Sunday, April 6, 2025

*Góc Nhìn! (6)


Đó là “cái bè” thứ nhất (bè giáo lý) để con người học Phật, chúng sinh vượt qua “khổ hải” (biển khổ) quay trở về “giác ngạn” (bờ giác), bước lên cõi “giải thoát” (cõi Chơn Tâm, cõi Phật, Pháp Giới, Niết Bàn, Viên Giác…). Còn “bè thứ hai” là cái thân xác con người mà trong Đạo Phật cho là khó được: “Thân người khó được” (Nhân thân nan đắc). Tại sao thân người lại quan trọng như thế? Vì trong Kinh có đề cập đến việc Đức Phật Thích Ca chọn thế giới Ta Bà là cõi có nhiều khổ, ít vui mà nói pháp giải thoát; Thế cho nên, chỉ ở cõi Ta Bà, tức thế giới của chúng ta đang sống nầy, mới có được Phật pháp để con người tập tu mà thoát khỏi cõi Luân Hồi. Chúng ta nhớ lại rằng: Lục đạo Luân hồi có 6 đường: 4 cõi không có sắc hình, hình tướng (Vô sắc giới) như chúng sinh sinh vào cõi Trời (Thiên), Atula (Thần), quỷ đói (Ngạ Quỷ), Địa Ngục; và 2 loại chúng sinh có hình tướng (Sắc Giới) là: Người (Nhân), cùng súc vật (Súc Sinh). Trong 6 loài đó chỉ có loài người mới được Đức Phật truyền bá về giáo lý. Để dễ hiểu hơn, chúng ta có thể tưởng tượng chúng sinh trong Vòng Luân Hồi (hay là vòng của sự tái sanh) như là cái lồng cầu to lớn chia ra 6 ngăn để chúng sinh xoay vòng trong đó do gây Nhân và trả Quả trong vô lượng kiếp; Nhưng cửa ra, cửa giải thoát của nó chỉ có ở một nơi duy nhất là nơi ở của “con người”. Cho nên chỉ có con người mới có thể tu để được Giải Thoát khỏi vòng Sanh tử Luân hồi; vì thế được làm con người là rất quý; và có thân người thì mới có thể tu qua các phần, bộ phận liên hệ trên thân thể như trong Kinh Lăng Nghiêm chỉ rõ trong “25 phép tu” có thể chứng được. 25 phép tu đó là gì? Đó là sự chứng quả qua 6 trần (thanh trần, sắc trần, hương trần, vị trần, xúc trần, pháp trần); do 6 Căn (Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỹ căn, Thiệt căn, Thân căn, Ý căn); do 6 Thức (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỹ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức); do 7 Đại (Lửa, Đất, Nước, Gió, Hư không, Thức đại, Kiến đại). Như vậy, con người có thể dùng mọi yếu tố liên quan đến cơ thể, để làm con đường tu tập, mà đạt đến sự giải thoát theo hướng dẫn của Bậc Đạo Sư Thích Ca, và Đệ tử cùng thời hay các thế hệ về sau của Ngài rao giảng. Ngày nay, chúng ta được làm con người tức là chúng ta đang được đứng tại cửa thoát ra khỏi vòng luân hồi nếu chúng ta biết tu tập. Nếu không thì quá uổng, lỡ trong kiếp nầy chúng ta làm quá nhiều điều không thiện, thì phải đi vào con đuờng tái sinh khác, nơi đó không có Phật pháp để tu, thì biết đến bao giờ ta được làm người trở lại (là nơi có cửa để thoát ra) mà tu. Nếu ta được tái sinh lên cõi trời, nhưng nơi đó dù sung sướng, hạnh phúc, đầy phước đức nhưng không có Phật pháp thì cũng chẳng làm sao để tu! Do vậy, được kiếp người có nhiều khổ ít vui, nhưng là nơi mà chúng ta có thể mong cầu được giải thoát. Quả thực là “Nhân thân nan đắc”! Với thân, ta có thể mượn chiếc “bè” nầy để sang sông, trở về với “bến giác”, bước lên bờ “giác ngộ”! Cũng như trong Kinh Tạp A Hàm Đức Phật có thuyết:

“Như Lai tuyên bố rằng thế gian, nguồn gốc của thế gian, sự chấm dứt thế gian và con đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian đều nằm trong tấm thân một trượng này, cùng với tri giác và tư tưởng”.

Trong Kinh Viên Giác, chương Phỗ Nhãn, Đức Phật có thuyết: “Bởi thế nên biết “Sanh tử và Niết Bàn” cũng đều như giấc mộng hôm qua, vì chúng sanh vốn đã thành Phật từ xưa đến giờ”, tại sao như thế? Nếu nghiên cứu kỹ hơn, chúng ta sẽ thấy: Chúng sinh vốn từ cõi Chơn Tâm tức là cõi Phật, nhưng vì còn u mê (Vô minh) mà đã rời xa cõi ấy với cái Tâm phân biệt, đầy vọng tưởng cho nên để rồi mượn đến tứ đại, kiến đại, hư không để tạo nên thân xác cùng nhận thức. Rồi cái Tâm bị trói buộc trong thân xác ấy, lại thêm các nhu cầu đòi hỏi phải đáp ứng, cung phụng cho thân xác như ăn uống, mặc ấm chống lạnh, trừ nóng…của môi trường sống làm cho thêm nhiều trói buộc. Nhu cầu sống đòi hỏi càng ngày càng cao, sự yêu thích, ham muốn (ái, dục) càng lúc càng nhiều gây nên lòng tham không đáy; không được như ý thì sanh sân hận; cuối cùng do không kiềm nén được (si) mà tạo nên những ác nghiệp do các hành động sát, đạo, dâm, vọng. Từ đó những hạt nhân (ác lẫn thiện) hướng dẫn ta đi vòng vòng trong Luân hồi không thoát ra được. Nhưng khi ta biết tháo gỡ, hành thiện và tu hành để tạo nhân tốt, loại trừ nhân xấu đến khi trở về thành Bậc Giác Ngộ, tức là thành Phật thì cũng trở về cõi Chơn Tâm ấy. Trong quá trình đó Đức Phật ví chúng sinh khi “vô minh” rời cõi Phật (Chơn Tâm) giống như là quặng vàng; sự trôi nỗi, lang thang cho đến khi trở về nơi cũ, giống như là quặng vàng ấy đã được tôi luyện thành vàng ròng; và khi đã là vàng ròng thì không bao giờ trở lại thành quặng nữa. Và mọi chuyện xảy ra trong quá khứ giống như là một giấc mộng dài (đại mộng) của đêm hôm qua.

Tuy nhiên, trong Kinh Viên Giác (chương: Tịnh Chư Nghiệp Chướng), cũng như Kinh Kim Cang dẫn cho chúng ta biết rõ hơn về những điều vọng tưởng, tâm phân biệt mà đã được đề cập đến trong Kinh Lăng Nghiêm là: “Nhân, Ngã, Chúng sinh và Thọ giả”, để giảng giải cho hành giả hiểu thấu đáo cái cốt yếu khiến cho họ khó thành được Đạo. Tại sao “Nhân, Ngã, Chúng sinh và Thọ giả” lại quan trọng như vậy? Trong Kinh Lăng Nghiêm Đức Phật nhấn mạnh đến cái “Vọng Tâm”, “Tâm phân biệt”; vì chúng mà chúng sinh mới sa vào “sinh tử luân hồi”. Nếu muốn trở về nơi “hoàn toàn thanh tịnh” (Cõi Phật, Chơn Như, Bồ Đề, Niết Bàn, Pháp Tánh, Yêm Ma La Thức, Không Như Lai Tạng, Đại Viên Cảnh Trí) thì trước hết là phải thoát khỏi cái Vọng Tâm, vì “căn bản của sanh tử luân hồi là vọng tâm”, tức là bước đầu trở thành Bậc Giác Ngộ. Nhưng quan trọng hơn, chính là ở nơi cái “Tâm phân biệt”! Phân biệt cái gì? Và sự phân biệt ấy có ảnh hưởng như thế nào với cái cõi chung (cõi Phật) như thế? Ở đây, chúng tôi muốn kể một ví dụ để chúng ta có thể dễ hiểu hơn:

Ví dụ trong cùng một căn phòng tập họp rất nhiều vị trí thức với nhau. Nếu ai cũng biết nhường, nương vào nhau thì không có biến động nào xảy ra cả. Tuy nhiên, có một hay vài người nào đó vì thấy chật chội, bực bội lại bắt đầu nảy sinh mình phải được thoải mái, hay được hưởng lợi ích khá hơn, rồi bắt đầu đòi hỏi thế nấy thế kia, hoặc tranh giành. Tất nhiên có tình trạng như vậy thì sẽ có xung đột để rồi phải có sự phân tán, phá tan cái tập hợp, đoàn thể chung ấy. Và nếu mọi người biết nương, hòa hợp nhau thì sự yên ổn ấy được lâu dài, tùy theo sự dung nạp, nhường nhịn được càng lâu thì sự kết hợp cùng nhau được lâu bền chừng ấy.

Thì trong cõi Phật cũng vậy: Nếu đã thành Phật và vào cõi Phật mà còn thấy mình (Ngã), khác với Phật khác (Nhân) hay toàn thể các Phật (Chúng sinh) thì sự kết hợp sẽ không còn nữa; Cõi Phật không còn là cõi Thanh Tịnh với bốn Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh mà trở thành cõi Uế Độ. Và, sự kết hợp đó có trường tồn lâu dài hay không là điều mà các Đức Phật cần ý thức rõ, đó chính là: “Thọ Giả”. Nhưng các vị Phật “trở về” trong thời gian nầy đã hết “Vô Minh”, nên không còn Vọng Tưởng và Tâm Phân Biệt, giống như quặng vàng đã được tôi luyện trở thành vàng ròng rồi, nên không bao giờ trở lại thành quặng nữa.

Và để chúng ta có thể hiểu các Đức Phật đã thành đạo trong thời quá khứ, đang trong thời hiện tại cũng như sẽ thành trong tương lai như thế nào, chúng tôi xin phép trích dẫn vài đoạn Kinh để chúng ta có thể nghiền ngẫm, suy tư xem như thế nào:

-“Khi Tâm hoàn toàn thanh tịnh rồi, thì cái trí quang sáng suốt hiện ra. Lúc bấy giờ chơn tâm ông vừa tịch tịnh lại vừa chiếu soi, bao trùm khắp cả mười phương hư không thế giới, lúc bấy giờ ông trở lại xem cảnh vật hiện tiền ở thế gian này, cũng như là việc trong chiêm bao”.    (Kinh Lăng Nghiêm).

-“Thí như trăm ngàn ngọn đèn, đồng đốt trong một căn nhà, ánh sáng của mỗi ngọn đèn tuy đều chiếu khắp cả nhà, nhưng không có lộn lạo hay lấn diệt lẫn nhau”.  (Kinh Viên Giác)

-“Còn ta (Phật) thì trái với vọng trần, hiệp với chơn tâm thường trụ bất sanh, bất diệt, biến khắp cả pháp giới. Cho nên ta mới được tự tại vô ngại: Ở trong một hiện ra vô lượng, vô lượng hiệp làm một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ; không rời nơi đạo tràng mà hiện khắp cả mười phương thế giới. Thân ta bao trùm mười phương hư không vô tận. Trên đầu một mảy lông hiện ra các cõi nước; ngồi trong hạt bụi, mà chuyển đại pháp luân. Vì ta diệt hết vọng trần, trở lại với bản tâm thanh tịnh trong suốt, nên mới được như vậy”.   (Kinh Lăng Nghiêm).

Để kết luận, chúng tôi hi vọng đây là một “Góc Nhìn” hạn hẹp của mình, về một tôn giáo có lý thuyết khá bí hiểm, cao thâm mà nhiều người từng bỏ bao nhiêu công sức ra nghiên cứu, tìm hiểu; thì chúng tôi cũng mạo muội ghi lại những gì mình lĩnh hội được dù không nhiều, nhằm giúp thêm vài ý kiến để chúng ta cùng nhau hiểu hơn về giáo lý của Đạo Phật, và cùng đi tìm một sự đúng đắn, lẫn thực hành sao cho có kết quả!

Xin thành kính tạ ơn lòng!

 

Nguyên Thảo,

07/04/2025.

 

Thursday, April 3, 2025

*Góc Nhìn! (5)


Đó là sự giải thích về con người, chúng sinh; chứ khi chúng sinh bắt đầu bước xuống “Mê Tân” để tham dự cuộc chơi dưới dòng sông, bằng những trò chơi giành giựt, lừa đảo, đâm chém, hơn thua với những Tham, Sân, Si của mình; thì đã tạo dòng sông ấy thành bể khổ mênh mông (Khổ hải). Trò chơi nhấn chìm chúng sinh xuống dưới đáy sông hay có lúc nổi lên trên mặt nước, hoặc chìm xuống lưng chừng ấy là sự chìm nổi trong Lục Đạo Luân Hồi, không biết lúc nào thoát ra, vì mình bị người khác hại mình do nơi mình đã hại người trước kia, nên họ nhất định phải đòi lại hoặc trả thù. Cứ thế mà kéo dài cuộc sống trong cõi Luân Hồi không thôi. Lại có nhiều người hay chúng sinh mãi mê đi chơi quá xa bờ; đến một lúc, người hay chúng sinh nào đó cảm thấy chán nãn, không thích chơi nữa thì họ sẽ quay đầu lại để tiến vào bờ ấy là “Hồi Đầu Thị Ngạn”. Họ tiến vào bờ bằng nhiều cách: Hoặc quyết tâm, cắt bỏ tất cả (Đi Tu, Tu Sĩ), hoặc nửa Đạo, nửa Đời (Cư Sĩ), hay chỉ là Thiện Tri Thức làm điều lành, lánh dữ, bỏ ác, làm thiện, tùy theo hoàn cảnh, suy nghĩ của họ mà họ chọn con đường để đi. Khi đến bờ, bấy giờ gọi là “Bờ Giác” (Giác Ngạn), và những ai bước được lên bờ trở thành Bậc Giác Ngộ, là Phật, là Như Lai… có Tâm trong sáng, nhìn thấy rõ mọi điều vì có được Lậu Tận Thông, một trong Lục Thần Thông. Cõi dung chứa những người, chúng sinh như vậy là Niết Bàn, là Chơn Tâm, là Pháp Giới vô biên, hay Bồ Đề, Yêm Ma La Thức, Không Như Lai Tạng, hoặc là Đại Viên Cảnh Trí.

Vậy, trong giáo lý nhà Phật, Đức Phật đã hướng dẫn chúng sinh thoát vòng sinh tử như thế nào? Đức Phật đã khẳng định rõ ràng là: “Ai ăn nấy no, ai tu nấy đắc, không ai có thể thay thế cho ai được”, vì nghiệp của người nào đó do chính họ trói buộc ở nhiều đời nhiều kiếp, vì vậy chỉ có họ mới tháo gỡ cho chính họ mà thôi! Người ta nói một quả bóng tuyết tròn càng lăn xa thì tuyết bám vào càng nhiều, bóng ấy càng to ra. Cũng vậy, thì ở đây Phật Tánh của mỗi người, chúng sinh từ khi rời nơi chốn khởi đầu thanh tịnh, càng lăn lộn trong vòng chơi của Luân Hồi càng xa, càng lâu thì nghiệp chướng càng nhiều, cho nên khi quay đầu lại để vào được bờ thì phải lâu hơn, sự tháo gỡ các lớp bao phủ bên ngoài càng gian nan; nếu mà nhiều nhân ác chừng nào thì sự trả quả càng kéo dài ra. Bởi thế, nên trong Đạo Phật khuyên người, chúng sinh cần hành Thiện, vì với nhân thiện không phải trả quả và sớm được chấm dứt luân hồi.

Con đường nào mà Đức Phật đã chỉ cho chúng ta tiến đến giải thoát và giác ngộ? Con đường ấy qua sáu điều thực hành: “Lục Độ Ba La Mật”.  Vậy Lục Độ Ba La Mật là gì? Lục Độ là 6 điều hay 6 bước phải thực hiện; Ba la mật là năng nỗ, tận cùng rốt ráo, làm đến đỗi mà không nhớ đến mình đã làm giống như mình thi ân, làm phước mà không cần đến đền đáp báo ơn và cũng chẳng hề kể ơn. Sáu điều ấy là Bố Thí Ba La Mật (bố thí cho người khác về tiền tài, vật lực hay nói, giảng pháp); Trì Giới Ba La Mật (giữ giới nghiêm ngặt, không sơ hở trì hoãn); Nhẫn Nhục Ba La Mật (nhẫn nhục tận cùng, tránh khởi tâm sân hận); Tinh Tấn Ba La Mật (càng ngày càng tiến bộ hơn cho đến hết mức mình có thể thực hiện được); Thiền Định Ba La Mật (tham thiền đến chỗ định được Tâm tối đa); và Trí Huệ Ba La Mật (đạt được Sự Thấu Hiểu rốt ráo, tận cùng). Đó là con đường giải thoát mà Đức Phật hướng dẫn, tuyên xưng mà người mong cầu đạt Đạo cần phải thực hiện, và phải do chính người cầu đạo làm như tinh thần: “Tự thắp đuốc lên mà đi”!

Và cũng ở trong một phần khác, nơi các phẩm trợ đạo, tức là những phương pháp phụ giúp, hỗ trợ cho người thực hành sự giải thoát, thực hiện được dễ dàng hơn như: Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Chánh Đạo; thì trong phần Bát Chánh Đạo chỉ rõ các phần: Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng thuộc về “Giới”; “Định” gồm có Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định; và khi được Định thì đạt đến “Tuệ” hay gọi là “Tam Vô Lậu Học”. Nhưng tất cả phần nầy đúng như tên gọi chúng chỉ là những phần “yểm trợ, trợ giúp” cho việc thực hành đạo, để củng cố tinh thần, sự định tâm trên con đường Đạo Đế.

Tóm lại, Lục Độ, hay Giới Định Tuệ là những giai đoạn thực hành để tiến đến sự Giác Ngộ cho người tu hành. Người tu cần khiêm cung các giới luật lấy giới luật làm thầy; thực hành Thiền Định cho tinh tấn, hết lòng thì sẽ đạt đến Trí Tuệ mà thôi. Còn trong Lục Độ Ba La Mật thì chỉ rõ hơn là phần Bố Thí rộng khắp để chứng tỏ lòng từ bi của mình đối với muôn loài không phân biệt.

Tại sao chúng ta rút lại còn những phần chính yếu như vậy? Chỉ ở những phần thực hành trái với những gì đã làm trong quá khứ, hay ở các tự viện thực hiện từ lâu. Điều nầy đưa đến cho ta những giải thích như sau:

Chúng ta cần nhớ lại rằng: Đức Phật sau bao năm đi tìm học những lý thuyết của những bậc thầy, nhưng không tìm được lối tu nào thỏa mãn với ước nguyện; Cuối cùng Ngài quyết chí “tu chết bỏ” dưới cội Bồ Đề, thì sau 49 ngày, Ngài đạt được Đạo. Ngài khám phá ra được các chân lý tối thượng. Rồi từ đó, Ngài đi dong ruỗi trong hơn 45 năm để truyền bá những “cái” mà Ngài “thấy biết” trong khi đạt Đạo. Đó là “Tri kiến” của Ngài cũng như các Đức Phật trong thời quá khứ, hiện tại hay vị lai cũng sẽ “thấy” được như vậy không khác; Thế cho nên những “Tri Kiến Phật” ấy được Ngài đi khai hóa cho mọi người, chúng sinh được biết, được hiểu để tự mình dấn thân trên con đường tu tập hầu giải thoát cho chính mình khỏi sự khổ đau, thoát vòng Luân hồi, và trở về với bản thể trong sáng, sáng suốt, chiếu soi (Tự thắp đuốc lên mà đi). Ngài thuyết pháp, rao giảng vào lúc đầu theo nhận thức cao siêu của Ngài, cho nên mọi người không thể hiểu được vì do trình độ quá cao, khác với đời sống thường nhật, do vậy người, chúng sinh ngơ ngác, không thể hiểu (như Kinh Hoa Nghiêm). Sau đó, Ngài phải giảng thấp hơn, tùy theo căn cơ của chúng sinh mà giảng để mọi người cùng hiểu được, mà chọn cho mình con đường thực hành. Những giáo pháp, bài giảng do Ngài giảng ra chỉ là phương tiện để cho mọi người, chúng sinh hiểu; chứ không phải để cho chúng sinh bám víu, dính chặt vào đó, biến thành mục tiêu cuối cùng, là cứu cánh. Nhưng vì chúng ta không được sinh vào thời của Đức Phật, nên sự hiểu không được rõ ràng, mà Kinh điển thì nhiều; Hơn nữa, nhiều ngôn từ chuyên môn khó hiểu, khó tưởng tượng được cái khung cảnh, cảnh giới miêu tả trong Kinh; lại thêm từ ngữ như chúng ta thưòng gặp với nhiều tiếng Hán Việt, cùng Phạn Ngữ khiến cho người đời sau có thêm nhiều khó khăn để hiểu. Muốn hiểu thì phải học Tiếng Hán Việt, tiếng Phạn, phải hiểu từ chuyên môn, vì thế khiến ta dính mắc vào Kinh điển nhiều hơn. Rồi từ sự nghiên cứu, tùy theo ý thích mà người chọn Kinh nầy, hay Kinh khác để sau đó biến thành tông phái riêng của mình, của nhóm. Cho nên rốt cuộc cũng quanh quẩn vào giáo lý, chưa thoát ra khỏi “cái bè” giáo lý ấy; thay vì chỉ muợn lấy cái bè đó để sang sông như trong Kinh Lăng Nghiêm có ghi:

“Các ông nên biết: Ta cũng như người dùng ngón tay chỉ mặt trăng, các ngươi phải nhơn ngón tay mà xem mặt trăng. Nếu chấp ngón tay cho là mặt trăng, thì chẳng những không thấy được mặt trăng, mà cũng không biết luôn ngón tay. Vì cho ngón tay là mặt trăng, thì không những không biết ngón tay là gì, mà cũng không biết thế nào là tối và sáng. Vì mê chấp ngón tay là mặt trăng, thì tối và sáng làm sao rõ được”.    (Phật Học Phổ Thông, Kinh Lăng Nghiêm, Hòa Thượng Thích Thiện Hoa).

Hay cũng trong Phật Học Phổ Thông, phần Kinh Viên Giác có đoạn:

“Nầy Thiện nam! Tất cả kinh giáo của Như Lai đều như ngón tay để chỉ mặt trăng Viên Giác (chơn lý). Vậy các ông phải biết: Đây là ngón tay kinh giáo chớ không phải mặt trăng Viên Giác. Nếu các ông chỉ cố chấp ngón tay, thì không bao giờ thấy được mặt trăng. Những người biết nhơn ngón tay kinh giáo nầy, mà nhận được mặt trăng Viên Giác, thì gọi là Bồ Tát lên Thánh Địa, tùy thuận tánh Viên Giác”. (Chương Thanh Tịnh Huệ)

 

Nguyên Thảo,

04/04/2025.

  

Wednesday, March 26, 2025

*Góc Nhìn! (4)

 

Theo chúng tôi nghĩ, qua các phần trên Quý vị cũng theo dõi được các phần về “Nhân và Quả”, Nghiệp, Duyên Khởi, Tái Sinh và Lục Đạo Luân Hồi! Bây giờ chúng ta trở lại xem Đức Phật đã chiêm nghiệm về sự thành hình con người, chúng sinh như thế nào? Trong giai đoạn Thiền Định 49 ngày của Đức Phật, vào những ngằy cuối cùng Ngài đã nhận thức được rằng: “Con người, chúng sinh khởi đầu hành trình lăn lộn trong bể khổ, trầm luân trong Lục Đạo Luân Hồi là do sự “Vô Minh” (không biết, mê mờ, ngu si), nên mới có hành vi tạo tác (Hành); rồi đến nhận thức phân biệt (Thức); kế là sự hình thành của Thân và Tâm (Danh Sắc); sau đó sự gắn kết thân, tâm cùng 6 căn: Mắt, tai, mũi, luỡi, thân, ý (Lục Nhập); từ các căn nầy mà tiếp xúc, có cảm xúc với ngoại cảnh (Xúc); nên mới nhận lấy, hưởng thụ (Thọ); từ hưởng thụ mới sinh ra luyến ái (Ái); từ luyến ái lại muốn giữ, muốn lấy (Thủ); cho mình, cho riêng mình (Hữu); và muốn thế nên mới có (Sinh); mà sinh ra tất có (Lão, Bệnh, Tử). Đó là tiến trình về con người mà Đức Phật chiêm nghiệm nhiều lần xuôi lẫn ngược để kiểm chứng điều mình đã tìm thấy được theo luật: “Cái nầy có thì cái kia có, cái nầy mất thì cái kia mất”. Cuối cùng, định luật ấy để giải thích cho sự thành hình con người, chúng sinh gọi là thuyết: “Thập Nhị Nhân Duyên”.

Vậy thì “Cái gì” cho sự khởi đầu bằng hai chữ “Vô Minh”? Ai Vô Minh? Hay cái gì Vô Minh? Thuyết Thập Nhị Nhân Duyên làm cho người tìm hiểu vào Đạo Phật có nhiều lấn cấn và bỡ ngỡ về vấn đề nầy! Thật ra, cũng không có gì khó để tìm ra, vì trong các Kinh Phật cũng thường đề cập đến, nếu chúng ta tinh ý một chút thì cũng có thể hiểu được, đó là cái Phật Tánh của mỗi con người, chúng sinh đều có. Nhưng Phật Tánh ấy được gọi nhiều tên khác trong các phần kinh khác nhau: Khi thì gọi là Tâm, khi thì gọi là Bản Lai Diện Mục.

Tôi xin kể một câu chuyện để Quý vị có thể hình dung ra điều ấy. Thí dụ: Tất cả chúng ta đều cùng ngồi trên bờ của một dòng sông, nước chảy im lìm, trong xanh trong một khung cảnh yên lặng; rồi đột nhiên có người nào đó đi đến bờ và bước vào dòng nước để chơi. Nhiều người khác bắt chước tiếp theo, và mọi người đều tham gia. Ở trong dòng sông ấy họ chơi giống như những trò chơi lúc nhỏ mà chúng ta chơi: Người thì lặn, người thì bơi, người nổi trên mặt nước, người chìm sâu dưới đáy, người thì đi càng ngày càng xa, người thì ờ sát bờ. Mọi người chơi tát nước, kẻ lớn thì ăn hiếp trẻ nhỏ, làm cho chúng khóc la, đứa mạnh thì cố nhận đầu cho đứa yếu uống nước chơi. Có đứa rón rén trốn cuộc chơi để bước lên bờ thì những đứa kia thấy được liền chạy đến cùng nhau lôi nó xuống để chơi tiếp.

Qua ví dụ ấy, chúng tôi muốn chứng minh cho Quý vị một câu chuyện để quán triệt cái trò chơi của trần thế, và hiểu hơn chút nào về lý thuyết, nhận xét, giải thích của Đạo Phật trong cuộc đời.

Mỗi người ngồi trên bờ sông chính là cái Phật tánh của mỗi người hay chúng sinh, cái không gian, khung trời đó là Cõi Chơn Tâm (hay Cõi Phật). Khi còn ngồi trên bờ sông để nhìn khắp nơi, thấy rõ mọi chuyện ấy là cái “Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu” (Chơn Tâm nhiệm mầu vắng lặng mà thường sáng suốt chiếu soi). Nhưng do vì không biết (Vô Minh) cái Phật tánh của mình rời chỗ ngồi trên bờ (rời cõi Chơn Tâm) để đến bờ sông đi vào dòng nước (Bến mê hay tiếng Hán Việt gọi là Mê Tân) liền bị dòng nước lôi cuốn cùng với bạn bè để chơi những trò chơi, lăn lộn trong dòng sông ấy (Tạo Nghiệp, gây Nhân và chịu Luân Hồi). Mình ăn hiếp, lừa đảo, cướp bóc, giết người, giúp đỡ hay hành thiện tạo nên những ân oán giang hồ đối với kẻ khác, thì tất nhiên với hận thù ấy họ không hề quên, cố tìm được ta để trả thù. Do vậy sự vay trả trả vay kéo dài không biết đến bao giờ! Cũng trong dòng sông ấy người thì được nổi trên mặt nước để thở hít không khí trong lành, có cái nhìn xa rộng hơn giống như chúng sinh đang hưởng phước trên cõi trời; người hơi chìm đắm chút ít là ở cõi người; người chìm đắm hơn là đang ở Atula; người sâu dưới đáy ngộp thở, kêu la thì đang ở trong địa ngục; và có những người ở tầng gần đáy là ngạ quỷ, súc sinh. Ngoài ra, có người lội ra thật xa bờ, chìm đắm đó là những chúng sinh còn mê muội vào cuộc chơi. Nếu có kẻ lội hướng vào phía bờ thì họ đang “Hồi đầu thị ngạn” (Quay đầu là bờ). Quay đầu như thế nào? Có nhiều cách: Quay đầu một cách năng nỗ là Tu sĩ, người tu dứt bỏ mọi hành trang, quyến luyến để lội ung dung, thoải mái vào bờ. Có người bơi từ từ, hơi vướng bận với trần thế giống như các cư sĩ, người tu tại gia. Và những người lội không phải vội vàng như những người hành thiện chẳng hạn. Nhưng dù gì họ cũng tùy theo hoàn cảnh, cơ thể của họ mà họ vận dụng cách tu nào, ứng dụng làm sao, như thế nào, mỗi người mỗi cách có khác nhau cho nên trong giáo lý nhà Phật mới nói đến “Bát vạn, tứ thiên” (Tám mươi bốn ngàn) pháp môn; đó là từ ngữ để diễn đạt của người Ấn Độ khi đề cập đến số lượng “thật là nhiều”; tức là có rất nhiều pháp môn. Khi ai đó đến được bờ thì bờ bây giờ được gọi là “Bờ giác” (Giác Ngạn). Nhưng tại bờ giác nầy, có nhiều người không muốn bạn bước lên bờ, mà họ muốn bạn trở lại chơi với họ tiếp tục nên họ quyết chí lôi kéo bạn trở lại, đó chính là những ma chướng, thế lực của Ma vương đang gây trở ngại cho người tu. Bạn cương quyết dùng mọi sức mạnh để vượt thoát bước lên bờ lúc ấy bạn là Bậc Giác Ngộ, là Thành Phật, là Như Lai…Phật tính của bạn trở về với thế giới Tĩnh Lặng trên bờ sông, nhìn ra khắp nơi thấy mọi phía, nhìn vào dòng sông thấy tất cả mọi điều, sống với “Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu”. Và quay lại các việc xảy ra trong quá khứ ở dưới dòng sông, giống như là một cơn mê, một giấc mơ mới vừa xảy ra đêm hôm qua (đại mộng, giấc mộng lớn).

Ở đây, chúng tôi muốn để cập vài phần nhỏ để chúng ta hiểu thêm phần nào nữa của quan niệm trong lý thuyết, hay nói đúng hơn là trong Giáo Lý của nhà Phật. Đó là:

Quý vị cứ xem không gian bao la phía trên bờ sông là Cõi Phật, cõi Chơn Tâm; những người ngồi trên bờ sông là Tâm, là Phật Tính từng chúng sinh trong cái Thức Tâm chung, cùng hòa quyện (viên dung) với các đại khác như đất, nước, gió, lửa, hư không, cái thấy, tức là 7 Đại của thế giới bao la. Trong một thoáng nào đó, Tâm chúng sinh vì không biết (Vô Minh) mà đã khởi lên (“Hành”) động, tạo tác; có vọng tưởng phân biệt (Thức); nên mượn đến tứ đại: Đất, lửa, gió, nước để kết nên thân thể, hình tướng (Danh sắc), rồi với hình tướng ấy có được 6 căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý gắn liền vào. Với 6 căn được tiếp (Xúc) 6 trần; qua nhận thức của 6 thức chúng sinh được nhận lấy, hưởng thụ (Thọ). Hưởng thụ, thọ lấy thì thấy thích (Ái). Thích thì muốn chiếm giữ (Thủ), và muốn có mãi (Hữu), có mãi thì phải có tái (Sinh), có sinh tất có (Già, Bệnh, Chết). Đó là thuyết Thập Nhị Nhân Duyên để giải thích rõ về sự hình thành con người, chúng sinh và tại sao chuỗi ấy lại tiếp nối tái diễn khá dai dẵng. Cái quan trọng trong chuỗi nầy là ở chỗ Dục Ái (yêu thích và ham muốn) cho nên mắt xích ấy khá quan trọng trong sự giải thoát. Khi chúng sinh có hình tướng và lục căn, với lục căn ấy tiếp xúc với 6 trần, rồi với 6 thức người ta biết thế nào là ấm êm, sung sướng, ngon ngọt, đẹp đẽ…thì muốn có; có ít rồi lại muốn có nhiều (Tham), tìm đủ mọi cách để chiếm lấy. Nếu không được lại trở nên giận dữ, sân hận (Sân). Đến lúc mù quáng (Si) thì dùng mọi cách để chiếm lấy qua các hình thức giết người (Sát); trộm cắp (Đạo), tà dâm (Dâm), xí gạt, dối trá, lừa đảo (Vọng) gây nên những nhân xấu, tạo nên những nghiệp phải trả trong tương lai.

 

Nguyên Thảo.

 


Monday, March 24, 2025

*Góc Nhìn! (3)


Với Thiền Định, chọn tư thế Thiền và vào Thiền đã khó, nhưng khó hơn nữa là làm thế nào để định được Tâm, giữ Tâm cho ổn định, nhìn sâu vào thế giới Chân Không hay là Chân Như bằng Phật Nhãn. Và, sự khám phá lại càng khó thêm vì vốn do trở ngại bởi “Tâm Viên, Ý Mã”. Vả lại, trên con đường hành Thiền có vài ma chướng mà người hành Thiền cũng cần nên biết (Những điều nầy Thầy Thích Thiện Hoa đã trình bày trong bộ Phật Học Phổ Thông ở phần Kinh Lăng Nghiêm và Kinh Viên Giác). Thiền giống như chúng ta đi trong ruột của một thân cây, đi từ dưới gốc lên tới ngọn. Trên đường sẽ có những ngõ ngách để tẽ ra các nhánh; nếu chúng ta vượt qua, đi đúng đường thì chúng ta sẽ lên tới được ngọn, lúc ấy chúng ta sẽ thành được Đạo, tiến tới Chánh Đẳng Chánh Giác. Tuy nhiên, bất cứ con đường tu tập nào cũng đều có những chướng ngại; hay ma vương thử thách người tu, hoặc loài ma dùng cái thần lực của họ có nhằm lôi kéo người tu trở lại, vì nếu ai cũng thoát khỏi vòng Luân hồi sanh tử thì họ sẽ “chơi” với ai! Với điều nầy, chúng tôi sẽ kể một câu chuyện hồi nhỏ để cho các bạn dễ hiểu hơn: Ngày xưa, ở trong làng quê tôi có con suối nhỏ, dù không sâu lắm, nhưng cũng là nơi để cho bọn chúng tôi tắm, học bơi lội sau những chuyến rong chơi. Ở dưới suối chia phe tát nước vào nhau; bọn nhỏ con, còn nhỏ như chúng tôi làm sao tát lại những đứa lớn hơn. Thế là bị tụi nó nhận đầu xuống cho uống nước, hoặc tát nước vào lỗ tai, mặt mày túi bụi. Chịu không nỗi đành phải tìm đường trèo lên bờ, mình vừa bước chân lên nó lại lôi mình xuống và tạt nước tiếp đến đỗi đành phải khóc la chúng mới buông tha. Thì ở đây, các ma vương cũng làm giống như vậy. Đức Phật có kể các ma trong Kinh, nhất là Kinh Lăng Nghiêm trong phần người tu cố gắng vượt qua “ngũ ấm” (sắc, thọ, tưởng, hành, thức); mỗi ấm có 10 thứ ma chướng được liệt kê gọi là “Ngũ Ấm Ma”; tuy nhiên “sự tưởng mình thành đạo, có khả năng nói pháp mà kiêu mạn” là quan trọng nhất. Lại thêm loại “Thiên Ma Ba Tuần” chúng cũng có nhiều Thần Thông chỉ thua Phật ở chỗ là không có Lậu Tận Thông mà thôi! Như vậy, người tu phải cố gắng tự mình vượt qua nhiều chướng ngại, cùng những lực lượng ma vương mà chúng luôn lôi kéo họ trở lại cái thế gian trầm luân nầy mà cùng chơi với chúng.

Chúng ta đã lược qua về Thiền để hiểu một vài khái niệm sơ khởi, và với Thiền Định trong 49 ngày Đức Phật đã tìm được con đường Giác Ngộ, Ngài tìm đến năm anh em Kiều-Trần-Như để giảng bài pháp đầu tiên là Tứ Diệu Đế. Tứ Diệu Đế là những Chân lý hiển nhiên, bất di bất dịch mà mọi chúng sinh nào cũng phải chịu chi phối như là những Qui Luật tất yếu, đó là:

1-Khổ-Đế: Trước tiên là mình thấy được rõ cái thế giới mình đang sống hiện tại có rất nhiều đau khổ, khổ trong nhiều vấn đề, sinh hoạt, đời sống, giao tiếp; và là những sự tranh giành, lừa đảo; tranh hơn thua bằng những thủ đoạn tàn ác khiến cho cuộc đời trở nên khổ hơn; mạnh ăn hiếp yếu, lớn ăn hiếp nhỏ, và luôn cả những thiên tai dồn dập từ thời tiết mưa bão, các hiện tượng thiên nhiên, dịch bệnh, sóng thần khiến thế giới mà chúng sinh đang sống có khổ nhiều hơn vui. Đã vậy, ngoài tiến trình cuộc sống bằng các giai đoạn: Sinh, Lão, Bệnh, Tử; chúng sinh còn có những cái khổ khác chất chồng như: Khổ chồng khổ (khổ khổ); hư hoại khổ (hoại khổ); hành động, làm khổ (hành khổ); yêu thích mà phải xa rời (Ái biệt ly khổ); mong cầu mà không được (Cầu bất đắc khổ); những gì không ưa thích, mong muốn cứ đeo đuổi theo ta mãi khổ (Oán tắng hội khổ); và những đau khổ về thần xác, tinh thần (Ngũ ấm xí thạnh khổ).

2-Tập-Đế: Biết được những cái khổ thì chúng ta cần tìm hiểu về những nguyên nhân của nó, để tường tận về cuộc sống mà chúng sinh từng trải qua: Đó là do Tham, Sân, Si. Từ sự ham muốn càng ngày càng nhiều về danh lợi, vật chất; càng muốn chiếm về cho nhiều hơn, nếu không được trở nên sân hận gây nên hành động, cử chỉ thù hằn, oán ghét, giận dữ…Đến khi không kiềm chế được trở thành u mê mà có nhiều hành động sát, đạo, dâm, vọng rồi tạo thành nhiều nhân xấu đem bỏ vào “túi nghiệp”. Ngoài ra, còn có những tính “Mạn”: Khinh mạn, kiêu căng, ngạo mạn (Mạn, Ngã mạn, Quá mạn, Mạn quá mạn, Tăng thương mạn, Ty liệt mạn, Tà mạn); hoặc “Nghi” ngờ tới người khác (Tự nghi, nghi pháp, Nghi nhơn) và Thân Kiến: Chấp vào cái Ta để coi thường, chà đạp người khác (Biên kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ, Tà kiến).

3-Diệt Đế: Biết được đau khổ và những nguyên nhân nào đưa đến sự đau khổ, thì mình cần thực hành phương pháp để không còn khổ đau, đó là sự chấm dứt khổ đau bằng sự tu tập, thực hiện tu hành.

4-Đạo Đế: Nhưng tu hành như thế nào? Tức là nương theo con đường mà Đức Phật đã tìm ra được khi đi tìm kiếm sự giải thoát, và giảng giải suốt hơn 45 năm hành đạo của Ngài.

Sau bài pháp đầu tiên nầy, Ngài đã thu phục được năm anh em Kiều Trần Như và thành lập tăng đoàn, bắt đầu ôm bình bát đi khất thực ở các nơi, cùng thuyết pháp, giảng giải cho những người mà Ngài gặp.

Tại sao hình thức khất thực thành hình? Thử tưởng tượng một chút, chúng ta cũng có thể hình dung được khất thực bắt đầu như thế nào. Trong những ngày Đức Phật tu khổ hạnh, ép xác đã có lúc Ngài kiệt sức, ngã quỵ trên cỏ thì có nàng thôn nữ Sujata dâng cho Ngài bát sữa để cho Ngài hồi sức. Từ đó Ngài nghĩ rằng thân xác nầy cần được bảo tồn, tồn tại để thực hiện sự tu tập của mình, cho nên Ngài chọn con đường trung đạo: Không lợi dưỡng mà cũng không ép xác, khổ hạnh. Để nhu cầu đi khắp nơi rao giảng thì phương thức khất thực (xin ăn) là thích hợp. Xin vừa đủ ăn một bữa trong ngày để giữ gìn thân xác, ai cho gì ăn nấy không chê khen, chọn lựa. Bảo tồn mạng sống để đi giảng pháp cho mọi người khác. Người theo càng ngày càng đông, tăng đoàn càng lớn; số đệ tử hiểu rõ pháp càng lúc càng nhiều. Những đại đệ tử đã hiểu được pháp một cách rõ ràng, minh bạch được chia đi khắp nơi để truyền bá giáo pháp độ đời. Tất nhiên, khi đi thì có nhiều nơi khác nhau về địa lý, hoàn cảnh, đời sống: Có nơi nghèo, nơi giàu; nơi khó khăn, nơi thuận lợi thì cách ăn mặc có khác nhau, có người được nhận sự bố thí cúng dường, có nơi thì phải nhặt vải bên đường hay nghĩa địa để kết lại mà mặc. Đời du tăng đã được phổ biến. Nhưng việc nào cũng có biến đổi tùy theo môi trường, nơi chốn; thì ở đây Đạo Phật cũng thay đổi theo các hướng mà nó đi: Với Nam tông thì giữ được cách khất thực như thời Đức Phật và đệ tử vào lúc ban đầu do thời tiết, khí hậu ấm; nhưng ngày nay, cũng cần có nơi cố định để tiện lợi cho người dân đến để tập tu và tìm hiểu về Đạo nên các Tịnh xá, am, cốc cũng được thành hình. Đời du tăng có nhiều trở ngại, nhất là trong hoàn cảnh của những nước có chiến tranh. Có một câu chuyện mà chúng tôi muốn kể để Quý vị suy ngẫm xem thế nào? Ở làng quê tôi trong thời chiến tranh khá ác liệt vào những năm 60, có một ông chú đi hớt tóc, ông ấy cưỡi xe đạp đi vòng qua các xóm để hớt dạo. Sau ông theo đạo Tin Lành, không biết có phải vì ông sốt sắng truyền đạo quá theo tiêu chí của người theo đạo nầy, mà ông len lõi các xóm ở mức độ nhiều hơn, và sau đó thì ông bị mất tích. Không biết ông mất tích vì lý do gì, nhưng có tin đồn ông làm gián điệp. Chẳng hiểu thế nào, nhưng dù gì sự việc cũng đã xảy ra, có thể đó là sự sai lầm theo kiểu: “Thà giết lầm, còn hơn là thả lầm” chăng?  Từ câu chuyện ấy, bây giờ ta có thể giải mã được vài câu chuyện khá quan trọng trong thời gian chiến tranh, lúc mà những lực lượng đối kháng không thể tin người khác, dù người đó là ai! Còn về nơi phương Bắc thì với thời tiết lạnh lẽo, tuyết phủ vào mùa Đông thì người tu phải thích ứng theo nó, không thể giống như ở phía Nam được, nên bắt đầu những tự viện ra đời. Hình thức khất thực để “gieo duyên”, “hóa duyên” khó mà thực hiện.


Nguyên Thảo.


 

Sunday, March 9, 2025

*Có Phải Là Nợ Nần Với Nhau?

 

Đến nay khi mình trở nên già đi, mọi công việc lo toan được gác lại, rồi ngẫm nghĩ về thế sự, cũng như nhìn lại những quãng đời đã qua, để mình có cái nhìn tổng quát hơn về cái con người của mình trong trần thế nầy đã như thế nào, có ích gì hay là có hại; hoặc những sự “đái nát” nào đó mà mình chẳng làm được gì.

 Ngày xưa, khi về ở chung với ông nội vì ông ở có một mình. Lúc đó chị hai Nhiếm, con Bác Tư đã đi lấy chồng tận bên Bến Gỗ thuộc Tỉnh Biên Hòa, thì tôi cũng bắt đầu vào lớp Đệ Tam (tức lớp 10 ngày nay). Nhiều đêm tôi chong đèn ngồi học thì ông nội đã đi ngủ sớm, nhưng rồi khoảng 2, 3 giờ sáng ông thức dậy, đi nấu nước để pha trà ngồi uống một mình bên chiếc bàn tròn kê ở căn giữa của nhà. Lúc sau thì có ông Hai (anh rễ của ông nội) bên kia đường sang gõ cửa vào ngồi cùng chuyện trò. Chẳng bao lâu thì ông Bảy nhà kế bên cũng sang tham gia. Các ông nói toàn những chuyện đời xưa, rồi cũng như chuyện ngủ không nhiều, nhớ lại chuyện hồi năm nào. Lúc ấy, tôi thường chập chờn thức giấc mà chứng kiến rất nhiều ngày như vậy. Có khi có thêm dượng Hai Đố nhà kế bên, cùng Dượng Bảy Dí bên kia đường đối diện tạo thành một buổi họp mặt những người già vào buổi sáng sớm, ở một khu phố trong khu ấp chiến lược của một làng quê vào thời buổi chiến tranh.

Thế rồi, từng thế hệ qua đi từ ông nội cho đến ba mình, và bây giờ mình đã già quá cái tuổi gọi là “Thất thập cổ lai hi”, mình cũng có những cái nỗi niềm giống như ông nội ngày trước: Cũng ngủ ít, ăn ít cùng nhớ chuyện xưa cũ và ôn lại kỷ niệm thuở nào đó đối với bạn bè vào những lúc có dịp gặp hoặc hàn huyên. Thêm vào đó, mình lại kiểm điểm cuộc sống của mình sau gần 80 năm trải qua cuộc đời đầy ganh đua, biến động. Trước tiên, có lẽ tôi phải xin lỗi với ba tôi thật nhiều vì tôi “quá ngu”, không đáp ứng được điều nào mà ông đã kỳ vọng vào một đứa con trai đầu lòng mà ông đã có. Bất cứ một người cha hay mẹ nào khi sinh được đứa con cũng điều mong con mình được lành lặn, khôn ngoan, có ích cho gia đình, xã hội, làm nở danh dòng họ trong tương lai. Điều ấy tôi học được từ khi có những đứa con, nhưng để xét lại mình thì tôi chỉ có khái niệm ấy mới đây thôi, cũng trong một dịp tình cờ khi kể lại câu chuyện ngày xưa: Tại sao mình lại quá ngu như thế mà chắc không có một đứa trẻ nào tệ hơn? Thực vậy, bạn thử nghĩ ngày ấy tôi đã 5 tuổi thế mà ba tôi dạy tôi đếm số từ 1 tới 10; tôi đã không đếm được, có lúc đếm đến 9 chỉ còn một số nữa thôi mà tôi cũng đếm không được. Quả thật là tệ phải không bạn? Sau trận đòn ấy, từ đó ba tôi không hề dạy cho tôi nữa. Bây giờ tôi nghĩ ngày ấy chắc ông thất vọng về tôi rất nhiều! Rồi không những thế có lúc ông làm cây đàn gáo (đàn độc huyền bằng gáo dừa xiêm) mà ngày nay người ta chế biến bằng hình thức đẹp hơn và gọi là đàn “độc huyền” (một dây), và ghi dấu để dạy tôi đánh đàn, nhưng thêm một lần nữa ông cũng thất vọng không cùng. Thế rồi hai năm sau, vì tình hình chiến tranh ông phải dời gia đình về chợ Tân Phước Khánh sống cho yên ổn hơn. Vì bận lo buôn bán nên ông gởi tôi vào trường học nơi lớp Đồng Ấu cho Thầy giáo Sáu ở trường Cây Gòn của Thầy giáo Khai. Ba tôi từng nghe “mắng vốn” từ Thầy giáo Sáu là vào lớp tôi hay ngủ nên ông khuyên ba tôi để cho tôi ở nhà, nhưng ba tôi cần gởi tôi ở trường hơn vì sợ tôi đi chơi. Thế nhưng sau nhiều tháng tôi cũng học tạm được, không còn gì phải phiền hà đến thầy và ba nữa. Từ đó tôi thấy khả năng học bài “thuộc lòng” của mình vất vả vô cùng. Có khi học đến hai mươi lần mới thuộc nhưng lại rất mau quên. Điều ấy đã theo tôi đến tận bây giờ, tôi có thể kiểm chứng nó qua nhiều bài hát hoặc các bài quốc ca mà tôi đã từng ca rất nhiều lần nhưng chưa bao giờ thuộc hoàn hảo một bài, ca cứ “lộn qua lộn lại” hoài. Theo thời gian, tôi cũng chỉ làm được một điều là hoàn tất kết quả các kỳ thi Tú Tài I và 2 một cách năng nỗ mà thôi. Đó là điều mà tôi đã cố gắng đền đáp an ủi lại cho ông thôi, chứ không còn có gì khác hơn!

Còn đối với má tôi, thì có lẽ tôi ra đời là một chuỗi “oan gia” hơn là hạnh phúc cho nhau. Không biết ngày má tôi mang thai, tôi có hành hạ bà nhiều không, chứ sau nầy bà kể lại khi sanh tôi ra thì đã khóc quá nhiều, khóc đến đỗi bà dỗ không nín và không thể ngũ được. Khóc đến đỗi rún lòi ra thành một cục tròn chứ không lặn vô trong như bao nhiêu đứa trẻ khác. Khóc đến đỗi bà giận quá, có lúc bà đưa tôi ngủ trên võng mà phải văng vào chuồng trâu mà tôi vẫn khóc. Bao nhiêu người chỉ, hay bày làm cách này, cách khác để tôi trở nên dễ hơn, nhưng vẫn không hiệu quả. Tôi vẫn khóc mãi như vậy cho đến đúng sáu tháng tròn trĩnh, thì qua ngày sau đó đột nhiên tôi trở nên dễ vô cùng, để ở đâu nằm chơi ở đó không hề quấy rầy. Tuy nhiên trong chuyện kể lại của má, có một điều làm tôi suy nghĩ hơi nhiều, không biết có phải điều ấy làm cho tôi kém trí nhớ mãi về sau nầy. Má nói, ngày ấy Tây “đi bố” (ruồng bố, lùng xục) khiến dân trong xóm phải bỏ chạy, vì nếu không tụi Tây có thể bắt giết, bắn hay lấy lưỡi liềm cắt cổ. Vì vậy má bồng tôi cứ chạy, nhưng tôi thì cứ khóc mãi, khiến bà sợ tụi Tây nghe mà bắt giết nên đành phải ấn tôi xuống nước ruộng. Sau nầy nghe người ta thường nói những đứa kém trí nhớ, hay quên rằng “giống như thằng té giếng”, ở đây tôi không bị té giếng nhưng bị dìm vào trong nước ruộng để tránh tụi Tây nghe được do tiếng khóc của mình. Thế là mọi chuyện nào xảy ra trong đời đều có cái tương quan với nhau của nó, không phải nó ngẫu nhiên đến mà không có nguyên nhân.

Tất cả những chuyện giữa cha mẹ và tôi là như vậy, nếu Quý vị có đứa con như thế đó thì cảm tưởng bạn sẽ ra sao? Thất vọng thật nhiều phải không? Thì có lẽ ba má tôi cũng không khác! Rồi với vài biến cố trong cuộc đời, tôi đã đi tìm…đi tìm sự bình an cho mình qua các tôn giáo. Cuối cùng tôi đã tìm thấy “sự lý giải hợp lý” khi tôi đi sâu vào giáo lý của Nhà Phật, và ngày nay tôi bằng lòng với tất cả những gì đã có, giống như những hạt giống mình đã gieo từ xa xưa mà bây giờ mình nhận được kết quả của nó; và với cha mẹ là “nhân duyên”: Sinh ra, gắn kết là nợ nần của nhau, như sự thừa hưởng cùng chuỗi “gen” di truyền của nghiệp.

 

Đồ Ngông,

16/02/2025.

 


*Góc Nhìn! (2)

 

Như ở trên đã nói: Con người, chúng sinh khi chết đi thì thân xác, tiền tài, người thân đều bị bỏ lại, chỉ mang theo cái “Túi Nghiệp” với hằng hà sa số chủng tử trong đó. Tùy theo những chủng tử nào “đủ duyên” để phát sinh trong thời kỳ kế tiếp, thì sẽ quyết định chúng sinh ấy sinh về cõi nào trong Lục Đạo Luân Hồi. Nhiều chủng tử tốt (Thiện) thì sinh về cõi Trời để hưởng Phước hay sinh về cõi Người, hoặc kém hơn thì về cõi Atula, kém hơn nữa thì vào cõi Ngạ Quỷ, Súc Sinh, tệ hơn thì vào Địa Ngục để “chiêu cảm” (danh từ trong Kinh Địa Tạng) tự cảm nhận, mời gọi những đau đớn, hình phạt đến với mình trong từng giây phút về các tội lỗi mà mình đã gây ra trước kia, hay trong kiếp vừa rồi. Và cũng tùy theo các “Nhân” trong túi nghiệp trổ quả trong giai đoạn nào, mà cuộc sống có nhiều tiến trình liên tiếp diễn ra cho đến lúc cuối đời. Do vậy, trong mỗi kiếp tái sinh con người, chúng sinh đều “vô thường” (biến đổi, thay đổi) trong từng thời gian nhỏ nhất (sát na). Cuộc đời gặp những biến cố đau khổ hay may mắn, hạnh phúc đều bắt nguồn từ các chủng tử Thiện, Ác đã gieo trong nhiều kiếp, vì do các nhân ấy đã tới lúc, giai đoạn nẫy mầm kết trái (Quả); cho nên theo từ ngữ trong Nhà Phật ta gọi là “Tùy duyên sinh” (Duyên Khởi), rồi tiếp theo đó là một chuỗi sự kiện xảy ra: Sự kiện xảy ra trước là nguyên nhân cho sự kiện xảy ra sau, sự kiện xảy ra sau là nguyên nhân của sự kiện xảy ra kế tiếp, cứ thế mà diễn tiến liên tiếp gọi là Trùng Trùng Duyên Khởi; kéo theo những “nhân phụ thuộc” cũng nẫy mầm đồng loạt hỗ trợ cho sự kiện chính, mãi đến khi biến cố cuối cùng bị “Tùy Duyên mà Diệt”, chấm dứt cho sự kiện đó. Để rồi lại bắt đầu cho những sự kiện kế tiếp do “Nhân” khác nẫy mầm, và cuộc đời bước vào một giai đoạn khác. Khi các nhân nẫy mầm trong cuộc đời nầy đã hết, thì người hay chúng sinh sẽ “chấm dứt cuộc chơi” (chết), để bước sang một “kiếp Tái sinh” sau nữa ở một cõi nào đó trong “Lục đạo Luân Hồi”!

Nói một cách rõ hơn, trong Đạo Phật khuyên chúng sinh nên làm việc Thiện để được Nhân Thiện, vì nhân thiện sẽ tạo được Phước đức, tốt cho mình và “bố thí” cho người, chúng sinh khác mà cao nhất là “sự bố thí, thi ân mà không cầu báo đáp” (Bố thí Ba La Mật). Còn khi tạo ra những nhân xấu với người, chúng sinh khác thì người ta sẽ đòi và mình phải trả (vay trả, trả vay) trong kiếp nào đó, tức là phải chịu “kiếp tái sinh” để trả nợ, thì vẫn còn lăn lộn trong “Vòng Luân Hồi”! Nếu qua nhiều kiếp mình làm việc Thiện nhiều hơn Ác, tức là hạt giống trong túi Nghiệp không còn bao nhiêu Nhân xấu; thì người, chúng sinh đó sẽ tiến đến kiếp cuối cùng và chấm dứt để ra khỏi sự Luân Hồi và tìm được Phật Tánh, Bản Lai Diện Mục… trở thành Bậc Giác Ngộ, là Phật, là Như Lai trở về với Chơn Tâm, dù chúng sinh ấy muốn hay không muốn đi nữa. Nhưng, cũng còn có con đường khác để họ đi là theo nguyện lực, lời nguyện không thành Phật, mà chỉ thành Bậc A-La-Hán để trở lại thế gian, cõi nào đó mà độ đời, giúp các chúng sinh khác; giống như Ngài Địa Tạng nguyện đi vào Địa Ngục để độ các chúng sinh trầm luân cho đến khi không còn chúng sinh nào ở đó nữa thì mới thành Phật. Đó là sự tìm hiểu, giải thích, chứng minh cho một tiến trình “Đi Tìm Sự Giải Thoát” vậy!

Thế cách nào đi tìm được Bản Lai Diện Mục hay cái Phật Tánh của mình và mong cầu giải thoát? Đó là sự trăn trở của Đức Phật ngày xưa để Ngài quyết chí đi tìm Đạo. Ta nhớ lại sau thời gian 6 năm đi tìm cầu, Ngài chưa thỏa mãn với những phương pháp tu tập mà Ngài đã học được, cuối cùng Ngài quyết chí Thiền Định dưới gốc cây Bồ Đề đến chết thì thôi. Trong 49 ngày, Ngài đã Chứng Ngộ và Kiểm chứng lại các điều ấy, và sau đó Ngài đi tìm năm anh em Kiều Trần Như để nói đến Bài Giảng Đầu Tiên là Tứ Diệu Đế. Tứ Diệu Đế mà người ta thường hay nói đến như là Bốn Thánh Đế, đó là những Qui Luật hiển nhiên, bất di bất dịch của Thiên Nhiên, Vũ trụ mà tất cả mọi chúng sinh đều bị chi phối, giống như cái “Định Đề”, chứ không phải là Định Lý trong toán học. Đó là bốn điều: Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế.

Trước khi nói đến Tứ Diệu Đế, chúng tôi xin đề cập sơ qua về chuyện Thiền Định hay là nói đến Thiền. Thú thật, chúng tôi không có kiến thức hay nghiên cứu nhiều về Thiền, tất nhiên nói về chuyện nầy thì thật là nông cạn, tuy nhiên tôi có vài suy nghĩ sau:

Khi mình trở về già, hay không bận lo nhiều về vấn đề nhân sinh: Cơm, áo, gạo, tiền, gia đình, con cái, cuộc sống…thì người ta thường được sống trong cảnh tĩnh lặng, bình yên để có những lúc trầm tư, nghiền ngẫm những giai đoạn đã qua, nhìn lại cái quá khứ tìm ra cái đúng, cái sai mình đã làm; cái thiện, cái ác mình đã gieo vân..vân…Cái hiện tượng ấy giống như mình đang ngồi bên bờ hồ nước, lặng nhìn hồ bớt đi các làn sóng lao xao, dao động để rồi dần lặng yên, ta nhìn từng lúc. Nếu mặt nước càng yên chừng nào ta lại càng nhìn rõ được đáy hồ và tìm thấy những gì ở dưới đáy, càng cố nhìn thì ta càng thấy rõ ràng hơn. Có khi nào bạn nghĩ đến ta thấy được một vật quý giá dưới đáy hồ, giống như ta tìm thấy được cái Phật Tánh khi mình lắng Tâm xao động để đi tìm nó không? Đúng như thế bạn ạ, khi ta cố lắng lòng, yên tĩnh ấy qua Sự Thiền Định, khi đã Định được Tâm ta sẽ có được Tuệ và ta sẽ tìm thấy được cái quý giá mà ta có.

Thiền Định hay thường nói là Thiền, vậy Thiền là gì? Tức là một trạng thái lấy sự tĩnh lặng; cố gắng giữ cho tâm, ý không bị loạn động như ta làm cho mặt nước của hồ không còn lao xao, sóng gợn để từ đó ta có thể đi vào khám phá một thế giới sâu thẳm của cuộc sống gọi là thế giới Tâm Linh, mà ở trên ta đã thí dụ như thấy được vật chìm đắm dưới đáy hồ. Thông thường, trong con người có Tâm và Ý để thể hiện tư tưởng, khởi niệm cho những hành động, ước muốn, việc làm, tạo tác, điều khiển mọi hành động của chúng ta. Tuy nhiên tâm luôn biến chuyển, vọng động, thay đổì không ngừng; ý cũng vậy cho nên từ ngữ trong Đạo Phật ví dụ hai thứ đó giống như con ngựa không cương, khó kiềm hãm và con vượn nhảy lăng xăng nên gọi là “Tâm viên, ý mã” (Tâm như con vượn, ý như con ngựa). Muốn kiềm chế chúng không là dễ! Thiền là tìm cách chế ngự, cho chúng nằm im để chúng ta đi vào thế giới siêu hình mà khám phá, tìm được cái “Tâm Thanh Tịnh” của chính mình, để thấy “Hoa khai kiến Phật, ngộ vô sinh”, tức là cái Phật tánh, Bản Lai Diện Mục của chính mình và thành Bậc Giác Ngộ, và có thể biết được những gì mà Đức Phật, hay các chư Phật trong thời quá khứ, hiện tại, vị lai trong Tam Thiên Đại Thiên đã “Thấy, Biết”!

Người ta đề cập đến “Tứ oai nghi” để Thiền. Tứ oai nghi là bốn tư thế: Đi, đứng, nằm, ngồi, Thiền trong tư thế nào cũng được cả. Tuy nhiên đứng, nằm, ngồi dễ hơn, còn trong khi đi người ta chỉ chú tâm để định thần vào công việc, mục tiêu nào đó chứ không thể là thể Tĩnh lặng hoàn hảo để thực hành Thiền Quán. Tư thế tốt nhất vẫn là nằm hay ngồi, nằm khiến người ta dễ đi vào giấc ngủ (hôn trầm), và phương pháp ngồi vẫn được chọn, ưa chuộng nhiều hơn. Vì ngồi khiến cho người ta Thiền được trong thời gian dài hơn mà không bị buồn ngủ, hôn trầm. Tuy nhiên, tùy theo cơ thể, sức khoẻ người thực hành chọn cho mình cách thức thích hợp. Ngồi Thiền không nhất thiết là phải kiết già, sao cho mình cảm thấy thoải mái trong thời gian dài mà không bị trở ngại, khó khăn; nhưng với cách ngồi kiết già thì người Thiền đã quen có thể giữ vững cơ thể trong thời gian rất là dài, không phải nhúc nhích, loạn động, thì sự động tâm không còn trở ngại khiến ta khó “định” được tâm, ý hay nói nôm na là tinh thần!

 

Nguyên Thảo,

10/03/2025.

 


Saturday, March 1, 2025

*Góc Nhìn! (1)

 

Sau hai chữ “Góc Nhìn” tôi xin phép đặt dấu chấm than (!) để nói lên những điều sẽ được đề cập đến. Đây chỉ là những khái niệm hạn hẹp mà chúng tôi đã từng suy tư, góp nhặt khi đi tìm hiều về giáo lý Nhà Phật, cũng như vài cái nhìn phiến diện của mình qua những sự việc đang xảy ra trên đường phố, dù là ở trên quê hương hoặc tại nơi xứ người theo hiện tượng của Thầy Thích Minh Tuệ.

Thú thật, trước kia tôi chẳng quan tâm gì về một nhà sư đi bộ hành trên đường Bắc Nam dọc theo các nẽo đường đất nước, cũng như không quan tâm về các tu sĩ Phật Giáo của các tu viện, hoặc những phái tu hay đường tu của họ; mặc dù có nhiều lần tôi theo dõi trực tiếp các buổi thuyết pháp của nhiều vị sư thuộc nhiều tông phái khác nhau, hay trên “internet” đã được các vị sư đưa lên trong tinh thần muốn tìm hiểu sâu hơn về giáo pháp, mong cầu có được một số kiến thức nào đó làm hành trang cho mình đang trên lúc về già. Bởi vì mình chưa có “căn” để tu hay hành một chút gì đó thuộc về của giới tu hành, do hình tướng xấu xí, thô kệch, nên không bao giờ dám mạo muội, luận bàn, phê phán những việc làm của họ.

Dĩ nhiên, khi nói đến Đạo Phật là chúng ta sẽ nghĩ ngay đến Thái Tử Sít-Đạt-Ta từ bỏ vợ đẹp con thơ, từ bỏ mọi quyền lực, giàu sang mình sẽ có để đi tìm Đạo, mong cầu một sự giải thoát trong cuộc sống đầy khổ hải của trần gian. Vì sự việc cá nhân ấy, Ngài phải dấn thân vào một cuộc sống hoàn toàn khác biệt có lúc trước chỉ sau một đêm từ bỏ. Sau 6 năm tìm thầy học đạo, thay đổi phương cách thực hành, Ngài vẫn chưa thỏa mãn với những gì mà Ngài nhận được. Cho nên một ngày, Ngài quyết chí tìm cho ra chân lý và thệ nguyện “Dù có chết cũng không bước khỏi chỗ nầy nếu chưa tìm được đạo”. Thế rồi, với 49 ngày đêm quyết tâm, ánh đạo đã hiện ra dưới cội cây mà sau nầy người ta gọi tên cho nó là cây Bồ Đề. Ngài trở thành Bậc Giác Ngộ, với cái “nhận biết” được kiểm chứng, chứng thực Ngài trở thành bậc Thầy, bậc Đạo sư để đi các nơi truyền bá, giải thích cho cái giáo lý ấy mong cầu chúng sinh được “khai mở (Khai); thấy, hiểu (Thị), nhận lấy (Ngộ), Thâm nhập và thực hành (Nhập) những tri kiến mà Bậc Phật đã khám phá được để tự giải thoát cho chính mình, vì một lẽ “Ai ăn nấy no, ai tu nấy đắc”, “Nghiệp Nhân Quả không ai thay thế cho ai, và cũng không ai gỡ cho mình được”. Do vậy: “Hãy tự mình thấp đuốc lên mà đi” theo con đường mà Ngài đã chỉ, hướng dẫn

Giáo pháp ấy có phải Ngài đã đặt hay bày ra? Tất nhiên là không phải! Giáo pháp ấy là những quy luật hiển nhiên trong vũ trụ và với Sự Giác Ngộ mà Ngài đã khám phá, nhận biết, rồi đúc kết thành hệ thống đem giảng giải cho mọi người, chúng sinh; và tùy theo căn cơ, nhận thức của từng giới mà Ngài nói từ thấp đến cao.

Thế nào là căn cơ? Căn cơ là “cái nguồn gốc Giác Ngộ”, hay “chỉ số Phật Tính” của từng cá nhân con người, chúng sinh mà họ có trong cơ thể, tâm tính hiện thời do nhiều đời, nhiều kiếp trước họ tạo điều Thiện nhiều hay ít, mà ngày nay họ sẽ được gần với Phật pháp, Sự Giác Ngộ ít hoặc nhiều. Tôi muốn kể vài ví dụ cho Quý vị nhìn rõ hơn về điều ấy. Giả sử vài người khi nói đến tu sĩ hay cái chùa nào đó mà họ không thích nghe, đôi khi còn chống báng, gạt phăng thì họ chưa có “căn” nào cả. Có người không ý kiến đó là sự bình lặng, vô thưởng vô phạt giống như người đi ngang qua cảnh chùa không hề quan tâm đến, chẳng nhìn đến cổng chùa. Có người đứng lại nhìn cổng và cảnh chùa. Rồi có người bước đến cổng chùa. Người thì đi vào trong sân, người thì vào chùa. Và xa hơn nữa đi vào trong chùa; lên Chánh điện lễ Phật; hoặc đi tìm kinh điển để nghiên cứu; hay tham gia vào các buổi đọc tụng kinh, nghe giáo lý. Hoặc xa hơn nữa là thực hành lối tu, tới việc xuất gia “cắt ái, từ thân”, “ăn cơm Như Lai, mặc áo Như Lai, thực hành theo Như Lai”. Đó là hình ảnh để chứng tỏ mỗi con người có căn “giác ngộ” khác nhau.

Tại sao làm điều Thiện lại quan trọng trong Đạo Phật như thế đấy? Cái Định Luật quan trọng nhất trong Đạo Phật là Định Luật “Nhân Quả”. Nói đơn giản là mình gieo “hạt” nào thì về sau sẽ nhận được “trái” nấy, như gieo trồng hạt chanh thì sau được trái chanh chua, hoặc gieo hạt xoài thì sẽ được trái xoài ngọt như thế nào. Để hiểu xa hơn “hạt giống” trong Đạo Phật là gì? Những hạt giống ấy với tiếng Hán Việt gọi là “chủng tử”, là danh từ thường được dùng trong môn Duy Thức Học, hay còn gọi là môn Tâm Lý Học Phật Giáo. Chủng tử là “kết quả, kết tinh” của mỗi hành động mà con người, chúng sinh làm ra hàng ngày bằng hành động từ thân xác (thân), lời nói (khẩu), suy nghĩ (ý); và những “tạo tác” ấy có thể thuộc về Thiện, Ác, hoặc Không Thiện, Không Ác. Chúng lập đi lập lại hàng ngày nhiều lần suốt trong đời sống tạo thành thói quen gọi chung là “Nghiệp”. Như vậy Nghiệp của con người, chúng sinh giống như “một cái túi” mang nhiều chủng tử có cả tốt lẫn xấu, hay là Thiện, Ác, Không Thiện Không Ác. Khi con người, chúng sinh chết đi thì như trong câu chuyện bốn bà vợ: Tiền tài, thân xác, người thân đều từ bỏ ta, chỉ có bà vợ Nghiệp đi theo mãi mãi; và chính cái túi Nghiệp nầy, cùng những chủng tử trong đó, quyết định Sự Tái Sinh của chúng sinh sẽ về cõi nào trong kiếp sau, khi một số chủng tử nào đó sẽ được nẫy mầm, trổ quả. Hạt giống thiện nhiều thì kiếp đó chúng sinh được Phước (đẹp đẽ, may mắn, hạnh phúc, giàu sang…), hạt giống Ác sẽ chịu Khổ (khổ cực, gian truân, nghèo khổ, xấu xí…), những hạt Không Thiện, Không Ác thì Vô hại! Do kết quả như thế, trong Đạo Phật khuyên chúng sinh nên làm việc Thiện, tránh xa các việc Ác. Trong “Túi nghiệp” mang đi nhiều đời, nếu hạt giống Ác càng ít chừng nào thì “Sự Trở Về” với “Chơn Tâm” càng nhanh; hay nói một cách khác là “Thành Phật” hoặc “Bậc Giác Ngộ” càng nhanh hơn.

Đến đây, chắc Quý Vị có thể hình dung ra được một vấn đề quan trọng khác là “Sự Tùy Duyên” mà trong Đạo Phật hay sử dụng đến, hoặc “Có Duyên thì gặp lại! Hết Duyên thì tan, thì lìa xa” phải không? Trong cái túi Nghiệp mà chúng sinh mang đi trong sáu cõi Luân Hồi (Lục Đạo Luân Hồi: Trời, Người, Atula, Ngạ quỷ, Súc sinh và Địa Ngục) đó gồm có vô số hằng hà Nhân thiện, ác, không thiện không ác; nhưng chỉ có số chủng tử nào đó sẽ nẫy mầm, có kết quả trong kiếp nầy thôi vì chúng đã đến độ chín mùi, đủ điều kiện để phát triển. Tùy theo hạt giống đó liên hệ với ai, và những ai trong kiếp trước thì mình sẽ có liên hệ với người đó trong kiếp nầy: Có thể là quan hệ cha mẹ, con cái, vợ chồng thân thuộc hay là kẻ thù, nợ nần với nhau đến để đòi nợ, làm khổ nhau. Do vậy mà Đức Phật đã nói: Chúng sinh trong nhiều kiếp đã là cha mẹ, con cái lẫn nhau.

 

Nguyên Thảo,

02/03/2025. 

 


Saturday, February 15, 2025

* Chuyện Con Rùa Mù.


Trong Kinh Tạp A Hàm của Nhà Phật có câu chuyện kể lại rằng:

“Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật trú tại bờ ao Di Hầu, nơi giảng đường Trùng Các.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ kheo:

-Ví như đất liền đều thành biển lớn, có một con rùa mù sống vô lượng kiếp, một trăm năm mới trồi đầu lên một lần, trong biển có một khúc gỗ nổi, chỉ có một cái lỗ, lênh đênh trên sóng nước theo gió trôi dạt Đông Tây thì con rùa mù một trăm năm mới trồi đầu lên một lần, sẽ gặp được cái lỗ hổng nầy chăng?

Tôn giả A Nan bạch Phật:

-Thưa Thế Tôn! Không thể được. Vì sao? Vì con rùa mù nầy, nếu đến biển phía Đông thì khúc gỗ theo gió hoặc tới biển phía Tây, Nam, Bắc, xung quanh; cũng vậy khắp bốn phía không dễ gì gặp được.

Phật bảo A Nan:

-Con rùa mù và khúc gỗ nổi tuy sai trái nhau, có thể gặp được; còn kẻ phàm phu ngu si trôi nổi trong năm đường, tạm được thân người còn khó hơn việc trên. Vì sao? Vì các chúng sanh ấy không thực hành nghĩa, không thực hành pháp, không thực hành điều lành, không thực hành chơn thật, xoay vần sát hại, kẻ mạnh lấn lướt người yếu, tạo ra vô lượng điều ác. Bởi thế, nên Tỳ kheo đối với Bốn Thánh đế chưa hiện quán, nên siêng năng phương tiện, khởi ý muốn tăng thượng, tu học hiện quán.

Phật nói kinh nầy xong, các Tỳ kheo nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Trong chuyện nầy Đức Phật ví thân phận chúng sinh lăn lộn trong sáu cõi Luân Hồi giống như là con rùa vậy. Con rùa ấy không thấy đường làm sao biết khúc gỗ trôi ở đâu, trong khi mình cả trăm năm mới trồi đầu lên một lần để tìm lỗ mà chui vào mong cầu giải thoát. Thời gian đó thật là dài, và việc tìm sự giải thoát cũng khó khăn vô cùng. Tại sao? Vì chúng sinh tạo nghiệp trong từng kiếp, thiện ác đều có cả, cho nên do những nghiệp ấy khiến cho kiếp sau mình sẽ đi đâu, có chắc mình được làm người nữa không? Hay tái sinh về cõi Trời, hoặc vào Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh hay nằm trong cõi A Tu La; nếu ở các cõi đó thì không có Phật pháp để tu hành dù cho là trong cõi Trời sung sướng đi nữa. Vậy thì biết đến bao giờ mới được trở lại làm kiếp người để có được Phật pháp mà tu, mong cầu sự Giác Ngộ và Giải Thoát. Mà nếu đã làm người mà không hiểu đời người đau khổ như thế nào? Vì sao đau khổ? Làm sao để chấm dứt khổ đau? Và con đường nào để không còn đau khổ? Nếu chẳng mong cầu không đau khổ nữa thì chưa phải là trí. Chưa hiểu về Tứ Thánh Đế, chưa nghĩ đến con đường giải thoát thì sẽ tệ hơn con rùa mù! Vì sao? Vì Đức Phật giảng giải: “Vì con rùa mù và khúc gỗ tuy sai trái nhau, có thể gặp được; còn kẻ phàm phu ngu si trôi nổi trong năm đường, tạm được thân người còn khó hơn việc trên”. Tại sao vậy? Vì con rùa mù dù vậy trong một thời gian dài nào đó có thể may mắn gặp được cái lỗ để chui vào, nhưng kiếp nầy được làm con người tức là đang đứng tại nơi có Phật Pháp, đủ tính chất để thoát ra ngoài vòng Luân Hồi đau khổ, với điều kiện chỉ cần hiểu biết, nhận thức để tu tập, ít ra, nếu chưa đủ duyên thì vẫn được trở lại kiếp người để hoàn thành con đường giải thoát. Nhưng ngược lại, được làm con người mà không tu tập, cứ mãi mê tham ái, sát, đạo, dâm, vọng, theo dục lạc, tạo nghiệp ác… thì những kiếp sau vẫn mãi cuốn trong lục đạo Luân hồi và biết đến bao giờ trở lại làm người để mà tu. Thế được thân người quả là “Nhân thân nan đắc” hay “Thân người khó đặng” là vậy? Theo Đồ tôi nghĩ như vậy, còn Quý vị thì nghĩ sao?

 

Đồ Ngông,

30/07/2024.

  

Friday, January 31, 2025

 

Kính chúc Quý độc giả một năm mới An Khang, Thịnh Vượng nhiều sức

khoẻ và Vạn Sự Như Ý!


Thursday, January 23, 2025

*Cuốn Theo Chiều Gió! (6)

 

Sở dĩ Đạo Phật thâm nhập vào nếp sống của người Trung Hoa, hay bất cứ dân tộc nào khác nơi mà nó đến, một cách dễ dàng là do cái tính triết lý của nó. Cái tính triết lý ấy lấy nếp sống, con người làm trung tâm trên cung cách đối xử lẫn nhau cùng với tính cách hài hòa, đạo đức; vạch trần cái khổ, chỉ cái vui của cuộc đời để người ta tiến đến; nhất là các hiện tượng tâm lý, gút mắc trong cuộc sống mà nhiều tôn giáo khác không thể giải thích. Và sau nầy người ta sắp xếp lại thành hệ thống tâm lý, gọi là Tâm lý học Phật Giáo hay là Duy Thức Học. Ngoài ra, Đạo Phật còn đề cập đến những vấn đề siêu hình mà qua đó chỉ rõ con người chết sẽ đi về đâu (do nghiệp dẫn đi), và làm thế nào để tự mình cứu rỗi lấy mình mà không cần đến một vị Thần Linh. Do đó, trong Đạo Phật không đề cập đến Vị Thần Linh tối cao, quyền năng nào cả. Có lẽ chính vì điều đó mà nhiều người xem Đạo Phật không phải là Tôn Giáo như quan niệm Tây Phương đã suy nghiệm. Đạo Phật hòa quyện cùng nếp sống tâm linh cũng như tinh thần của con người ở khắp mọi nơi, bất cứ nơi nào mà nó đến. Chính vì thế nó cũng đến Trung Quốc đã không tạo nên sự độc lập, riêng tư, mà lại hòa quyện với những chủ trương, triết thuyết của Khổng Giáo, Lão Giáo, cùng những đức tin từ dân gian trong nếp sống của dân chúng, nhưng đặc biệt về giáo lý vẫn không bị biến chất.

Phật giáo phát triển ở Trung Quốc có một nét đặc biệt hơn cả các Phật Giáo trên thế giới, đó là về nền võ thuật từ Thiếu Lâm Tự do Bồ Đề Đạt Ma truyền lại. Chuyện kể Ngài là người miền Nam Ấn, là con thứ 3 của nhà vua Pallawa Tamil, khi xuất gia Ngài rất thông đạt về giáo lý và tu hành nên được Tổ thứ 27 truyền lại, Ngài trở thành Tổ thứ 28 bên Ấn Độ. Nhưng khi Ngài sang Trung Quốc đi tới núi Tung Sơn rồi Thiền Định tại đây trong vòng 9 năm chỉ “diện bích” (quay mặt vô vách) mà không nói. Sau nhận đệ tử là Huệ Khả trao truyền lối tu thiền ở Trung Quốc, và Ngài trở thành Tổ thứ nhất của Thiền Tông Trung Hoa, Huệ Khả là Đệ Nhị Tổ. Ngài cũng truyền bá Võ Thuật cho những người phụ giúp trong việc dịch, quảng bá Kinh sách để nhằm luyện sức khỏe, sau nầy môn võ trở thành nền võ thuật của Thiếu Lâm Tự. Không biết môn võ thuật có truyền sang các ngôi chùa ở các ngọn núi khác như: Nga Mi, Cửu Hoa Sơn… không? Nhưng nó cũng là nguồn động lực cho các câu chuyện kiếm hiệp được các nhà văn trước tác ra sau nầy; và chúng cũng được dựng thành phim gọi là phim kiếm hiệp Trung Hoa. Tuy nhiên, có điều chắc chắn là Phật Giáo ở nước nầy bao gồm có cả Bắc Truyền theo “Con đường tơ lụa”: Lấy Đại Thừa làm cơ bản, với hệ thống Kinh điển từ Tiếng Sankrit dịch sang Hán Ngữ để sau đó lan truyền sang Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan và miền Bắc Việt Nam. Và cũng có Phật Giáo Nam Truyền: Từ Nam Ấn qua Sri Lanka, sang vùng Đông Nam Á rồi đến Trung Hoa qua ngõ thuộc Tỉnh Quảng Đông với Kinh điển chữ Pali và thuộc hệ thống Thượng Tọa Bộ. Ngoài ra lại có Phật Giáo Mật Truyền (Mật Tông) qua nhánh Tây Tạng, Nepal, Bhutan rồi đến Mông Cổ với Kinh điển bằng ngôn ngữ Tây Tạng theo hệ phái Kim Cang Thừa.

Ngoài ra, trong Phật giáo Trung Hoa người ta thường đề cập đến những giai thoại tu tập của các vị tu sĩ được giác ngộ, đạt đến phẩm hạnh của các vị Bồ Tát cần có như ở núi Nga Mi (Tỉnh Tứ Xuyên) là nơi tu luyện của Phổ Hiền Bồ Tát; Ngũ Đài Sơn (Tỉnh Sơn Tây) là nơi hóa thân của Văn Thù Bồ Tát; Cửu Hoa Sơn có Địa Tạng Vương Bồ Tát; và Phổ Đà Sơn là nơi Quan Thế Âm Bồ Tát thị hiện. Rồi còn có chuyện Tế Công hay là Tế Điên Hòa Thượng, hoặc chuyện Bố Đại Hòa Thượng được xem là hình ảnh của Phật Di Lặc là vị Phật của thời đại Tương Lai.

Về chuyện dịch thuật các Kinh điển nhà Phật sang Tiếng Trung Hoa, thì lúc đầu do các nhà sư từ Ấn Độ, Tây Vực sang như An Thế Cao, Cưu Ma La Thập thực hiện. Sau có các nhà sư Trung Quốc sang Ấn Độ học tập, và thỉnh Kinh về rồi dịch thuật như Ngài Chu Sĩ Hành đời Tam Quốc, Pháp Hiển đời Đông Tấn, và Huyền Trang đời Đường. Song song vào đó việc in ấn xuất bản Kinh điển Phật giáo cũng được tiến hành theo từng thời kỳ, nhất là trong thời kỳ Nhà Tống đã có 5 lần khắc bảng ván để ấn hành Đại Tạng Kinh: Từ Thục Bản là bộ Đại Tạng Kinh  đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo của Trung Quốc, với hơn 5000 quyển (bắt đầu từ năm 971 đến năm 983 thì hoàn thành); cho đến Đông Thiền Bản Tự có hơn 6000 quyển (1080-1112); Khai Nguyên Tự Bản (1112-1146) có hơn 6000 quyển; Tư Khê Bản (1132) có 6000 quyển, sau được khắc thêm bản nữa nên lại có tên khác là Tư Phúc Thiền Tự Bản. Và sau là Tích Sa Bản bắt đầu từ năm 1231 đến năm 1310 thì hoàn thành gồm 6326 quyển, nhưng bộ nầy đến cuối đời Nhà Nguyên thì bị thiêu hủy vì chiến tranh. Và cuối đời Nam Tống có hai bộ Đại Tạng Kinh khác là Phả Ninh Tự Bản và Hoằng Pháp Tự Bản ra đời.

Phật Giáo khi truyền đến Trung Quốc được biến chuyển và thay đổi nhiều để thích hợp với nền văn minh nầy; cùng đáp ứng với những suy nghĩ của các nhà tu hành, vì thế mà các chi phái khác được ra đời. Không như những thời trước, lúc đầu Tăng chúng chia thành hai phái bộ Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ đi về hai hướng. Và phái Tiểu Thừa phát triển ở phương Nam với hệ thống ngôn ngữ Pali. Như vậy, Phật Giáo ở đây có cả Đại Thừa về phương Bắc bằng ngôn ngữ Sankrit; Phái Kim Cang Thừa từ Tây Tạng lên ảnh hưởng đến Nepal, Bhutan, Mông Cổ với hệ chữ viết Tạng Ngữ; phương Nam thì có phái Tiểu thừa với ngôn ngữ Pali.

Tại Trung Quốc, tất cả giáo lý Đạo Phật còn được chuyển dịch rộng rãi sang Hoa Ngữ. Và các nhà tu hành lại phát triển thành nhiều chi nhánh khác, gọi là các Tông phái như:

-Tịnh Độ Tông: Ra đời từ thời Nam Bắc Triều, nhưng đến đời Nhà Đường thì hoàn thành về giáo nghĩa và phát triển thịnh hành do hai vị Danh Tăng là Đạo Xước và Thiện Đạo. Tông nầy lại có 3 phân nhánh khác: Đạo Xước, Thiện Đạo kế thừa giáo nghĩa của Ngài Đàm Loan; nhánh của ngài Từ Mẫn và nhánh Tuệ Viễn xuất phát từ Lư Sơn của Ngài Tuệ Viễn.

-Luật Tông: Do nghiên cứu từ Tam Lậu Học (Giới, Định, Tuệ) mà các nhà sư Trung Quốc phát triển riêng thành Tam Luận Tông, Thiên Thai Tông, Hoa Nghiêm Tông theo Tuệ học; và do tu tập theo Định học mà có Thiền Tông; theo Giới học nên có Luật Tông, Luật Tông có 3 phái: Nam Sơn Tông, Tướng Bộ Tông và Đông Tháp Tông.

-Thiền Tông: Do Ngài Bồ Đề Đạt Ma, người từ Ấn Độ sang thành lập vào thời Nhà Lương, nhưng đến đời các vị Tổ Thần Tú và Lục Tổ Huệ Năng, giáo nghĩa mới hoàn tất và phát triển.

-Pháp Tướng Tông: Tông nầy dựa vào Tính và Tướng của các pháp nên gọi là Pháp Tướng, nhưng các pháp cũng đều do Thức phát sinh nên còn gọi là Duy Thức Tông, căn cứ vào các Kinh sách Giải Thâm Mật Kinh và Du Già Sư Địa Luận do Ngài Huyền Trang làm căn bản, nên Ngài Huyền Trang được xem như là Sơ Tổ.

-Câu Xá Tông: Dựa vào Câu Xá Luận làm Kinh căn bản cho Tông, xem mọi Pháp trong vũ trụ đều qui vào Hữu Vi Pháp và Vô Vi Pháp.

-Hoa Nghiêm Tông: Tông nầy khởi đầu từ sự nghiên cứu về Kinh Hoa Nghiêm sau khi Ngài Giác Hiền thời Đông Tấn dịch ra, cho đến đời Đường Ngài Pháp Tạng Hiền Thủ mới hoàn thành, như vậy Tông nầy căn cứ vào Kinh Hoa Nghiêm để tu tập.

-Mật Tông: Còn gọi là Mật Giáo hay Chân Ngôn Tông thành lập từ thời Đường do các Ngài Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí và Bất Không từ Ấn Độ truyền đến, căn cứ vào giáo lý của Kinh Đại Nhật và Kim Cang Đính.

-Thiên Thai Tông: Tông nầy được thành lập từ đời Tùy và rất thịnh hành, nhưng sang đời Đường thì phát triển yếu kém, đến khi Diệu Lạc Đại Sư thì mới phát triển lại nhưng vẫn không bằng như trước.

Như vậy, khi Đạo Phật đến đất nước Trung Hoa thì được các nhà tu hành phân tích các Kinh điển, giới luật, hay nhận định giáo lý và chọn cách tu nào thích hợp với quan niệm của họ nhất. Nhưng con đường tu nơi yên tĩnh, vắng lặng vẫn được ưa thích, chọn lọc; vì thế mà các chùa thường được xây dựng ở những nơi rừng cây hoặc các núi mà cần phải “san bằng đất đá” cho việc xây cất; để về sau nầy người ta hay gọi những vị sư đầu tiên tạo lập ngôi chùa bằng các chữ “người đã khai sơn phá thạch”. Không biết điều ấy có đúng như vậy hay chăng?

 

Nguyên Thảo,

23/01/2025.