, tôi lại càng chán nản hơn, vì mình đảm trách công việc chính của nghề nông với nhiều công việc nặng nhọc, mà vợ không thể cáng đáng nỗi, còn mấy đứa con phải đi học. Thế là tôi nhất quyết bán đi cái khu vườn nhà nông mà hai vợ chồng đã tốn bao nhiêu công sức tạo nên. Ở vào tình cảnh đang chữa bệnh, bán đi cái công trình gầy dựng, vợ không đủ sức thay thế, con thì phải để cho chúng học, tôi lại lâm vào thế bế tắt, buồn hơn. Thế rồi, anh bạn nhà kế bên đến thăm lại nói chuyện về một nhà tu nổi đình nổi đám thời bấy giờ: Đó là bà Thanh Hải, người tự xưng là Vô Thượng Sư. Anh hỏi tôi. Tôi chưa nghe đến bà ấy bao giờ! Sau cùng, anh về nhà lấy tờ báo cũ có đăng bài “Âm thanh siêu thế giới” cho tôi. Sau khi đọc bài đó, tôi chỉ nhớ cái ý là “cái thai nằm trong nước mà vẫn sống”. Liên kết lại tôi thấy cũng có lý vì cái thai nằm trong bào thai đầy nước mà vẫn không bị ngộp thở; còn âm thanh siêu thế giới thì có những lần tôi cũng từng được nghe mà không để ý, vì lúc nhỏ khi tập lặn ở con suối nhỏ trong làng quê tôi có nghe, nhưng chỉ lấy làm lạ thôi. Rồi lúc đi dạy nơi xa, vào ban đêm thanh vắng tôi cũng lại nghe cái âm thanh vo ve ấy. Đến lúc nầy, sau khi đọc xong bài đăng trên báo đó, tối về tôi vận dụng tâm trí mình để tìm lại cái âm thanh mà tôi đã nghe ngày trước xem có giống cái âm thanh mà bà Thanh Hải nói hay không? Nó không khác mấy! Điều nầy, khiến tôi tò mò theo dõi. Rồi tôi lại cố nghe âm thanh bên lỗ tai trái có khác với âm thanh nghe được ở bên lỗ tai phải không? Có khác đôi chút, nhưng từ nghe bên nây xong lại nghe bên kia khiến cái chiều đi ngang lúc đầu, sau lại càng lúc càng thẳng đứng hơn, rồi chiều ấy đi lên đỉnh đầu vượt thoát ra không trung. Lấy làm lạ tôi cứ theo mãi, xem sự diễn tiến ấy đến đâu? Sự việc ngộ nghĩnh đó được tôi ghi lại trong bài “Sự huyền nhiệm của Tâm Linh” sau nhiều năm “lưỡng lự” không muốn viết; vì mình không xác quyết là nó có đúng hay không? Thế rồi, khi không viết thì không an lòng, trong lòng luôn có những thôi thúc, thúc giục lạ lùng. Cuối cùng tôi phải viết! Viết bài ấy ra, tôi như trút được cái “gánh nặng” mà mình phải cưu mang và cảm thấy nhẹ lòng!

Quên nói một điều là từ trước tôi chưa từng tìm hiểu vào Đạo Phật ngoài những kiến thức sơ sài được học trong trường, lẫn một lần khi vào năm học Lớp Nhứt (sau nầy là Lớp Năm, Tiểu học), lần ấy tôi theo Cô Út Sang, con út của Bà Hai chị Ông Nội, ra nhà Bà Tám ở An Sơn vài ngày, những ngày ấy tôi được đọc “ké” quyển truyện về cuộc đời Phật Thích Ca mà Bà Tám mướn về coi. Cuối quyển truyện có những chuyện kể gì đó mà đi trên không, tôi không nhớ rõ và các chuyện ấy cũng không hấp dẫn được tôi. Với Đạo Phật thì tôi chỉ biết có bao nhiêu đó thôi. Nhưng sau các biến cố vào giai đoạn khủng hoảng nhất tôi đã chiêm nghiệm được các điều kỳ quái! Không biết các điều ấy đúng hay sai và có phải là như vậy không? Sự thắc mắc mãi trong tâm hồn, cuối cùng tôi nghĩ: Điều mình cảm nhận nó giống như kết quả của một sự Thiền Định, mặc dù mình chưa học hay thực hành Thiền bao giờ. Vậy thì như thế nào? Nó có giống như Ngài Sĩ-Đạt-Ta khi quyết chí ngồi Thiền chăng? Thế rồi, tôi muốn đi tìm trong Kinh điển của Đạo Phật để xem coi có những điều mình đã cảm nhận và thấy như trong các giấc mơ màng ấy chăng? Nhưng muốn mượn Kinh điển về Đạo Phật thì phải vào chùa, nhưng từ trước tới giờ mình chưa vào chùa thì së hỏi mượn như thế nào? Cũng may, lúc ấy có người chị trước kia cũng không đi chùa, nhưng sau khi mẹ mất chị nhờ thầy trong chùa cúng thất tuần thì từ ấy chị vào chùa thường xuyên. Tôi theo chị tới chùa. Những ngày có thầy thuyết pháp chị cho tôi hay để tới nghe. Chị cũng thường cho tôi mượn các băng giảng của các thầy khác. Mỗi khi có thầy đề cập đến “Sự Giác Ngộ” tôi lại tò mò, hỏi xem coi sự giác ngộ như thế nào? Nhưng tất cả đều mông lung! Tức mình, tôi quyết chí đi tìm vào Kinh điển cho ra lẽ. Không những tôi tìm trong Kinh của Đạo Phật, tôi còn đi vào trong Kinh Thánh xem Đức Chúa ở trong đồng vắng trong 40 ngày làm cái gì, đã được cái gì và như thế nào? Vì tôi nghĩ với 40 ngày nhịn ăn, nhịn uống ấy không phải là ma quỷ khảo mà chính là Thiền Định, và tôi nhất quyết với thời gian ấy Đức Chúa Jesus mới khai mở tâm linh chứ không phải là được rửa tội ở dòng sông Jordan. Nhưng trong Kinh Thánh không đề cập rõ đến sự khai mở đó như thế nào? Tôi thất vọng! Đến một ngày khi đến chùa Quang Minh ở Melbourne (Úc Châu), tôi thỉnh được hai quyển: Đức Phật Và Phật Pháp của Nguyễn Kim Khánh dịch từ tác phẩm “The Buddha And His Teachings” của Hòa Thượng Narada Maha Thera; và quyển “Xuân Trong Cửa Thiền” số 4 của Hòa Thượng Thích Thanh Từ. Từ hai quyển sách ấy, tôi xem một quyển là để mình học, tìm hiểu vào căn bản của Đạo Phật; còn quyển sau để tôi tham khảo. Cũng may là trong quyển “Xuân trong cửa Thiền” 4 đó, có bài tự sự của Hòa Thượng Thích Thanh Từ về việc sau khi bạo bệnh, Ngài chán nản quyết “tu chết bỏ” ở một cái am nào đó trên Lâm Đồng. Theo Ngài cho biết, sau đó Ngài hiểu Đạo hơn. Ngài chỉ viết thế thôi! Nhưng trong tâm tư, tôi lại gắn liền sự khai ngộ của Ngài với việc tu chết bỏ của Đức Phật dưới cội Bồ Đề. Tại sao thế nhỉ? Theo tài liệu tôi đã được đọc thì Chúa Jesus với 40 ngày nhịn ăn, nhịn uống trong đồng vắng; Sĩ Đạt Ta mất 49 ngày dưới cội Bồ Đề; và Mohammed cũng thời gian tương tự ở núi Hira gần Mecca. Tại sao lạ vậy? Nhưng, ngoài những điều ấy ra, tôi không tìm được những gì tốt hơn về việc mình muốn tìm. Do vậy tôi phải đi tìm vào trong Kinh điển của Đạo Phật, mặc dù Kinh Phật rất là “tràng giang đại hải”. Cái khó của tôi là chưa hiểu gì về Đạo Phật, cộng với cái khó của Đạo Phật là danh từ và ngôn từ: Danh từ thì chuyên môn, từ ngữ Hán Việt đã khó mà lại thêm từ ngữ phiên âm từ chữ Phạn thì lại càng khó hiểu hơn. May mắn thêm lần nữa là Vị Hòa Thượng cùng quê lại tặng cho tôi bộ Phật Học Phổ Thông của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, gồm những giáo trình mà Ngài giảng dạy ở Trung Tâm Phật Học.

Từ đó, tôi phải dành thời gian để nghiền ngẫm, nghiên cứu, học hỏi nhiều hơn, trước khi bước vào đọc một bộ Kinh của Phật Giáo. Tuy nhiên, khi tìm hiểu đến phần về Kinh Lăng Nghiêm của Hòa Thượng Thích Thiện Hoa đã giảng giải tôi có thể hiểu được nhiều hơn. Rồi đến Kinh Viên Giác và Kinh Kim Cang, tôi bắt đầu hiểu khá hơn về giáo lý Đạo Phật, nhất là tôi thấy một sự kết nối mật thiết trong các Kinh nầy để giải thích nhiều vấn đề trong giáo lý. Nhưng, đến phần về Duy Thức Học thì tôi không đủ trình độ để hiểu hết nội dung của nó, tuy vậy riêng phần cơ bản khiến tôi có thể hiểu sâu hơn về chuyện tâm lý của con người. Qua đó, tôi có thể hiểu qua những hành động từ thân, khẩu, ý mà con người tạo nghiệp như thế nào? Xong lại đến, từ tạo nghiệp kéo đến hệ quả “nhân, quả” để giải thích chuyện tái sinh, và mọi chuyện sẽ xảy ra trong những kiếp nào, bị xoay vòng trong sáu cõi Luân Hồi ra sao. Muốn thoát ra thì sẽ phải làm những gì khiến tôi quay lại Tứ Diệu Đế hay là Tứ Thánh Đế. Từ đó, tôi khởi đầu cho cuộc hành trình đi tìm hiểu vào Kinh điển, mục đích chính là tìm cho được “Sự khai ngộ” nó như thế nào?

Trước kia, khi đọc câu chuyện về cuộc đời của Đức Phật, ở phần cuối kể về những chuyện di chuyển trên bầu trời khiến cho tôi nghĩ đến các câu chuyện thần thoại, hay các câu chuyện thần tiên như bao nhiêu câu chuyện thần thoại của nhiều quốc gia khác. Rồi đến khi đọc vào vài bộ Kinh, khởi đầu ở mỗi bộ Kinh thường hay đề cập đến vô số Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Bồ Tát, Chư Thiên, Ma Vương,…từ các cõi, giới đến câu hội khiến người đọc không thể tưởng tượng nỗi, làm cho họ tưởng chừng như là những chuyện thần thoại, nhất là trong thời kỳ mà Phật Giáo biến mất ở Ấn Độ sau sự tàn phá của đạo quân Hồi Giáo xâm lược. Tuy vậy, khi đọc về Kinh Địa Tạng ở phẩm Thứ Ba: “Quán chúng sanh nghiệp duyên” có đoạn sau:

 

“Trong ngục có giường rộng khắp muôn dặm. Một người thọ tội thời tự thấy thân mình nằm đầy chật cả giường, đến nghìn muôn người thọ tội cũng đều tự thấy thân của mình nằm chật cả trên giường. Đó là do vì những tội nghiệp đã tạo ra nó cảm vời như thế”.

 

Hay trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, ở phẩm Đại Chúng Sở Vấn Thứ 17 có đoạn sau:

 

“Đức Thế Tôn muốn làm cho tất cả đại chúng mãn nguyện, mỗi mỗi lỗ chân lông trên thân Phật hóa thành vô lượng Phật mỗi Đức Phật đều có vô lượng Tỳ kheo Tăng. Chư Phật và Tỳ kheo Tăng nầy thị hiện thọ sự cúng dường của Đại chúng. Thích Ca Như Lai tự thọ phần của Thuần Đà dâng”.

 

Hay:

 

“Lúc bấy giờ rừng cây Ta La vốn hẹp nhỏ, do thần lực của Phật, khoảng không gian như mũi kim đều có vô lượng chư Phật Thế Tôn và quyến thuộc Bồ Tát đồng ngồi thọ thực. Những thức ăn cũng đồng không sai khác”.

 

Hoặc, ở một đoạn khác:

 

“Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: “Thế Tôn! Tôi đã thấy. Tôi thấy các Đức Như Lai đông vô lượng vô biên không thể tính đếm, lãnh thọ những thức uống ăn của đại chúng cúng dường. Lại thấy chư Phật thân rất cao lớn, mà chỗ ngồi chỉ choán khoảng bằng mũi kim. Chúng đông vi nhiễu không chướng ngại nhau”.

 

Khi thấy được những đoạn Kinh trên, tôi lại có những ý nghĩ khác mà không nghĩ các Kinh Phật là các chuyện thần thoại mà là ở vào một thế giới tâm linh mà chúng ta cần khám phá nhiều hơn, vì đối với thế giới địa ngục, chúng sinh “chiêu cảm” từ những tội chướng gây ra mà cảm thấy những hình phạt như vậy. Còn đối với trong thế giới của Phật thì do thần lực của Phật mà sinh ra những phép mầu mà ta đã thấy được các sự diễn tả để chứng minh; hay đúng hơn đó là thành quả “thấy, biết” của những con người, chúng sinh tu hành đạt đến sự Giác Ngộ nên có được như thế! Bởi vì các câu chuyện hay sự giáo hóa chúng sinh của Đức Phật mà chúng ta được nghe, được đọc, được học là những câu chuyện gần với thực tế, và đi sát vào đời sống con người chứ không là xa vời, vọng tưởng để chúng ta có thể liên hệ đến các câu chuyện thần thoại đã từng kể!

 

Nguyên Thảo,

09/12/2025.

 

  

Friday, December 5, 2025

*Lý Tưởng Và Thực Tế!

 

Ngày xưa, lúc còn ngồi trên ghế nhà trường, khi học về Kim Văn trong giờ Giảng Văn (Kim văn là giờ học về văn chương thời hiện đại như thơ mới, văn xuôi; khác với giờ Cổ Văn là học về văn chương thời trước như lối Thơ cổ, Đường luật, Thơ phú hay các tác giả xưa như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Thánh Tông, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Cao Bá Quát … chẳng hạn, hay các tác phẩm như Lục Vân Tiên, Truyện Kiều, Nhị Thập Tứ Hiếu,  Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm, Lục Súc Tranh Công…), thì Ông Thầy có cho học một bài luận lý về “Lý Tưởng”. Vì lâu quá tôi không rõ tác giả bài đó là ai, hay nhớ nội dung một cách rõ ràng; nhưng chỉ nhớ đại khái là bài ấy đề cập đến cái “lý tưởng” mà người nào đó đã ôm ấp. Lý tưởng là những gì mà mình mong muốn, ước mơ, hoài bão, theo đuổi để thực hiện trong tương lai cho một mục đích tốt đẹp trong cuộc đời; họ cố gắng thực hiện lý tưởng đó như cố biến “giấc mơ thành hiện thực”! Trong bài văn ấy, tác giả đã ví “Lý tưởng” như mặt trăng soi sáng trên bầu trời trong đêm tối, mà người mang lý tưởng phải nhắm vào đó mà tìm đường, vượt mọi chướng ngại để tiến tới, vượt lên nhằm đạt được mục đích sau cùng. Mục đích sau cùng ấy gọi là “Cứu cánh”! Giống như một đứa học trò có ước mơ trở thành một thầy thuốc giỏi để thi thố tài năng, giúp những người bệnh tật, xoa dịu những đau khổ về thân xác trong cuộc đời. Thế là với mơ ước đó, cậu học trò cố gắng học hành cho giỏi, cố vượt qua mọi kỳ thi để được vào trường thuốc. Sau nhiều năm trở thành một thầy thuốc, rồi với ước mơ cậu cố gắng mở lòng, nhẹ nhàng như một người mẹ đối với con cái chăm sóc cho bệnh nhân, cùng sự bền chí tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi nâng cao trình độ nghề nghiệp để đạt được kết quả tối ưu mà cậu đã mơ ước, mong muốn thực hiện những gì kết tinh trở thành lý tưởng. Ấy là con đường để thực hiện lý tưởng. Những phương tiện như sự giáo dục trong nhà trường, sự truyền đạt kiến thức của thầy cô, hay các phương tiện để học tập đều được tận dụng, sử dụng để làm bước tiến mà thực hiện được ước mơ của mình, biến giấc mơ thành hiện thực.

Lý tưởng có mặt trên nhiều phương diện kể cả thiện và ác, chứ không riêng về thiện không thôi; và nó cũng có nhiều cấp bậc từ lý tưởng của từng cá nhân, nhưng chúng cũng hiện diện ở trong nhiều nhóm dù nhỏ hay lớn, kể cả trên bình diện quốc tế. Đôi khi chúng cũng bị lợi dụng để biến thành những tai họa khôn lường vì mục đích không ngờ của chúng. Những người đã tìm cho mình được một lý tưởng để theo đuổi thì họ sẽ cố gắng bằng sức lực, khả năng, vận dụng kiến thức và tri thức, cố gắng thực hiện được ước mơ, đạt đến mục đích sau cùng hay đạt đến mức độ nhất định nào đó: Giống như những nhà khoa học chinh phục không gian, họ chinh phục từng bước từ hành tinh nầy đến hành tinh khác, tùy theo điều kiện khả năng của họ trong từng giai đoạn mà họ có thể làm được. Những nhà làm chính trị đứng ra điều hành, lãnh đạo đất nước mong làm cho đất nước được giàu mạnh, đời sống dân chúng được ấm no, hạnh phúc thì họ sẽ cống hiến hết mình với khả năng họ có được. Còn những nhà làm chính trị, lãnh đạo mà mục đích làm giàu, kiếm tiền, vinh thân phì gia, đem nguồn lợi đến cho dòng họ, thân thuộc, phe nhóm, bầy đàn thì đất nước sẽ nghèo đói, tan hoang, dân chúng sẽ lâm vào khốn khổ vô vàn; mà có thể họ sẽ vì lợi lộc mà bán rẽ đất nước cho ngoại bang không thương tiếc. Điều đó cho chúng ta thấy trên thực tế khi phong trào cách mạng chống tham nhũng ở các nước Sri Lanka, Nepal, Madagascar… của thế hệ GenZ đã thành công đến mức độ nào. Trong quá khứ lịch sử, những quốc gia nhược tiểu với lý tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã vùng lên với vũ trang thô sơ, cùng với tấm lòng yêu nước đánh đổ, quật ngã đế quốc thực dân hùng mạnh trong thế kỷ 20 để giành lại độc lập, tự do, giải phóng quê hương thoát vòng nô lệ. Lý tưởng tái lập lại đất nước khiến người Do Thái kiên trì trên cả hàng ngàn năm, và họ mạnh bạo để giữ vững đất nước ấy một cách không khoan nhượng trên nhiều mặt trận. Đó là những lý tưởng đã được ôm ấp trong phạm vi tương đối khá lớn. Còn những lý tưởng lớn hơn nữa khiến cho con người nhiều nơi trên thế giới có khi được thở phào nhẹ nhỏm, nhưng cũng không ít lý tưởng đem đến tai họa khôn lường: Như Lý tưởng hòa bình cho nhân loại với Liên Hiệp Quốc ra đời sau chiến tranh Thế giới lần thứ hai; bên cạnh đó lý tưởng thống trị một phần thế giới của Hitler, Mussolini, phát xít Nhật khiến bao nhiêu nước lầm than trong chiến tranh. Không những thế nếu xét về lịch sử những tư tưởng, lý tưởng đế quốc thời phong kiến đưa nhân loại vào hoàn cảnh chiến tranh tàn phá triền miên, ngoài những tai họa xảy ra từ thiên nhiên mà nhân loại phải hứng chịu. Có cái thứ lý tưởng khác mà ít người để ý đến, nhưng lại rất nguy hiểm và dễ xảy ra sự tranh chấp khủng khiếp, lâu dài nhất suốt thời gian lịch sử của con người. Đó là lý tưởng của những tôn giáo. Trong lý tưởng, tôn giáo là những sản phẩm của con người mang hình thức tâm linh, dễ thấm sâu vào tâm thức của những tín đồ. Tín đồ một khi tin theo một tôn giáo nào đó dễ sinh ra tâm tính sùng đạo, và dễ đi vào tình trạng cuồng tín, bảo vệ tôn giáo mình tới cùng và không thể chấp nhận những điều không đúng hay sai trái do đạo mình gây nên. Tôn giáo thuở khởi đầu có tính cách mang lại sự bình an trong tinh thần cho những người tin theo để được an ủi, hi vọng một đời sống tốt đẹp hơn sau khi mình đã chết so với cuộc đời thực tại đầy đau khổ, gian nan của thế gian nầy. Người ta thường nói: Những gì gắn liền với con người sẽ mang tính chất tranh giành, hơn thua, tranh đấu để giành phần thắng thống trị kẻ khác, thì trong tôn giáo dần dà phát triển theo chiều hướng đó. Giả sử một người có quyền lực tin tưởng vào tôn giáo nào đó thì sẽ bắt người khác phải theo, phục tùng những gì mình tin; cho nên trong lịch sử có nhiều vị hoàng đế bắt người dân trong phạm vi cai trị của mình phải theo cái tôn giáo mà mình đã theo. Đôi khi giết chết những người chống lại, theo nghĩa của câu “theo hoặc là chết”! Từ đó có những tôn giáo được sản sinh ra sau, rút kinh nghiệm nên khi bắt đầu phát sinh tôn giáo mới, mọi tín đồ phải ngồi trên mình ngựa mở những cuộc chiến tranh, chinh phục các nơi và bắt mọi người nơi đó phải theo đạo, và không bao giờ được bỏ hay từ chối. Lâu ngày với những quy luật được đặt ra, khiến kẻ mới theo phải tuân phục, sinh hoạt thì những kẻ bị bắt buộc ấy trở thành những con người thuần thục, giống như con người đã thuần hóa những con vật để phục vụ cho cuộc sống của mình. Do vậy, những cuộc chiến tranh về tôn giáo vẫn còn xảy ra cho đến tận ngày nay! Trên thế giới như nước Ấn Độ phải xé lẽ, phân hóa ra thành nhiều nước cũng vì lý tưởng của tôn giáo. Thuở đầu là Ấn Độ, rồi phân hóa thành Tây Hồi, Đông Hồi, Sri Lanka. Theo những người Ấn cho biết nó còn kể cả Bhutan, và Nepal. Nhưng ngày nay Tây Hồi trở thành Pakistan; Đông Hồi là Bangladesh. Trong khi đó, Trung Hoa vốn chỉ là một khu vực không lớn lắm và trải qua nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm với “lý tưởng thống nhất” mà trở thành nước lớn, lại sáp nhập thêm Mãn Châu, một phần Mông Cổ, rồi Tân Cương, Tây Tạng để trở thành Trung Hoa ngày nay. Đó là chưa kể đến tình trạng Đài Loan, vùng Biển Đông Việt Nam và Hoa Đông như là những vấn đề tranh chấp nóng bỏng của thế giới thời hiện đại. Nếu lý tưởng của những nhà khoa học là cống hiến cho nhân loại mà họ đã khám phá ra; thì những nhà kỹ thuật cố tìm những phương tiện giúp cho cuộc sống con người được tốt và hạnh phúc hơn. Với các nhà giáo dục ước mơ giúp thế hệ sau có được các kiến thức mới, hiệu quả hơn với kết quả tốt nhất. Những nhà làm chính trị muốn đem đến cho quốc gia sự tự do, hùng mạnh, vươn lên với các nước khác; nhất là sự giàu có, sung sướng, hạnh phúc cho người dân dưới sự lãnh đạo của mình. Nhưng cũng như các triều đại phong kiến khác đã từng có trong lịch sử: Ở giai đoạn đầu các nhà vua còn lo cho đất nước, thần dân. Về sau càng tệ dần, và các nhà vua lo thụ hưởng sự sung sướng, hạnh phúc cho chính mình; đôi khi họ càng trở nên tàn ác, đàn áp, ép bức người dân, bắt người dân sưu cao, thuế nặng để phục vụ cho vương triều. Thế cho nên mới có cuộc cách mạng của người dân nổi lên để lật đổ chế độ ấy và thành lập vương triều mới. Theo trào lưu đó, các triết gia cũng ngồi suy nghĩ để tạo nên triết thuyết mới. Trong thời cận đại, nẩy sinh một triết thuyết chính trị mà người ta xem như là ưu việt do kết tinh từ những triết lý chính trị và tư tưởng có trước để vạch ra một chế độ công bằng, bác ái, hạnh phúc, xây dựng một “thiên đường” cho loài người trên mặt đất. Thế nhưng, khi người ta thực hiện theo kế hoạch vạch ra ấy thì: Khốn nạn thay, đất nước nơi đó trở nên khó khăn, nghèo đói; người dân khốn khổ tìm cách trốn đi bằng mọi cách vì sự áp bức, xiết chặt đời sống không thương tiếc. Và với chế độ ấy chỉ những lãnh đạo, chính quyền là giàu có, vinh thân vì nạn tham nhũng, hối lộ tràn lan; làm cho người dân vừa nghèo đói, khó khăn mà phải hối lộ khắp các chỗ khi họ cần đến.

Vì vậy mà lý tưởng chỉ đơn thuần là lý tưởng, còn thực hiện thế nào là chuyện về sau! Lý tưởng có thể rất xa vời với thực tế. Đôi khi, người ta “ngụy biện” là “Cứu cánh biện minh cho phương tiện”, tức là dùng mọi biện pháp, phương cách tàn ác để đạt được mục đích sau cùng! Thế là cuộc đời lại càng đau khổ hơn!

 

Đồ Ngông,

06/12/2025.


Sunday, November 2, 2025

*Vài Vấn Đề Trong Đạo Phật. (tt)

 

*Vấn Đề II: Vũ Trụ Và Chúng Sinh!


Tại sao ở đây, chúng ta bàn về hai chữ “chúng sinh”? Chúng sinh là từ ngữ mà Đức Phật đề cập đến, và cũng là đặc trưng của Đạo Phật khi nói tới mọi loài hay mọi vật có sự sống, ngay như cây cỏ, chiếc lá, côn trùng ngoài những vật vô tri. Chúng sinh hiện diện trong cõi đời, trong không gian với hình thể mà ta có thể thấy bằng mắt, hay quá nhỏ phải xem bằng kính hiển vi; hoặc bằng “không hình thể” ta không thể thấy mà chỉ nghĩ đến thế giới của họ như chúng sinh ở cõi Trời, cõi ATuLa, Ngạ Quỷ, Địa Ngục qua những điều Đức Phật thuyết giảng, vì chúng ta không thấy họ được bằng mắt thịt trần đời. Đức Phật thấy họ vì Đức Phật nhìn họ qua Phật Nhãn, sau khi Ngài đã “giác ngộ” tức là thành Phật! Vậy thì, trong Đạo Phật chứng minh là không phải chỉ có loài người, súc vật không thôi mà còn coi mọi loài cây cỏ ngay cả những chiếc lá cũng đều là chúng sinh vì chúng vẫn có đời sống, có sinh lão bệnh tử. Một cách tổng quát, Đức Phật cho chúng ta biết trong thiên nhiên có chúng sinh với “Sinh, lão, bệnh, tử”; vật chất thì “Sinh, trụ, dị diệt”; và hiện tượng thì “Thành, trụ, hoại, không” để chỉ đến mọi điều hiện diện trong vũ trụ. Đồng thời, Ngài cũng đề cập đến những thế giới có hình sắc mà được gọi là “Sắc giới” (nơi chúng sinh đã ly dục, hình dáng và cảnh sắc đều được trang nghiêm, thanh tịnh), hay những chúng sinh trong cõi không có hình thể “Vô sắc giới” (chúng sinh ở đây không có hình thể, sắc uẩn, chỉ còn Thọ, Tưởng, Hành, Thức bốn ấm vi tế nên còn gọi là Tinh thần giới); hoặc những chúng sinh có hình sắc nhưng còn cần đến nhu cầu tình cảm, nhiễm năm thứ dục lạc về: Tài, sắc, danh, thực, thùy nên gọi là Dục giới tạo nên ba cõi gọi là Tam Giới hiện diện trong cõi Ta Bà đầy đau khổ nầy.  

Đó là những điều đại khái mà chúng ta đi tìm hiểu tổng quát, sau đây chúng ta đi vào bộ Kinh Lăng Nghiêm để xem Đức Phật giải thích về con người (hay chúng sinh) và vũ trụ như thế nào! (Kinh Lăng Nghiêm do Hòa Thượng Thích Thiện Hoa dịch, trong bộ sách Phật Học Phổ Thông):

Đầu tiên hết, chúng ta sẽ quay trở lại xem con người, chúng sinh phát sinh từ đâu, và tại sao lại đến đây trong cõi Diêm Phù Đề đầy đau khổ nầy. Con người, chúng sinh vốn dĩ không có hình sắc mà chỉ là Tâm Thức của mình ở trong cõi yên tịnh với biết bao nhiêu Tâm Thức của nhiều chúng sinh khác. Nhưng do vì “sự không biết” hay còn ngu muội (Vô Minh) mà mọi Tâm Thức ấy rời cõi yên bình để bước vào vòng xoay của cuộc đời trần tục nầy với mọi sự tranh đấu, lường lận, gian manh của một thế giới rối loạn, ít vui, nhiều đau khổ. Và với những “hành động” Sát, Đạo, Dâm, Vọng do những tính tình, khí chất từ Tham, Sân, Si mà sinh ra qua Thân, Khẩu, Ý khiến con người, chúng sinh tạo thành “Nghiệp”, chính cái “Nghiệp” nầy lôi cuốn chúng sinh phải bị lâm vào một cái vòng “Tái Sinh” ở kiếp sau để đòi, trả nợ mình đã gieo với những chúng sinh khác trong nhiều kiếp trước, mà Đức Phật cho biết đó là “Vòng Luân Hồi”! Mọi con người, chúng sinh mà chúng ta gặp gỡ, tiếp xúc, quan hệ trong một kiếp nào đó đều là “Duyên nợ” để được trả hoặc đòi nợ đã có trong nhiều tiền kiếp. Và mọi việc xảy ra trong đời, nó được diễn tiến từ sự kiện nầy đến sự kiện khác, chẳng qua là do các món nợ, ân tình kết nối lại thành chuỗi mà danh từ “Duyên Khởi” (sự kiện khởi đầu) và tiếp nối nhau, việc xảy ra trước là nguyên nhân cho sự kiện sau cứ tiếp nối cho đến dứt, rồi sự kiện khác tiếp xảy ra sau, đó là “Trùng Trùng Duyên Khởi” cho đến khi chấm dứt cuộc đời thì thôi. Cho nên cuộc sống hiện tại là “Trả Nhân” trong kiếp trước, hay nói cách khác là “Nhận Quả” ở kiếp nầy; nhưng những hành vi trong kiếp nầy sẽ là “Nhân” của những kiếp sau. Do tùy những nhân nào nẫy mầm trong kiếp tới sẽ định hướng chúng sinh đó sẽ đi về giới nào trong sáu cõi của Vòng Luân Hồi như cõì: “Trời, Người, Atula, Ngạ Quỷ, Súc Sinh và Địa Ngục”. Đó là những điều cơ bản để chúng ta có thể hiểu dễ dàng hơn khi đi vào Kinh Lăng Nghiêm như chúng tôi đã trình bày ở trên.

Trong Kinh Lăng Nghiêm có đoạn:

 

“Các ông nên biết: Đất, nước, gió, lửa, hư không, cái thấy và thức tâm gọi chung là 7 đại, tánh của nó đều là chơn tâm viên mãn khắp giáp tất cả, vốn không sanh diệt. Các ông vì mê muội nên không biết”.

 

Đó là điểm khởi đầu mà Đức Phật cho biết về nguồn gốc của muôn việc trong vũ trụ và thế giới, ấy là sự hòa hợp, cái chung, không phân biệt khắp nơi và nó cũng chẳng sanh ra mà cũng chẳng mất, và Đức Phật ở đây cũng không nói xa hơn nữa. Điều ấy khiến cho chúng ta nhớ đến cái giáo thuyết Dịch Lý bên Trung Hoa: Khởi đầu vũ trụ là một khối hỗn mang, sau do biến động mà sinh ra “Nhất âm, nhất dương” và trở thành “chi vị đạo”, rồi từ đó mới “lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quai sinh vạn vật”. Hay trong khoa học cho là “Khối tinh vân” trong vận động của nó đã sinh ra Thái Dương Hệ và Thiên Hà. Hoặc trong sự phát triển của tế bào cũng là sự phân đôi. Cái phôi của bào thai cứ phân đôi mãi để trở thành thai nhi trong cơ thể của người mẹ rồi đợi ngày được sinh nở trở thành con người, chào đời cho một cuộc sống mới. Nhưng trong Đạo Phật còn cho chúng ta biết “Đất, nước, gió, lửa” tạo nên vật chất, thân thể con người, sinh vật; “Thức tâm” để nói lên cái nồng cốt, cốt lõi tinh thần của chúng sinh; và cùng “Cái thấy” ở chỗ khác Đức Phật nói rõ hơn là:

 

“Thấy, nghe, hay, biết sáu giác quan kể là một, cùng với hư không và bốn đại, thành ra sáu đại, tánh nó viên dung vốn không lay động, đồng một thể chơn tâm, không sanh không diệt, thế gian vì mê lầm không biết sanh tâm phân biệt, chấp cho nhân duyên sanh, hoặc tự nhiên có, đều không đúng cả”

 

 mà khi hình sắc con người, chúng sinh thành hình chúng được hiện diện qua các giác quan (lục căn) và nhận thức (lục thức) của những giác quan nầy. Còn tất cả đều nương tựa vào hư không và thân xác được tăng trưởng, lớn lên cũng là nhờ từ hư không mà nên. Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, tập 2 trang 247 có ghi:

 

“Phật tánh của chúng sanh chẳng hư, chẳng hoại, chẳng bị kéo, bị bắt, chẳng bị trói, bị buộc. Như trong chúng sanh có hư không, vì tất cả chúng sanh đều có hư không chẳng chướng ngại, chúng sanh đều chẳng tự thấy mình có hư không này. Giả sử nếu chúng sanh chẳng có hư không thời không có những sự đến, đi, đứng, ngồi, nằm, chẳng sống chẳng lớn. Do nghĩa này nên trong kinh ta nói tất cả chúng sanh đều có hư không giới, hư không giới đây gọi là hư không. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy”.

 

Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật cho chúng ta biết hai điều cơ bản: Chơn Tâm và Vọng Tâm: Chơn Tâm là căn bản của Bồ Đề, Niết Bàn tức là sự Giác Ngộ; còn Vọng Tâm là căn bản của Sinh tử luân hồi. Nếu người tu hành lấy Vọng Tâm làm căn bản thì không bao giờ giải thoát được mà còn giống như “nhận giặc làm con” chỉ phá hoại đến gia sản của mình chứ không lợi lộc gì cả; hay “nấu cát làm cơm” thì không bao giờ có được là cơm. Nhưng điều quan trọng nhất là: “Ai tu nấy chứng, không thể thay thế cho nhau được”!

Và sau đó, Đức Phật giải thích “Chơn Tâm” như sau:

 

“Tất cả các cảnh vật sum la vạn tượng trong thế gian nầy, đều ở trong chơn tâm; chơn tâm bao trùm khắp giáp cả mười phương thế giới”;

Và:

“Chơn Tâm nhiệm mầu vắng lặng mà thường sáng suốt chiếu soi” (Tánh giác diệu minh. bản giác minh diệu)

 

Từ cái “Chơn Tâm” nầy, Đức Phật đưa chúng ta đến cái giải thích toàn bộ sự hình thành vũ trụ như thế nào? Điều nầy được chứng minh qua đoạn Kinh sau:

 

“Từ một thể chơn tâm không khác, vì vọng niệm phân biệt có năng sở, bỉ thử sai khác, nên hiện ra có hư không và thế giới. Nhơn có hư không thế giới nên mới có chúng sanh. Đã có thế giới và chúng sanh lăng xăng đối đãi nhau, nên khởi lên vô số vọng tưởng phân biệt: Tốt xấu, phải, chẳng v..v…Vì thế mà sanh ra đủ các phiền não trần lao nhiễm ô. Cái có hình tướng và sanh diệt là thế giới, cái không hình tướng và yên tịnh là hư không; khác với hư không thế giới là chúng sanh vậy”.

 

Hay:

 

“Này ông Phú Lâu Na, thế giới, chúng sanh và nghiệp quả ba món điên đảo tương tục nầy đều ở trong Chơn Tâm, vì Vô Minh vọng động sanh ra “năng phân biệt” và “sở phân biệt” tương đối, nên vọng thấy có sơn hà đại địa, thế giới và chúng sanh, rồi tiếp tục sanh hóa, vô cùng hư vọng”.

 

Và một điều khác nữa, cũng góp phần tạo nên cái thế giới vũ trụ nầy mà Đức Phật đã nêu lên như sau:

 

“Tùy theo tâm của chúng sanh tạo nghiệp và phân biệt như thế nào, thì có ứng hiện ra như thế nấy”.

 

hoặc:

 

“Vốn sẵn thanh tịnh khắp giáp cả pháp giới, tùy tâm của chúng sanh phân biệt như thế nào, thì nó ứng hiện như thế ấy”.

Đó là sự thành hình vũ trụ, thế giới kể cả chúng sinh mà theo như Đức Phật đã chỉ rõ cho chúng ta biết khi những lời Ngài thuyết giảng được thu thập, gom góp lại trong bộ Kinh gọi là Kinh Lăng Nghiêm, Ngài không nói xa hơn nữa ngoài cái Chơn Tâm khắp cả Pháp Giới. Cái Chơn Tâm ấy rất nhiệm mầu, vắng lặng và thường sáng suốt chiếu soi (Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu). Nhưng do vì Vô Minh mà “vọng niệm phân biệt” sinh khởi, từ đó mới có hư không, thế giới và chúng sinh, mọi cảnh sum la vạn tượng trong thế gian, vũ trụ nầy đều tùy theo “tâm của chúng sinh tạo nghiệp và vọng tưởng, phân biệt như thế nào” thì những “ứng hiện” sẽ hiện ra như thế đấy. Và mọi sự biến đổi cũng từ đó mà ra!

 

Nguyên Thảo,

3/11/2025.

 


Saturday, November 1, 2025

*Đào Tạo Nhân Tài Để Làm Gì?


“Nhân Tài” là gì? Có phải chăng là những người có tài năng, những khả năng giỏi có thể giúp ích cho cuộc sống của mình, mang lại lợi ích cho gia đình, vợ con, dòng họ trong tương lai; và với tài năng ấy có thể cống hiến, đóng góp cho sự tiến bộ, giàu mạnh của đất nước; góp phần làm cho đồng bào được sung túc, hạnh phúc; hay xa hơn nữa là đem thành quả, tri thức tới cùng nhân loại? Nếu là như thế thì nhân tài rất là có ích cho xã hội và đất nước! Thế thì chúng ta và đất nước chào đón họ như thế nào cho xứng đáng?

Tất nhiên, nhân tài không dễ gì kiếm được! Nếu nhân tài dễ đào tạo, kiếm được thì nhân tài đâu cần phải săn đón, trọng vọng. Một đất nước có nhiều nhân tài thì quả là có phúc. Học giỏi, nhiều văn bằng chưa hẳn là người đã có tài. Số nhân tài trong học thuật không nhiều, nếu không là hiếm có. Trên thế giới, giống dân có nhiều nhân tài phải nói là người Do Thái, có lẽ điều đó không mấy ai phủ nhận. Họ đã đóng góp nhiều công sức, trí tuệ cho nhân loại, kiến thức của họ được giữ gìn, tiếp nối để học tập và phát triển.

Nhân tài có thể họ là những thiên tài, được thụ hưởng từ trong bản chất con người của họ, nhưng đa số được phát triển từ trong trường học. Với thiên tư đã thông minh, tiếp thu các kiến thức học được từ trong trường học, sách vở nhanh chóng họ dần trở nên có tài năng, cái khả năng càng ngày càng được sáng chói và đưa đến những thành quả, sáng kiến, phát minh được phát tiết. Thế là họ trở thành thiên tài.

Nói như thế, nhân tài là tự trong thiên tư đã có mầm mống để phát khởi, giống như những hạt nhân có mầm sống rất mạnh, nhưng hạt nhân đó cần có nhiều yếu tố khác để kích thích trở nên nẩy mầm mạnh hơn như điều kiện đất tốt, độ ẩm hay thời tiết thích hợp. Thì nhân tài cũng như thế, chương trình giáo dục tốt khiến học sinh dễ dàng nhận thức, nội dung giảng dạy cần được tuyển chọn có chất lượng, thích hợp từng lứa tuổi, nhất là phương pháp giáo dục để truyền thụ một cách tối ưu cho học sinh tiếp thụ có kết quả. Những phương cách dễ dãi trong giáo dục như nâng đỡ thành phần được ưu đãi; cho kết quả tốt cho những nhóm cần thiết mà không có chất lượng, thì chỉ là những cuộc nâng đỡ để giết hại tương lai của đất nước. Nếu những thành phần đó một mai lên lãnh đạo, cầm quyền thì giống như đưa những người ngu dốt hướng dẫn cho cả dân tộc đi vào chỗ diệt vong. Họ sẽ phá tan nát với những kế hoạch, chương trình ngù ngờ, lãng phí ngân quỹ và tài nguyên của quốc gia… thì làm sao đất nước có thể tiến lên sự hưng thịnh được, đúng như người xưa đã nói: “Làm thầy thuốc mà sai lầm chỉ hại có một người, làm chính trị sai lầm thì hại cho một nước, làm giáo dục sai lầm sẽ hại cho muôn đời”! Quả thật là như vậy! Nếu chúng ta bỏ ra một chút thì giờ suy nghĩ kỹ hơn thì điều ấy không sai!

Giả sử vì lý do cần thiết nền giáo dục ưu tiên, dễ dãi cho số học sinh nào đó; hay vì nhu cầu cân nhắc mà học sinh được nâng lên trong nhiều năm, trong khi số học sinh thời kỳ đó thiếu chất lượng, không đủ khả năng; thì một mai khi họ ra hướng dẫn cho thế hệ sau, hay họ được cất nhắc lên hàng lãnh đạo thì bạn sẽ nghĩ kết quả đạt được sẽ đi về đâu. Như trong thời chúng tôi nền giáo dục trong trường hãy còn kỹ lưỡng, chú trọng về chất lượng, mặc dù thua với những thế hệ trước; nhưng trình độ khi ra ngoài chúng tôi vẫn khá hơn không đến đỗi ngớ ngẩn về kiến thức. Sau đó vài năm, thế hệ sau chất lượng học sinh khá kém do tình hình chiến tranh cũng như nhu cầu cấp thiết, nên những người được tuyển chọn vào làm giáo viên để dạy cho học trò có người viết chữ trên bảng đã xấu mà kiến thức cũng tệ; như vậy bạn phải nghĩ thế nào? Thế cho nên chất lượng về giáo dục càng ngày càng phải nâng cao, chương trình cần chọn lọc tốt hơn thì giáo dục, trường học mới đạt kết quả cao được. Có như vậy học sinh mới có thể được kích thích những tài năng tiềm ẩn trong con người của chúng, thì chúng mới có thể trở thành nhân tài trong tương lai.

Bất cứ môt học sinh nào khi bước vào trường học cũng đều nghĩ mình học để “biết chữ và có được một số kiến thức” nào đó cho cuộc đời. Học lên khá hơn một chút, thì mong mình đủ điều kiện để theo học đạt được trình độ nào đó, có thể kiếm được một công việc làm thích hợp cho mai sau để nuôi bản thân và gia đình. Với điều kiện cao hơn nữa, đi vào đại học sinh viên chọn ngành mong mình được tốt nghiệp, có nhiều tài năng để đem đến cho chính mình một cuộc sống tốt đẹp; đồng thời thi thố tài năng, đóng góp cho xã hội hay đất nước được tiến triển hơn. Với đầy lý tưởng, nuôi tham vọng, khát vọng trở thành những tài năng, sinh viên học tập, hăng say với nhiều hoài bão về tương lai cho mình và đất nước. Họ hăng hái “lên đường” với hành trang như thế đó. Nhưng để trở thành nhân tài không phải dễ mà ai cũng làm được; do vậy số nhân tài thực sự rất hiếm, và nhân tài có được môi trường hoạt động hay không là một chuyện khác. Những người may mắn thì nhanh được người biết tới mà sử dụng; còn nhiều người phải chịu thử thách trong thời gian nào đó dù ngắn hay dài. Ở những chế độ trọng người tài thì người ta cố tìm người tài đức mà đưa vào các vị trí thích hợp; đồng thời tạo điều kiện, môi trường giúp họ hoạt động hữu hiệu, thi thố tài năng để giúp cho người dân lẫn đất nước với số lương hậu hĩnh, ưu đãi. Đối với những chế độ theo quan điểm riêng, thì người tài vẫn không được sử dụng dù họ có tài năng đến đâu đi nữa; mà chế độ ấy chỉ sử dụng, tin tưởng vào những người của họ dù người của họ không có tài năng gì cả. Tất nhiên, nếu như thế thì chúng ta cũng đoán được kết quả sẽ ra sao? Không những thế, đôi khi nhiều người tài giỏi từ bên ngoài về cũng không được trọng dụng, vì những người đó là những người không đáng được họ tin tưởng. Trên thế giới nầy chẳng thiếu gì những chế độ như vậy, cho nên những người tài phải đến những nơi khác để được trọng dụng và thi thố tài năng. Quả thực là tiếc cho một đất nước nào đó vì cái chế độ quan điểm mà người tài phải lưu vong và mai một; nhân tài phải rời đi nơi khác để tìm cho mình một môi trường làm việc. Muốn phục vụ cho đất nước mà cũng không xong! Như thế thì đào tạo nhân tài để làm gì? Và người ta học để trở thành nhân tài để làm chi? Nhân tài không bằng một con người kém năng, thiếu trí của những con ông cháu cha. Học để tốn hao bao tiền của, công sức mà không hề được chú trọng, sử dụng. Vậy học để làm gì? Đồng thời, buồn cho một đất nước không bao giờ ngóc đầu lên nỗi vì những con người lãnh đạo thủ cựu, cố thủ cái quan điểm lỗi thời; hay cho một chủ nghĩa không tưởng nào đó khó thực hiện trong một thế giới con người đầy tham, sân, si; lớn hiếp bé, mạnh hiếp yếu; người quyền lực luôn có chiều hướng áp bức kẻ bị cai trị, với nhiều gian tham, đầy tham nhũng ở cõi đời nầy! Cho nên, đất nước không tiến lên được hoặc trở nên suy kém và mất nước chẳng phải là do thiếu người tài giỏi, mà do ở những kẻ lãnh đạo quá tồi vì không học được câu “Dụng nhân như dụng mộc” lẫn “Hạnh phúc cho nhân dân là gốc, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động phục vụ trong lý tưởng của mình”!

 

Đồ Ngông,

2/11/2025.

  

Thursday, October 9, 2025

*Vài Vấn Đề Trong Đạo Phật.


*Vấn Đề I: Hai Bài Kinh.

Qua hai bài Kinh ấy, chúng ta có thể hiểu rằng: Đức Phật sau khi giác ngộ đã “Ngộ” được rất nhiều vấn đề trong đời sống cũng như vũ trụ; tuy nhiên, Ngài chỉ đề cập cho mọi người những gì là cần thiết chứ không thuyết tất cả những gì Ngài đã nhận, thấy, hiểu, biết; giống như Ngài đã so sánh “nắm lá trong tay” và lá ở trong rừng, hay có lúc Ngài lấy ví dụ khác là “đất trong móng tay so với đất bên ngoài đại địa”. Mặc dù nói thế, nhưng trong các bộ Kinh được sưu tập lại mà Ngài thuyết giảng suốt hơn 45 năm hành đạo trên thế gian, Ngài cho chúng ta biết rất nhiều điều xa lạ từ trong bản chất con người được cấu tạo từ đất, nước, gió, lửa; có cái Tâm giống như con vượn, con ngựa cho đến các thế giới của Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Câu Lưu Châu và ở trong vũ trụ có vô số thế giới, trong đó có thế giới giống như xoáy nước, giống như cây… ở trong phẩm Thế Giới Thành Tựu của Kinh Hoa Nghiêm…, hay các thế giới của Phật A Di Đà, Dược Sư Lưu Ly Quang, hoặc cõi của Bồ Tát Địa Tạng, hạnh nguyện của Ngài Quan Thế Âm… Muốn tìm lại Tâm phải thực hiện các bước giữ giới, thiền định thì mới có được Trí Tuệ. Từ cái “Tuệ” ấy, con người hay nói rộng ra là chúng sinh mới có thể hiểu được những gì mà Đức Phật đã chứng ngộ, thấy, biết. Chính vì thế mà Đức Phật đã đề cập đến bài Kinh thứ hai, cũng như Ngài tuyên bố với loài người sau nhiều năm thuyết giảng bằng câu “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”, hay “Hãy tự thấp đuốc lên mà đi” vì “không ai có thể chuộc tội, giải nghiệp cho ai” (ý trong Kinh Địa Tạng) mà phải chính mình giải tội cho mình! Bởi thế mà Ngài đúc kết lại tiến trình tu hành để đạt được mục đích “giải thoát” khỏi Vòng Luân Hồi trầm luân mà con người, hay mọi chúng sinh bị Nghiệp lôi cuốn vào trong đó, qua các bước của “Lục Độ Ba-La-Mật”: Bố Thí, Trì Giới, Tinh Tấn, Nhẫn Nhục, Thiền Định, Trí Huệ Ba La Mật.

Như trên đã nói: Sau thời gian 49 ngày nhất quyết Thiền Định, Thích Ca đạt được kết quả tu hành và nhận thức được nhiều vấn đề về chúng sinh và vũ trụ. Tuy nhiên, khi giảng giải, hướng dẫn cho chúng sinh đệ tử, Ngài không nói hết những gì Ngài nhận biết mà chỉ đề cập đến những vấn đề cần thiết cho con người, chỉ riêng con người, cách thực hiện theo những kinh nghiệm mà Ngài đã đi đến giải thoát, vì những điều khác không thích hợp cũng như không ích gì cho sự tu hành để giải thoát. Chính vì thế mà Ngài giảng ở bài Kinh thứ nhất, và khi có người gặn hỏi về các vấn đề khác quá xa xôi, không cần thiết Ngài đã đề cập đến bài Kinh thứ hai. Tại sao vậy? Vì những điều xa vời đó ngoài sự thiết yếu, đôi khi lại làm cho người mới thực hiện tu hành giải thoát, sẽ thêm nhiều rắc rối, nghĩ ngợi mà trở ngại đường tu. Và chúng ta cần nhớ lại rằng: Trong thời gian Ngài tìm học đạo, không phải chỉ có Ngài sử dụng đến Thiền Định, mà sự Thiền Định đã có trước khi Ngài thực hiện khá lâu, vì vào thời ấy Ngài đã đi học với nhiều vị thầy khác trong thời gian dài 6 năm. Tuy nhiên, với các vị thầy ấy Ngài không đạt được kết quả, cho nên Ngài mới quyết tâm “tu chết bỏ”. Trong 49 ngày Ngài đạt được kết quả, sau khi kiểm nghiệm nhiều lần, Ngài xác quyết kết quả ấy, thế là Ngài bắt đầu đi giảng giải, rao giảng cho người khác mà anh em Kiều Trần Như là năm người, hay đệ tử đầu tiên. Vậy vì sao Ngài không thuyết giảng tất cả những gì Ngài đã nhận biết? Nếu chúng ta thử nghĩ Ngài thuyết giảng mọi điều thì không biết đến bao giờ, mà chưa chắc những người nghe hiểu được hoặc tin hết những gì Ngài nói. Với những gì Ngài thuyết trong hơn 45 năm mà chúng ta vẫn còn lẩn quẩn trong sự nghiên cứu, tìm hiểu; bằng chứng là những Luận của người đời sau hãy còn tiếp tục xuất hiện và ra đời. Nhưng, nếu chúng ta quay lại câu “Thân người khó đặng, Phật pháp khó nghe” mà trong tiếng Hán Việt là “Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn” thì chúng ta không còn ngạc nhiên về điều ấy nữa. Nói đúng ra, hầu hết mọi tôn giáo đều đề cập đến vấn đề nhức nhối của con người là “Sau khi chết”. Con người rất muốn biết: Tại sao con người, mọi vật hiện hữu trên cuộc đời nầy? Hiện hữu để làm gì? Ai tạo ra mọi vật? Mọi vật tồn tại đến bao giờ? Và khi chết, biến mất sẽ về đâu? Sau đó sẽ như thế nào? Vả lại, trong cuộc sống của đời người với quá nhiều cay đắng, khổ đau; thêm nhiều bệnh tật cùng với thiên tai dồn dập xảy ra, khiến tính mạng không biết đến lúc nào bị mất đi, tài sản cũng không bền vững với bảo tố, lụt lội, giông lốc…đúng là cuộc đời là một bể khổ triền miên. Lại thêm tâm tính từng con người cũng khác nhau, người ta có thể chà đạp, lường lận lẫn nhau để đạt được lợi lộc, sung sướng; hoặc dùng bầy đàn, sức mạnh để tàn sát tranh giành lẫn nhau để đạt được những gì mà bầy đàn đó mong muốn. Quả thật một môi trường đầy mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ vân..vân… mà không hiểu con người được tạo ra chịu nhiều đau khổ để rồi chết không thôi sao? Tất cả những vấn đề đó luôn là vấn đề nan giải đối với con người, mà các tôn giáo khó giải thích ổn thỏa cho người đời. Vì thế, người ta “phải” nhờ đến một “Vị Sáng thế” tưởng tượng như vị Trời, hay God… nào đó để giải thích; và nương vào vị ấy để mang đến những “hình ảnh” tốt đẹp, sung sướng, hạnh phúc nhất mà trong cuộc đời nầy không hề có để an ủi, lôi cuốn, hấp dẫn con người tin vào; hay phấn đấu để đạt được cái lý tưởng ấy, dù chẳng biết những hình ảnh đó là có hoặc không, hay chỉ là tin cùng chỉ tin mà thôi? Tại sao vậy? Vì trong tất cả mọi tôn giáo đều đề cập những vấn đề sau khi con người đi vào cái chết; như vậy lấy cái điều gì để chứng minh sự thực của những điều mà các tôn giáo đã nêu ra? Hay tôn giáo chỉ nêu ra những hình ảnh, lý tưởng “tưởng tượng, không tưởng” cho người ta mơ ước, sống trong ảo mộng hòng đánh lừa con người trong một thế giới tâm linh, và người ta mơ, cứ mơ về những cảnh sung sướng, hạnh phúc hoàn hảo ở cái thế giới không đau khổ, hưởng mọi đều tốt lành mà thế giới nầy không bao giờ có! Thế giới ấy chỉ có trong lý tưởng của tôn giáo đó mà thôi! Hơn nữa, thực tế cuộc đời nầy có nhiều cái mà người ta không thể giải đáp: Tại sao có người thì quá sung sướng, hạnh phúc; lại có những người vô vùng đau khổ, từ đau khổ nầy đến đau khổ khác. Ngay cả đối với người cùng chung cha mẹ vẫn khác nhau, nhất là với những người sinh đôi cũng có nhiều cái khác nhau. Rồi trên trái đất nầy có nhiều giống người khác nhau về màu da, phong tục, cao thấp khác nhau. Vậy thì tại sao? Không lẽ cứ đổ thừa cho Ông Trời, Đấng Sáng Thế, God ban cho con người những cái khác nhau như thế! Đối với những con người sung sướng, được hưởng mọi thứ trong cuộc đời thì là do được ân sủng của Trời của Sáng Thế hay God; còn những người lãnh nhiều đau khổ, nghèo khổ cũng do Ông Trời ban cho, hành hạ họ như vậy? Té ra, Ông Trời chẳng là Đấng Thiện Lành, Công Bằng nào cả mà chỉ là một Đấng Bất Công, Tàn Nhẫn! Do đó, người ta có thể nghĩ rằng: Từ nơi không biết rõ vũ trụ, mọi vật, con người được hình thành như thế nào, cho nên nhiều dân tộc nghĩ đến những câu chuyện hoang đường để giải thích như là các câu chuyện vui chơi mà chúng ta thường gọi là “Chuyện thần thoại”. Không lẽ nhiều tôn giáo cũng tạo nên các câu chuyện như thế để lôi cuốn những con người theo vào tôn giáo của mình, mà chẳng biết là các nhân vật “Sáng Thế” đó có hay không? Và các tín đồ chỉ tin vào với Cái Đức Tin của mình! Đa số câu chuyện chỉ dựa vào “Mặt Trời” vì mỗi ngày khi mặt trời xuất hiện là một ngày mới bắt đầu, và với mặt trời mọi cuộc sống cũng được phát triển và tồn tại. Nhưng cũng với mặt trời mà người ta thấy nhiều thiên tai xảy ra từ trong thiên nhiên, thế là từ xưa mặt trời được xem là “Đấng Sáng Thế”, mọi câu chuyện được thêu dệt quanh mặt trời, đôi khi đi xa hơn người ta lại tưởng tượng mặt trời có cả một gia đình, hay một vương triều như trần gian con người đã có. Rồi đến ngày nay, khoa học tiến vào không gian phát hiện ra mặt trời chỉ là mặt trời, chứ không là Ông Trời hay Đấng Sáng Thế nào cả. Mặt Trời chỉ là một định tinh trong hệ thống Thái Dương Hệ cùng với rất nhiều Thái Dương Hệ khác trong một Thiên Hà nào đó, và nó hiện diện cùng với vô số Thiên Hà khác trong vũ trụ bao la!

Riêng trong Đạo Phật, Đức Phật đã dùng những cái mà mình đã “thấy biết” qua Phật Nhãn và Trí Huệ là kết quả đạt được trong đường tu, hành Thiền của mình để giảng lại cho mọi người biết, mà từ đó có thể tu hành để đạt được kết quả như Ngài, cho nên Ngài mới nói “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật đã thành”. Tại sao Ngài lại khẳng định như vậy? Vì Ngài cũng là một con người bình thường như bao nhiêu con người khác, nhưng Ngài đã thực hành một phương thức, một cách riêng để rồi Ngài đạt được kết quả khả quan, hiểu biết nhất khi Ngài đạt được mục đích cuối cùng của sự Giác Ngộ. Ngài thấy biết, hiểu thấu tất cả mọi sự việc từ nguồn gốc, diễn tiến, và sự tồn tại hay biến đi của chúng. Chúng có mất không? Điều ấy, khiến Đức Phật bỏ công ra đi thuyết giảng cho con người hiểu thấu mà chọn cho mình con đường để đi, suốt hơn 45 năm trong cuộc sống của Ngài. Nếu một khi chúng sinh thành Phật thì chúng sinh ấy sẽ thấy, biết được những điều trong vũ trụ như Ngài đã thấy, biết và trong Đạo Phật đã gọi là “Lậu Tận Thông”, một trong Lục Thần Thông mà người tu hành đạt được khi thành Bậc Giác Ngộ! Ngài có những Thần Thông như vậy, nhưng sao không thể giúp mọi chúng sinh tu được dễ dàng trong đường tu của họ hay “cứu rỗi” mọi người, mọi chúng sinh có tốt hơn không? Ý ấy, trong Kinh Địa Tạng có giải thích rõ hơn về Nghiệp Lực của từng con người như sau:

 

“Nghiệp lực rất lớn, có thể sánh với núi Tu Di, có thể sâu dường biển cả, có thể ngăn đạo thánh.

Vì thế chúng sanh chớ khinh điều quấy nhỏ mà cho là không tội, sau khi chết đều có quả báo dầu đến mảy mún đều phải chịu lấy.

Chí thân như cha với con, mỗi người cũng theo nghiệp của mình mà đi khác đường, dầu cho có gặp nhau cũng chẳng bằng lòng chịu khổ thay nhau”.

 

Nguyên Thảo,

10/10/2025.

 

 

Thursday, October 2, 2025

*Tại Sao Người Ta Thích Hối Lộ Và Tham Nhũng?

 

Nói về các chủ đề nầy trước tiên chúng ta nên nói về vấn đề hối lộ. Tại sao người ta cần phải hối lộ? Hối lộ có lẽ là một vấn đề nhức nhối trong xã hội, vì nó xảy ra rất tinh tế đôi khi người có chức quyền, hay thi hành luật pháp khó có thể lấy đó mà kết tội. Nó núp dưới những hình thức trá hình chẳng rõ ràng để gọi là phạm pháp. Sự hối lộ cần thiết được thực hiện khi mà người ta gặp trở ngại, khó khăn trong công việc; hoặc có chiều hướng phạm luật, phạm pháp. Có khi hối lộ được làm một thời gian trước khi mà người ta thực hành các phạm pháp nào đó, hầu trông chờ một sự giúp đỡ hay thông cảm về sau. Mức độ hối lộ sẽ tương ứng với công việc có thể phạm pháp hay “thông cảm” mà thông qua, duyệt qua cho đương sự; giả sử một chuyến xe đò hằng ngày đi trên đoạn đường nào đó, trên đó có nhiều trạm gác, xét hỏi xe phải dừng lại trong thời gian khá dài và phiền phức, người ta có thể bỏ vài chục đồng trong một tờ báo để qua trạm được dễ dàng, hơn là phải dừng lại với sự kiểm soát khá lâu. Một người giấy tờ không được “đúng” kẹp một số tiền đi với giấy tờ để được thông cảm mà thông qua, không bị bắt và rắc rối về bản thân. Hay muốn được đi qua một trạm, một chốt xem xét thủ tục gì đó mà không bị làm khó dễ thì số tiền kín đáo bên trong cũng là một giải pháp tốt. Đó là những vấn đề nhỏ nhoi mà người ta cần đến số tiền ít ỏi, để cung ứng cho người có thẩm quyền mà không phải bị khó khăn trong công việc. Nói tóm lại, hối lộ bao giờ cũng là do người cần được dễ dàng cho công việc mình sắp xảy ra đối với người có quyền chức, hay kẻ sẽ giúp đỡ gọi là đền ơn. Sự hối lộ tùy theo hoàn cảnh, mức độ, hay đẳng cấp mà tăng tiến cái giá trị của món đồ hối lộ, nó có thể là một chình rượu ngon, rượu thuốc quý đem bỏ trước nhà mà người được hối lộ không biết là của ai; hay là chiếc xe máy, đồ trang sức quý giá, hoặc các bao thư, thùng quà có mệnh giá khá cao. Đôi khi, các món hối lộ lại là vật liệu xây cất mà người được hối lộ để xây cái nhà biệt thự hay biệt phủ của mình coi như là quà tặng. Nó cũng có thể là khu đất hay vườn to lớn được trồng trọt gần đến ngày thu hoạch. Nhưng dễ dàng và gọn nhất vẫn là tiền, vàng, kim cương, là bao thư vì nó dễ cất dấu hoặc làm cho người được hối lộ muốn mua gì thì mua; đồng thời có thể tiêu tán đi nơi khác không có gì khó khăn mà lại kín đáo.

Đồ Ngông tôi nhớ ngày xưa có nhiều chuyện hối lộ rất là vui, như: Thằng bạn trốn lính, khi bị bố ráp nó chun vô trong lu đậy nắp lại, nhưng người đi xét cũng biết, đi lại gần dở nắp lu ra, nó vội đưa hai tay cầm tiền đưa lên trên đầu. Người đi xét lấy tiền, xong đậy nắp lại rồi đi ra. Nó hú hồn mới kể cái ngu của mình là chun vô lu trốn mà lại có đôi dép bên ngoài, đúng là “lạy ông tôi ở bụi nầy”! Sau nó đi lính, đứng gát mà từ xa có mấy thằng cỡi xe gắn máy chạy tới, gần tới lại rớt nón; họ quay lạy rồi chạy lui luôn, nó biết “đó là mấy thằng trốn lính”! Rồi có một lúc, Đồ Ngông tôi lại nghe kể: Ở một vùng hẻo lánh và khá mất an ninh nọ, có mấy ông làm ăn khá giỏi, ông thì về nông nghiệp, ông về lâm nghiệp, ông về xe cộ… Cứ mỗi lần lễ lộc hay ngày Tết thì mấy ông đó gom góp lại đến công quyền tổ chức mừng lễ, tất nhiên là sẽ có quà, hay bao thư gọi là quà, lì xì. Không những thế mà khi nào ông nầy đi, ông khác đến lại có tiệc mừng “tống cựu, nghinh tân”, cùng là mừng Tất Niên và cũng lại Tân Niên thật là vui vẻ.

Đó là chưa nói đến những vụ hối lộ to lớn hơn có thể khuynh đảo cả một nền kinh tế khi mà các con buôn cùng hùn tiền lại để nuôi những kẻ có thiên bẩm ngoại giao, có khả năng giao tiếp thu hút người tiếp cận; họ vừa tung tiền vừa thu hút, mua chuộc để câu kéo viên chức kinh tế để lấy tin tức. Chỉ cần biết kế hoạch về sau thế nào, thế là các kho hàng biến đi khá nhiều để sau đó tăng giá thì con buôn kiếm khá nhiều tiền, hay làm giàu bằng đầu cơ tích trữ; và có thể khuynh đảo cả một nền kinh tế của một quốc gia. Rồi tiến theo thời gian, người ta tung tiền để mua bãi, mua bến, tìm sự an toàn cho một chuyến đi; hay chi số tiền nhỏ nào đó cho chuyến buôn lậu nhỏ nhoi, để kiếm tiền cho cuộc sống đầy khó khăn. Nhưng ngộ nghĩnh nhất vẫn là chuyện quan chức hối lộ cho nhau. Chúng ta thử nghĩ hàng hóa không được lưu thông dễ dàng như trong một thị trường tự do. Cửa hàng mua được hàng ở một nơi xa, cần xe để chuyên chở. Họ không thể mướn xe ở đâu khác, đành phải đến giao thông vận tải. Nhưng giao thông vận tải không có xăng dầu, cần đến xăng dầu, nên đợi xăng dầu từ Chất đốt. Qua bao nhiêu thủ tục trong từng giai đoạn rất lâu, cho nên người cần phải cần đến sự giúp đỡ của kẻ khác; rồi cũng phải biết điều và biết được “thủ tục đầu tiên”. Cả một hệ thống chậm chạp tiến bước lên đàng! Mà mọi người dân đành chịu thiếu thốn, khổ đau! Thêm nữa mấy lúc gần đây, có lẽ những sự “hối lộ” đạt được kết quả khủng khiếp, mà người dân là những nạn nhân đau đớn nhất, và làm cho một đất nước suy đồi, suy sụp? Đó là chưa kể những sự hối lộ từ thế lực bên ngoài hay của nước ngoài nhằm thao túng, làm băng hoại một quốc gia để thôn tính dễ dàng quốc gia đó. Nếu những ai đã từng đọc các truyện Tàu như Tam Quốc, Đông Châu Lục Quốc… thì cũng từng thấy “chiến lược” ấy, dùng sự “hối lộ” để khuynh đảo quốc gia nhỏ, cuối cùng thanh toán khiến nước đó không còn hiện diện trên bản đồ nữa.

Nhiều người thắc mắc: “Tại sao người ta cần hối lộ?”, qua thời gian thì sự hối lộ chứng tỏ được nhiều nguyên nhân. Sự hối lộ nhỏ thì cần đến sự thông cảm, dễ dàng thông qua công việc nào đó không lớn lắm như ký dùm giấy tờ; hoặc ngó lơ, phớt lờ, thông cảm để người đi qua không bị sách hạch, làm khó dễ, gây mất nhiều thời gian. Khá hơn, thì không bị bắt vào tội vi phạm “lệnh cấm, pháp luật”. Lớn hơn nữa thì “mua đường, dẫn lối, ưu tiên, được quyền” trong một công việc, hay chương trình ích lợi nào đó. Hoặc lớn hơn nữa thì công việc, hay việc đó sẽ có ảnh hưởng đến tình trạng của đất nước, quốc gia. Tất nhiên sự hối lộ tùy theo mức độ mà “gíá trị hối lộ” phải được tăng tiến xứng đáng theo mức độ ấy. Cái châm ngôn của kẻ hối lộ giống như trong tục ngữ nước ta có câu “Bỏ con tép nhữ con tôm”, tức là chỉ bỏ ra miếng mồi cỏn con để thu về mối lợi lớn. Người ta kể lại rằng: Kẻ hối lộ rất kiên trì và mưu mô, họ hối lộ kẻ có quyền chức, có thẩm quyền để đạt được mục đích; đầu tiên là họ tiếp xúc với người có thẩm quyền, chức vụ. Nếu không có kết quả, thì họ tìm cơ hội sẽ tiếp xúc với người vợ để trao đổi vấn đề. Nếu khó khăn họ sẽ ân cần đến con cái, người nhà của quan chức để lấy tình cảm mà từ đó vươn lên kế hoạch lũng đoạn đến vợ đến chồng, người có thẩm quyền quan chức. Nếu không đạt được kết quả nữa thì họ sẽ tìm cách tìm đến cấp có thẩm quyền trên nữa để “bắn văng” người ngán đường làm ăn của họ. Như vậy, kẻ hối lộ vì “cái lợi lớn nhất định phải bỏ con tép dù bao lớn để đạt được con tôm vĩ đại” mà họ cần đến. Nều tiền (vàng, kim cương) ít không mua được thì phải cần đến rất nhiều tiền. Miễn là họ đạt được mục đích mới thôi!

Ngày xưa, trong chế độ quân chủ độc tài sự hối lộ dễ dàng hơn vì quan chức khó thay thế! Nhưng ngày nay ở các nước tự do quan chức dễ bị thay thế bỡi những kẻ có tài, đạo đức hơn; nếu không là mình, thì có người khác vào thế chỗ; mà khi “tay đã nhúng chàm” thì không nơi nào dám nhận vào để làm việc vì lý lịch đã có vết nhơ. Nhưng không những thế mà còn báo chí truyền thông tự do đôi khi moi móc ra công chúng, khiến người nhận hối lộ phải e dè. Hay ở các quốc gia có nhiều đảng phái thì người trong đảng phái khác theo dõi sẽ vạch trần, thì kẻ có chức quyền còn phải bảo vệ nhân cách mình lẫn uy tín đảng của họ. Còn ở các địa phương người ta có những cuộc bầu cử, chọn những người có khả năng, tài giỏi, uy tín từ các đảng phái, hay tự do, độc lập vào Hội Đồng Địa Phương. Hội đồng đó điều hành mọi kế hoạch của địa phương. Do đó mà sự “Hối Lộ” và “Đòi Hối Lộ” trở nên rất hạn chế ở các nơi hay quốc gia ấy, người dân cũng được an lòng không phải bị quấy nhiễu vì vấn đề “đòi hối lộ” khi có việc cần đến; đôi khi người đi xin lại được đối xử một cách rất ân cần vì tinh thần “được phục vụ cho người dân”, chứ không phải là hoạnh hoẹ, bức bách để kiếm tiền!

Nếu “hối lộ” là phương cách dùng “con tép” để lấy về “con tôm” thông qua những người có thẩm quyền mà vượt qua khó khăn, hạn chế, rào cản của pháp luật để đạt đến những nguồn lợi nào đó mà người hối lộ mong muốn. Còn người có thẩm quyền dùng quyền hạn của mình để giúp đỡ, che chở, bao che, giao cho người hối lộ cái nguồn lợi to lớn vượt ra ngoài pháp luật quy định, bằng những “đòi hỏi” món quà nào đó thích ứng thì ấy là “lạm dụng chức quyền để đòi hối lộ” vậy!

Còn “Tham Nhũng” thì như thế nào? Điều nầy cũng chẳng có gì khó hiểu. Nếu ai để ý đến tục ngữ ca dao của kho tàng văn chương bình dân của nước Việt tất sẽ biết, vì chẳng qua là “Mỡ treo trước miệng mèo”, hay “Chuột sa hủ nếp” mà vài người còn dí dỏm và tục hơn ví như là “Chó lọt cầu tiêu tha hồ ăn ngập mặt”. Đồ Ngông tôi chưa thấy mèo thích mỡ như thế nào, chứ ngày xưa người ta phải cất nồi thịt cho kỹ, chứ không mèo sẽ cạy nồi ăn mất thịt đi. Và lỡ có con chuột nào lọt vào hủ gạo hay nếp thì nó chẳng cần phải đi đâu nữa, cứ ở đó tha hồ mà ăn cho đến chết. Thì tham nhũng ở đây cũng giống vậy, họ đã lọt vào nơi đang giữ tiền, giữ ngân sách thì họ tha hồ tiêu xài, chi phí nếu không có kiểm soát, luật lệ. Tuy nhiên, dù cho có luật lệ, chế tài thì cũng có nhiều kẻ hở. Nương vào kẻ hở ấy, người ta vẫn có thể rút ruột ra ngoài vẫn được như không. Nhưng, cái điều quan trọng của vấn đề tham nhũng không phải đơn giản như mọi trường hợp thông thường, mà muốn tham nhũng phải là những quan chức. Nói đến hai chữ “Quan chức” tức là phải nói đến những người đang cầm quyền dù là lớn hay nhỏ. Họ đang phụ trách chức vụ ở một cơ quan, tổ chức chính phủ nào đó, nơi mà chính phủ cấp về một số ngân sách, phương tiện để họ thực hiện mọi nhu cầu vận hành hay phát triển của khu vực. Thế mà, ngân sách ấy được chi cho công việc ít tiền, ít vật liệu thì được kê khai lên gấp nhiều lần để rồi số tiền, vật liệu sẽ là của họ hay đám họ chia chác cho nhau. Nhiều lần tất sẽ được số tài sản lớn, dư sức để sống cuộc đờì vương giả, sung sướng cho cả gia đình. Nhưng, ít ai tự hỏi ngân sách ấy từ đâu mà có? Nó có phải là của chính phủ chăng? Đúng vậy, ngân sách ấy từ chính phủ phân bổ ra, nhưng chính phủ làm sao mà có? Chính phủ làm sao có tiền? Tiền ấy từ người dân đóng thuế mà nên! Như vậy, cái gì của chính phủ vẫn là từ nhân dân mà đóng góp, cùng với những tài nguyên quốc gia mà có. Cho nên các quan chức tham nhũng là “cướp” của người dân hay cướp đi tài sản của quốc gia, mà họ luôn nghĩ là chỉ lấy của chính phủ. Tội ấy sẽ được định như thế nào?

Tóm lại, làm quan chức có được rất nhiều lợi lộc như “một người làm quan cả họ được nhờ!”, có thể giúp được cả họ có công ăn việc làm, hay đưa người trong họ lên giữ chức nầy hay chức kia. Người dân nào cần đến sự giúp đỡ có thể đòi hối lộ, nếu họ không hối lộ cho mình. Đôi khi mình còn dùng đến quyền lực để làm khó dễ để người dân phải cung phụng, lo lót; nếu không người dân ấy sẽ bị trù dập, làm khó khăn mọi điều. Đã vậy, còn có nhiều cách để đục khoét ngân sách chính phủ giao cho; hoặc sử dụng quyền hạn của mình để trao công việc quan trọng cho những người thân tín, đàn em làm để được chia chác, đền ơn hậu hĩnh. Thế cho nên người ta tung tiền ra mua quan chức, càng ngày càng cao chẳng phải là để cống hiến cho quốc gia, tổ quốc mà thực ra là chỉ để làm giàu, “cướp” của người dân và bòn rút ngân sách, tài nguyên của đất nước mà thôi! Còn “lãng phí” là do sự ngu dốt, không định lượng được kế hoạch làm ra, tốn nhiều tiền ngân sách mà không được ích lợi gì nhiều, có khi phải bỏ không, không sử dụng được. Nhưng tiền ấy là do người dân đóng góp mà nên, thế là dân chúng phải è cổ ra mà chịu đựng! Nghĩ nơi xứ người, những người có khả năng phải vận động tranh cử để ra làm quan. Được bầu vào hội đồng rồi thì đóng góp công sức giúp đỡ cho khu vực của mình. Với ngân sách thì phân chia từng phần để phụng sự cho cộng đồng về những nhu cầu cần thiết, chứ đâu có để cho bầy chuột ngậm nhấm dần mòn, làm giàu cho chính họ. Ôi! Nghĩ lại cũng thật là oái oăm cho cuộc đời!

 

Đồ Ngông,

13/09/2025.


Friday, September 5, 2025

*Cuốn Theo Chiều Gió!

 

(Phần II: Vài Vấn Đề Trong Đạo Phật).

Đúng ra, những bài viết tiếp theo nó vẫn mang tên là “Cuốn Theo Chiều Gió”, nhưng vì sự rườm rà của ý ấy, cho nên trong những phần nầy chúng tôi chỉ rút gọn lại cái tựa đề thứ hai, đó là “Vài vấn đề trong Đạo Phật” để mở đầu cho những ý kiến riêng của mình, đóng góp vào sự đi tìm những hợp lý cho những thắc mắc, hay ngộ nhận mà người ta đã có khi nói về Đạo Phật. Vì thế để mở đầu cho các vấn đề mà có nhiều người đã thắc mắc hay khó hiểu được nêu lên từ trước, chúng tôi xin mạn phép trích ra hai bài Kinh nầy quý vị tham khảo, đọc qua:

 

Vấn Đề I: Hai Bài Kinh.

Trong Đạo Phật có hai câu chuyện mà chúng ta cần để ý một chút, để từ đó có thể hiểu những gì mà Đức Phật đã thuyết giảng trên 45 năm trên bước đường hành đạo, sau khi Ngài đã tự Giác Ngộ được qua Thiền Định trong 49 ngày quyết tâm. Câu chuyện thứ nhất là Ngài nói về nắm lá trong tay:

Chuyện trong Kinh kể lại rằng: “Một thời, Thế Tôn trú ở Kosambi (gần Allanhabad), tại rừng Simsapà. Ngài lấy tay nhặt lên một ít lá simsapà, rồi bảo các Tỳ kheo: “Các ông nghĩ thế nào, này các Tỳ kheo, cái gì là nhiều hơn, một số ít lá simsapà mà ta nắm lấy trong tay, hay lá trong rừng Simsapà?”. “Thật là quá ít, bạch Thế Tôn, một ít lá simsapà mà thế Tôn nắm lấy trong tay, và thật là quá nhiều lá trong rừng Simsapà”. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, thật là quá nhiều, những gì ta đã thắng tri mà không nói cho các ông! Thật là quá ít những gì mà ta đã nói ra! Nhưng tại sao, này các Tỳ kheo, ta lại không nói ra những điều ấy? Vì rằng, này các Tỳ kheo, những điều ấy không liên hệ đến mục đích, không phải là căn bản cho phạm hạnh, không đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng tri, giác ngộ, Niết Bàn. Do vậy, ta không nói lên những điều ấy” (Kinh Tương Ưng Bộ V, chương 12: Tương Ưng sự thật, phẩm Rừng Simsapà).

Và câu chuyện thứ hai:

 

Phật Nói Kinh Dụ Mũi Tên

 

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

Nguồn: Hán dịch: Mất tên người dịch, phụ lục Ðông Tấn


Nghe như vầy:

Một thời Bạt Già Bà ở tại vườn ông Cấp Cô Ðộc, rừng cây ông Kỳ Ðà, thành Xá Vệ. Bấy giờ tôn giả Ma La Cưu Ma La một mình ở chỗ vắng vẻ sanh ra ý nghĩa như vầy: “Ðức Thế Tôn bỏ tà kiến, trừ tà kiến nhưng không nói: “Thế gian là hữu thường hay thế gian là vô thường hay thế gian là vô thường, thế gian là hữu biên hay thế gian là vô biên? Mạng là thân hay mạng là khác, thân khác có mạng chung hay không có mạng chung? Cũng có, cũng không có vấn đề không có mạng chung?”. Ta không thể chấp nhận, không thể xử dụng được, không thể vui được, nếu đức Thế Tôn một mực nói về thế gian “Thế gian là hữu thường” ta sẽ theo Ngài tu phạm hạnh. Nếu Thế Tôn một mực không chịu nói “Thế gian là hữu thường” ta sẽ tranh luận với Ngài rồi bỏ đi. Cũng như vậy “Thế gian là hữu biên, thế gian là vô biên, hay mạng khác thân khác, có vấn đề mạng chung hay không có vấn đề mạng chung? Có hay không có vấn đề “không có mạng chung?”. Nếu đức Thế Tôn một mực nói với ta rằng: “Chỉ có đây là chơn thật, ngoài ra là ngu si”, ta sẽ tu phạm hạnh với Ngài. Còn nếu đức Thế Tôn một mực không nói: “Ðây là chơn thật, ngoài ra là ngu si”, ta hỏi xong rồi bỏ đi”.

Bấy giờ, tôn giả Ma La Cưu Ma La sau buổi trưa đứng dậy đi đến chỗ đức Thế Tôn, đến rồi lạy dưới chân đức Thế Tôn, ngồi qua một bên. Tôn giả Ma La Cưu Ma La đã ngồi qua một bên rồi, bạch Thế Tôn rằng:

-Thưa Thế Tôn, con ở chỗ vắng vẻ, khởi lên ý nghĩ rằng: “Ðức Thế Tôn bỏ tà kiến, trừ tà kiến, không nói: “thế gian hữu thường, cho đến không có mạng chung”. Ðiều này con không muốn, con không thể chịu được, không ưa thích, nếu đức Thế Tôn một mực biết “thế gian là hữu thường” thì đức Thế Tôn cứ nói ra. Còn nếu đức Thế Tôn hoàn toàn không biết là “thế gian hữu thường” thì xin Ngài cứ nói thẳng ra là: “Ta không biết” cũng như vậy “thế gian là vô thường cho đến không có mạng chung”, nếu đức Thế Tôn hoàn toàn biết rõ thì xin hãy nói cho con rằng: “Ðây là chơn thật ngoài ra là ngu si”. Ðức Thế Tôn nên ghi nhận như vậy. Còn nếu đức Thế Tôn không biết “Ðây là chơn thật, ngoài ra là ngu si” thì Ngài cứ nói thẳng cho con rằng “Ngài không biết”.

Này Ma La Cưu Ma La, trước đây ta có từng nói với ngươi rằng: nếu ta nói “thế gian là hữu thường” thì ngươi hãy theo ta mà tu hành Phạm hạnh chăng?

-Không có, thưa Thế Tôn!

Cũng như vậy, “thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung”. Nếu ta nói “lời của ta là chơn Phạm hạnh chăng?

-Không có, thưa Thế Tôn!

Này Ma La Cưu Ma La, trước đây ngươi nói với ta: nếu Thế Tôn một mực cho là “thế gian là hữu thường” thì tôi sẽ theo Ngài để tu Phạm hạnh chăng?

-Không có, thưa Thế Tôn!

Cũng như vậy, “thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung”. Nếu đức Thế Tôn nói với tôi “Ðây là chơn thật, ngoài ra là ngu si thì tôi sẽ theo Ngài tu học Phạm hạnh chăng?”.

-Chẳng phải vậy, thưa Thế Tôn!

-Này Ma La Cưu Ma La, ta vốn không nói với ngươi như vậy, ngươi cũng vốn không nói với ta như vậy. Ngươi là người ngu si, vô cớ tại sao lại hủy báng ta? Bấy giờ, tôn giả Ma La Cưu Ma La bị đức Phật quở trách thẳng vào mặt, không lời biện bạch, im lặng. Khắp cả mình mồ hôi toát ra, cúi mặt lặng thinh.

Khi ấy đức Thế Tôn quở trách thẳng vào mặt của Ma La Cưu Ma La xong, bảo các Tỳ kheo rằng:

-Ví như có kẻ ngu si nghĩ rằng: “Ta sẽ không theo đức Thế Tôn để tu Phạm hạnh, nếu đức Thế Tôn một mực nói: thế gian là hữu thường”. Người ngu si ấy chưa kịp biết gì cả, nửa chừng thì đã chết rồi. Cũng như vậy, đối với vấn đề “thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung” thì ta sẽ không theo đức Thế Tôn để tu hành Phạm hạnh. Nếu đức Thế Tôn nói với ta rằng: “Ðây là chơn thật, ngoài ra là ngu si”. Người ấy chưa biết được gì cả thì nửa chừng đã chết mất rồi.

Ví như có người bị trúng tên độc vào thân, quyến thuộc của y thương xót, muốn làm cho y được an ổn, được nhiêu ích, cấp tốc mời thầy thuốc đến nhổ mũi tên độc ra. Khi ấy người bị trúng tên độc nghĩ rằng: Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội ta muốn biết người bắn cung họ gì, tên gì, hình dạng ra sao? Kẻ ấy cao hay thấp, hay trung bình? Kẻ ấy đen hay trắng, thuộc dòng Sát lợi hay bà la môn, hay cư sĩ, hay thợ thuyền? Kẻ ấy ở phương Ðông, phương Tây, phương Nam hay phương Bắc? Tại sao lại lấy tên bắn vào ta? Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết cây cung làm bằng loại cây Tát la hay loại cây Ða la, hay loại cây Xí la ương quật lê?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết loại gân quấn cây cung làm bằng gân trâu, gân dê hay gân mèo?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết mũi tên làm bằng xương trắng, đen hay là nâu?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết dây cung làm bằng gân trâu hay gân dê hay gân mèo?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết mũi tên làm bằng cây Xá la hay cây tre, hay cây La nga lê?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết gân của cây cung ấy là gân trâu, gân dê hay gân mèo dùng để quấn nó?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết cái lông vũ gắn sau mũi tên là của chim Khổng tước hay của chim Thương hạc, hay của chim Thứu?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, hãy cho ta biết sắt mà bịt đầu mũi tên là Bà ta, hay Bà la, hay Na la, hay Già la bệ?

Ta chưa muốn nhổ tên độc ra vội, điều cần yếu cho ta biết người thợ làm mũi tên sắt ấy họ gì, tên gì, hình dáng ra sao, cao thấp hay trung bình? Kẻ ấy đen hay trắng, ở phương Ðông, phương Tây, phương Nam hay phương Bắc?

Nhưng người ấy chưa kịp biết gì cả, nửa chừng thì nó đã chết mất rồi. Cũng vậy, nếu có kẻ ngu si nghĩ rằng “Ta sẽ không theo đức Thế Tôn để tu Phạm hạnh, nếu đức Thế Tôn nói với ta rằng: Ðây là chơn thật, ngoài ra là ngu si”. Người ngu si ấy chưa biết được gì, dù thế gian có hữu thường, thì nửa chừng đã chết mất rồi, vì có tà kiến này. Cũng vậy, kẻ ấy sẽ theo ta tu Phạm hạnh nếu “thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung”, đây là tà kiến, y cũng sẽ theo ta tu Phạm hạnh, “thế gian là hữu thường” có tà kiến này kẻ ấy không nên theo ta để tu Phạm hạnh. Cũng như vậy, “thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung”, có tà kiến này không nên theo ta tu Phạm hạnh. Không có tà kiến này “thế gian là hữu thường” cũng nên theo ta mà tu học Phạm hạnh. Không có tà kiến này “thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung”, cũng nên theo ta mà tu học Phạm hạnh. Không có tà kiến “thế gian là hữu thường” không nên theo ta mà tu học Phạm hạnh. Không có tà kiến này “Như vậy, thế gian là vô thường, cho đến không có mạng chung”, không nên theo ta mà tu học Phạm hạnh.

Dù thế gian có hữu thường đi nữa thì vẫn có sanh, già, bệnh, chết, có ưu sầu khóc lóc không vui. Như vậy, khối đại khổ ấm này tập khởi. Cũng vậy, cho dù thế gian có vô thường, cho đến không có mạng chung thì vẫn có sanh, già, bệnh, chết, cho đến khối đại khổ ấm này tập khởi. Dù “thế gian có hữu thường”, điều đó ta không nói. Cũng vậy, “thế gian là vô thường, cho đến mạng chung”, điều đó ta cũng không nói. Vì sao ta lại không nói? Vì điều đó chẳng đúng nghĩa, cũng là phi pháp, chẳng phải là Phạm hạnh, không thành thần thông, không đưa đến chí đạo, không tương ưng với Niết bàn, cho nên ta không nói.

Vậy vấn đề gì ta một mực nói? Ta một mực nói đến: “Ðây là khổ”, ta một mực nói: “Ðây là khổ tập, khổ tận, trụ xứ”. Vì sao vậy? Ta một mực nói những vấn đề ấy là vì nó là nghĩa, là pháp, được thần thông, tu hành Phạm hạnh cho đến Ðẳng đạo, cùng tương ưng với Niết bàn, cho nên ta một mực nói đến. Những điều ta không nói đến thì nên bỏ đi, còn những điều ta nói đến thì nên thọ trì.

Ðức Phật nói như vậy, các Tỳ kheo nghe Thế Tôn nói xong, hoan hỷ vui mừng.